Nạn Nhân Thứ Tư - Chương 04 - Phần 1

BỐN

Moore và Rizzoli ngồi vã mồ hôi trong ô tô. Luồng khí nóng kêu ầm ĩ qua lỗ thông hơi xoay chiều. Họ đã bị mắc kẹt mười phút trong đám xe cộ và chiếc xe không mát mẻ lên chút nào.

- Những người nộp thuế nhận được những gì họ phải chi trả. - Rizzoli bực tức. - Chiếc xe này chỉ là món đồ chơi.

Moore đóng cánh quạt điều hòa, cuộn cửa xuống. Không khí nóng bức và chất thải xe cộ bay vào xe. Người anh ướt đẫm mồ hôi. Anh không hiểu nổi tại sao Rizzoli vẫn có thể mặc chiếc áo cộc tay như quân phục được. Anh đã cởi áo khoác ngay khi họ ra khỏi Trung tâm y tế Hành hương. Một làn không khí ẩm ướt dày đặc bao trùm lấy họ. Anh biết chắc chắn cô cảm thấy hơi nóng vì anh thấy mồ hôi lấp lánh trên môi cô. Có lẽ đôi môi đó chưa bao giờ tiếp xúc với thỏi son nào. Rizzoli trông không xấu, nhưng thay vì có thể làm da mềm nhờ trang điểm hay đeo bông tai thì Rizzoli dường như rất ngoan cố và che giấu sự quyến rũ của chính mình. Cô mặc những bộ com-lê tối màu. Chúng không thể tôn thân hình mảnh mai của cô. Tóc cô trông như một búi lọn xoăn lộn xộn. Cô chỉ là cô. Người khác phải chấp nhận điều đó, nếu không muốn xuống địa ngục. Anh hiểu tại sao cô có kiểu hành xử tùy người khác nghĩ sao thì nghĩ, có thể cô cần làm như vậy để là một nữ cảnh sát. Rốt cuộc Rizzoli là người sống sót.

Giống như Catherine Cordell cũng là người may mắn sống sót. Nhưng Cordell đã áp dụng một chiến lược tồn tại khác: đó là rút lui, tạo khoảng cách. Trong suốt thời gian thẩm tra, anh có cảm giác anh đang nhìn cô qua một tấm kính mờ. Dường như cô quá xa vời.

Chính sự khác biệt đó khiến Rizzoli khó chịu.

- Cô ấy có vấn đề gì đó. - Rizzoli thắc mắc. - Có cái gì đó thiếu sót về mặt tình cảm và cảm xúc.

- Cô ấy là một bác sỹ phẫu thuật chấn thương. Cô ấy đã rèn luyện cho bản thân phải lạnh lùng.

- Đúng, lạnh như băng vậy. Hai năm trước, cô ấy đã bị trói, cưỡng bức và suýt nữa thì bị mổ xẻ. Giờ cô ấy lạnh lùng về chuyện đó đến mức khó chịu. Điều đó khiến tôi băn khoăn.

Moore dừng xe lại trước đèn đỏ. Anh ngồi trên xe, nhìn khu ngã tư ùn tắc. Mồ hôi nhỏ từng giọt trên lưng anh. Anh làm việc không được tốt khi trời nóng, nó khiến anh cảm thấy bơ phờ và ngu muội. Nó khiến anh mong cho mau đến cuối hè và khao khát sự tinh khiết của những bông tuyết đầu tiên của mùa đông…

- Này. - Rizzoli nhắc. - Anh có nghe không đấy?

- Cô ấy hoàn toàn tự chủ. - Anh thừa nhận. Nhưng đó không phải là băng đá, anh nghĩ và nhớ lại bàn tay Catherine đã run rẩy như thế nào khi cô trả lại anh những tấm ảnh của hai người phụ nữ.

Khi trở lại văn phòng làm việc, anh uống một long cô-ca ấm và đọc lại bài báo được phát hành cách đây vài tuần trên tờ Quốc tế Boston: “Những người phụ nữ cầm dao”. Bài báo nói về ba bác sỹ phẫu thuật nữ ở Boston - thành công và những khó khăn của họ, những vấn đề đặc biệt họ gặp phải trong chuyên môn. Trong số ba bức ảnh, Cordell trông quyến rũ nhất. Không chỉ do cô rất xinh đẹp, mà đó là do ánh mắt của cô. Đôi mắt cô tự tin và thẳng thắn đến nỗi chúng như thách thức chiếc máy ảnh. Bức ảnh và cả bài báo đều khắc sâu ấn tượng rằng người phụ nữ này hoàn toàn làm chủ cuộc sống của mình.

Anh bỏ bài báo sang bên và nghĩ xem những ấn tượng đầu tiên có thể nhầm lẫn mức nào. Một nỗi đau có thể dễ dàng che giấu bằng một nụ cười hay một chiếc cằm hếch lên ngạo nghễ như thế nào.

Giờ anh mở hồ sơ khác. Anh hít sâu một hơi, rồi đọc lại báo cáo của cảnh sát ở Savannah về Andrew Capra.

Capra được biết đến lần đầu tiên khi hắn giết một sinh viên y khoa năm cuối tại Đại học Emory ở Atlanta. Nạn nhân là Dora Ciccone, sinh viên chưa tốt nghiệp tại Đại học Emory. Thi thể cô được tìm thấy, bị trói trên giường tại căn hộ thuê bên ngoài. Người ta tìm thấy dấu vết của thuốc Rohypno khi khám nghiệm tử thi cho cô. Căn hộ của cô không có bất cứ dấu vết bị xâm nhập nào.

Nạn nhân đã mời kẻ giết người về nhà.

Khi bị tiêm thuốc xong, Dora Ciccone bị trói vào giường bằng dây ni-lông. Cô bị dán băng dính ống nhựa vào miệng nên không la hét được. Đầu tiên, tên sát nhân cưỡng bức cô. Rồi hắn cắt mổ bộ phận trên người cô.

Khi đã cắt và lấy đi chiến lợi phẩm, hắn thực hiện hai nhát cắt: một nhát cắt duy nhất rất sâu ngang cổ: từ trái sang phải. Mặc dù cảnh sát có mẫu ADN từ tinh trùng của tên sát nhân nhưng họ không có manh mối nào. Cuộc điều tra rất phức tạp vì Dora được mọi người biết đến là một cô gái rất ham tiệc tùng. Cô thích lui tới các quán rượu địa phương và thường đưa những người đàn ông mới gặp về nhà.

Vào đêm cô chết, người đàn ông cô đưa về nhà là một sinh viên y khoa tên là Andrew Capra. Nhưng cảnh sát không hề chú ý đến tên Andrew Capra cho đến khi ba cô gái khác bị giết tại thành phố Savannah, cách đó hai trăm dặm.

Cuối cùng, vào một đêm tháng sáu oi bức, những vụ giết người đó chấm dứt.

Catherine Cordell, ba mươi mốt tuổi, trưởng bộ phận phẫu thuật tại bệnh viện Riverland ở Savannah giật mình khi có người gõ cửa. Khi mở cửa, cô thấy Andrew Capra, sinh viên thực tập tại phòng phẫu thuật của cô đang đứng ngoài mái hiên. Cách đó một hôm, tại bệnh viện, cô đã khiển trách hắn vì hắn đã mắc lỗi. Và giờ hắn tuyệt vọng tìm cách chuộc lỗi. Hắn muốn vào để nói chuyện với cô về việc đó.

Trong khi uống bia, họ xem xét lại việc thực tập y khoa của Capra, những lỗi lầm hắn mắc phải, những người bệnh có thể đã bị hại do sự bất cẩn của hắn. Cô không hề che giấu sự thật rằng: Capra đã thất bại và sẽ không được phép hoàn thành chương trình thực tập. Rồi sau đó Catherine rời phòng khách, vào nhà vệ sinh, quay lại tiếp tục cuộc nói chuyện và uống nốt chỗ bia.

Khi cô tỉnh lại, cô thấy mình bị lột truồng, bị trói vào giường bằng dây ni-lông.

Báo cáo của cảnh sát đã miêu tả chi tiết cơn ác mộng diễn ra sau đó.

Những bức ảnh chụp cô trong bệnh viện cho thấy một phụ nữ với cặp mắt như bị ma ám. Má bị một vết thâm tím và sưng to. Những gì anh nhìn thấy trong bức ảnh được tóm gọn lại bằng một từ duy nhất: nạn nhân.

Đó không phải là từ dành cho người phụ nữ kỳ lạ mà anh gặp hôm nay.

Khi đọc lại những lời khai của Cordell, anh có thể nghe thấy giọng nói của cô trong đầu mình. Những lời nói đó không phải của một nạn nhân vô danh mà của một phụ nữ anh biết mặt.

Tôi không biết tôi cởi trói tay bằng cách nào. Lúc đó cổ tay tôi bị trầy xước hết nên chắc tôi đã lôi nó ra khỏi dây trói. Tôi xin lỗi, nhưng mọi việc trong đầu tôi không được rõ ràng. Tất cả những gì tôi còn nhớ là tôi cầm dao mổ. Tôi biết nhất định tôi phải lấy con dao mổ ra khỏi chiếc khay và tôi phải cắt dây trói trước khi Andrew trở lại…

Tôi nhớ tôi đã lăn sang bên kia giường. Tôi ngã xuống sàn, đập đầu xuống. Rồi tôi cố tìm khẩu súng. Đó là khẩu súng của bố tôi. Sau khi cô gái thứ ba bị sát hại ở Savannah, ông yêu cầu tôi giữ nó.

Tôi nhớ đã luồn tay xuống dưới giường, cầm lấy khẩu súng. Tôi nhớ những bước chân đi về phía phòng ngủ. Rồi tôi không chắc lắm. Hình như đó là khi tôi bắn hắn. Vâng, tôi nghĩ mọi việc đã xảy ra như vậy. Họ nói với tôi là tôi đã bắn hắn hai phát. Tôi nghĩ điều đó chắc là đúng.

Moore dừng lại, ngẫm nghĩ về những lời khai đó. Bộ phận Nghiên cứu Đường đạn đã xác nhận cả hai viên đạn được bắn từ khẩu súng của bố Catherine và được tìm thấy bên cạnh giường. Các bài thử máu tại bệnh viện xác nhận có chất Rohypno trong máu của cô, đó là một loại thuốc khiến người ta mất trí nhớ. Do vậy rất có thể trí nhớ của cô bị mất một phần, có thể do thuốc mất trí nhớ hay do chấn thương. Chỉ một cú đấm rất mạnh mới có thể gây ra vết thâm tím và sưng phồng như vậy. Cô không nhớ cô đã bị đấm và đấm khi nào.

Moore quay sang nhìn những tấm ảnh chụp hiện trường. Trên sàn nhà trong phòng ngủ, Andrew Capra đã chết, nằm úp mặt xuống sàn. Hắn đã bị bắn hai lần, một viên ở bụng, một viên ở mắt. Cả hai đều được bắn ở cự ly gần.

Anh nghiên cứu những bức ảnh rất lâu, chú ý tư thế của Andrew Capra và mẫu những vết máu.

Anh quay sang bản báo cáo của cảnh sát, đọc đi đọc lại nhiều lần.

Rồi anh lại nhìn tấm ảnh chụp hiện trường lần nữa.

Có cái gì đó không ổn ở đây, anh nghĩ. Những lời khai của Cordell rất vô lý.

Đột nhiên một bản báo cáo được đặt lên bàn anh. Anh ngước lên và giật mình khi thấy Rizzoli.

- Anh đã nhận được cái này chưa?

- Cái gì vậy?

- Bản báo cáo về sợi tóc tìm thấy ở mép vết thương của Elena Ortiz.

Moore nhìn câu cuối. Và anh nói.

- Tôi không hiểu điều này có nghĩa gì.

Vào năm 1997, nhiều bộ phận khác nhau của Phòng cảnh sát Boston hoạt động trong cùng một cơ quan. Cơ quan đó được đặt bên trong khu nhà mới xây tại Plaza One Schroeder, gần khu Roxbury tồi tàn và cũ nát của Boston. Các nhân viên cảnh sát gọi cơ quan mới của mình là “cung điện cẩm thạch” vì tòa nhà của họ dùng đá granit đánh bóng để xây hành lang phụ. Người ta thường nói đùa với nhau “Hãy cho chúng tôi vài năm để bày bừa nơi này và chúng tôi sẽ có cảm giác nó là nhà của chúng tôi”. Schroeder Plaza không giống với các sở cảnh sát tồi tàn mà người ta thường thấy trên ti vi. Đó là một tòa nhà hiện đại và sang trọng, sáng lên vì những ô cửa và ánh sáng tự nhiên. Bộ phận điều tra các vụ giết người có sàn nhà trải thảm và hệ thống máy tính hiện đại. Đáng lẽ nó phải dành cho một văn phòng thuộc tổng công ty nào đó. Điều mà các cảnh sát thích nhất về Schroeder Plaza là các nhánh của Sở Cảnh sát Boston có sự liên kết.

Các thám tử điều tra vụ giết người chỉ cần đi bộ xuống hành lang là đến phòng thí nghiệm hình sự. Nó nằm ở mạn trái của tòa nhà.

Tại Phòng Kiểm tra Tóc và Sợi vải, Moore và Rizzoli đang quan sát Erin Volchko, nhà khoa học chuyên về pháp lý, đang xem xét tỉ mỉ các túi đựng vật chứng.

- Tất cả những gì tôi nghiên cứu chỉ là sợi tóc đó. - Erin nói. - Nhưng thật kỳ diệu khi chỉ một sợi tóc lại có thể cho ta biết nhiều điều. Được rồi, nó đây rồi. - Cô tìm túi đựng có đánh số vụ án của Elena Ortiz, rồi cho nó lên kính hiển vi. - Tôi sẽ cho các bạn thấy trông nó như thế nào dưới kính hiển vi. Các số liệu đã được ghi lại trong bản báo cáo.

- Các con số này à? - Rizzoli hỏi và nhìn một chuỗi các mã số dài trên trang giấy.

- Đúng vậy. Mỗi mã số miêu tả một đặc điểm khác nhau của tóc, từ màu sắc và độ xoăn đến các đặc điểm siêu nhỏ. Sợi tóc này thuộc lớp A01 - một sợi tóc màu vàng đậm. Độ xoăn của nó thuộc loại B01, tức là xoăn và đường kính mỗi lọn xoăn không quá tám mươi. Nó không hẳn nhưng gần như thẳng. Độ dài của sợi tóc là bốn centimet. Thật đáng tiếc, sợi tóc này đã ở giai đoạn hình thành, vì vậy không có các biểu mô bao bọc quanh nó.

- Nghĩa là không có ADN.

- Đúng vậy. Telogen là quá trình kết thúc sự phát triển của ngọn tóc. Sợi tóc này rụng ra do tự nhiên, là một phần của quá trình rụng tóc tự nhiên. Nói cách khác thì nó không bị giật đứt. Nếu có bất cứ tế bào biểu mô nào ở ngọn tóc thì chúng ta có thể sử dụng hạt nhân bên trong để phân tích ADN. Nhưng sợi tóc này lại không có loại tế bào đó.

Rizzoli và Moore thất vọng nhìn nhau.

- Nhưng, - Erin nói thêm. - Ở đây chúng ta lại có một thứ khác khá có ích. Nó không hữu ích bằng ADN nhưng nó có thể được giữ lại khi ra tòa khi các vị đã tìm được kẻ tình nghi. Thật tệ là chúng ta không có sợi tóc nào trong vụ của Diana Sterling để đối chiếu - Cô nhìn vào ống kính hiển vi rồi đứng sang bên - Nhìn xem!

Chiếc kính hiển vi có kính quan sát để giải thích cho người xem nên cả Moore và Rizzoli có thể quan sát hình ảnh cùng lúc. Khi nhìn vào ống kính, vật Moore nhìn thấy là một sợi tóc bị gập cong bởi những nút phồng.

- Các nốt nhỏ đó là gì? - Rizzoli hỏi - Chúng không bình thường.

- Không chỉ bất thường, mà nó còn rất hiếm. - Erin giải thích. - Đó là một tình trạng mà chúng tôi gọi là Trichorrhexis invaginata, nó còn có tên khác là “tóc tre”. Các bạn có thể thấy tại sao nó có tên đó. Các nút nhỏ đó khiến nó trông như một đoạn thân cây tre, đúng không?

- Đó là các nút gì? - Moore tò mò.

- Đó là các khiếm khuyết lớn trong sợi tóc, là các điểm yếu khiến tóc tự gập lại, khiến người đó bị hói hay trọc đầu. Các nút phồng lên là các điểm yếu. Tại đó, sợi tóc bị thu ngắn lại và tạo thành các nút.

- Tại sao người ta lại bị như vậy?

- Thường thì tình trạng đó gia tăng khi làm đầu quá nhiều, nhuộm, buộc, đại loại như vậy. Nhưng vì có nhiều khả năng chúng ta đang đối đầu với một đối tượng tình nghi là nam và tôi không thấy dấu hiệu tẩy màu nhân tạo nên tôi nghiêng về khả năng đây không phải do làm đầu nhiều mà là một loại lỗi gen nào đó.

- Cụ thể là gì?

- Ví dụ như triệu chứng Netherton. Đó là tình trạng thoái hóa tóc tự nhiên, ảnh hưởng đến sự phát triển của chất sừng kê-ra-tin trong tóc. Chất sừng rất cứng, là một loại pro-tê-in dạng sợi được tìm thấy trong tóc và móng tay hay móng chân. Nó cũng là lớp ngoài cùng trên da chúng ta.

- Nếu bị lỗi gen thì chất sừng sẽ không phát triển bình thường và tóc bị yếu đúng không?

Erin gật đầu.

- Và không chỉ tóc bị ảnh hưởng. Những người mắc chứng bệnh Netherton thường cũng bị rối loạn trên da như tẩy đỏ hay tróc vảy.

- Vậy chúng ta đang tìm tên sát nhân bị bệnh gàu rất nhiều à? - Rizzoli hỏi.

- Có thể nó còn rõ hơn thế. Vài bệnh nhân mắc bệnh này còn mắc một chứng bệnh nặng tên là icthyosis. Da của họ khô đến mức trông giống như vảy cá sấu.

Rizzoli cười.

- Vậy là chúng ta đang tìm người bò sát! Điều đó sẽ thu hẹp phạm vi tìm kiếm.

- Không hẳn đâu. Vì bây giờ là mùa hè.

- Điều đó thì có liên quan gì?

- Cái nóng và sự ẩm ướt sẽ khiến da khô bớt thoái hóa. Trông hắn có thể hoàn toàn bình thường vào thời gian này trong năm.

Rizzoli và Moore nhìn nhau, họ có chung một suy nghĩ.

Cả hai nạn nhân đều bị giết vào mùa hè.

- Miễn là thời tiết oi bức này kéo dài. - Erin nói. - thì hắn vẫn như bao người khác.

- Bây giờ mới là tháng bảy. - Rizzoli lẩm bẩm.

Moore gật đầu.

- Mùa săn của hắn chỉ mới bắt đầu.

Bệnh nhân vô danh giờ đã có tên. Các y tá phòng cấp cứu đã tìm thấy một thẻ tên được gắn trên móc chìa khóa của ông. Ông ấy là Herman Gwadowski, sáu mươi chín tuổi.

Catherine đứng trong buồng bệnh thuộc Bộ phận chăm sóc đặc biệt sau khi phẫu thuật. Cô nghiên cứu một cách chuyên nghiệp những màn hình và các thiết bị được đặt quanh giường của ông. Đường tim điện tâm đồ bình thường hiện trên máy nghiệm dao động. Các đường động mạch ở mức một trăm mười trên bảy mươi. Sơ đồ đường tĩnh mạch trung tâm của ông lên xuống như những con sóng cồn trên biển nổi gió. Căn cứ vào những con số thì ca mổ của ông Gwadowski đã thành công.

Nhưng ông vẫn chưa tỉnh lại, Catherine nghĩ khi cô soi đèn pin vào con ngươi bên trái, rồi bên phải. Gần tám mươi tiếng sau ca mổ mà ông ấy vẫn trong tình trạng hôn mê sâu.

Cô đứng thẳng lên, nhìn ngực ông nâng lên hạ xuống theo nhịp quay của máy thông khí. Cô đã giúp ông ấy không bị chảy máu đến chết. Nhưng thực sự cô đã cứu vãn được gì? Một cơ thể có trái tim còn đập nhưng bộ não thì tê liệt chăng?

Cô nghe tiếng gõ cửa trên kính. Qua ô cửa phòng bệnh, cô thấy bạn đồng nghiệp của mình, bác sỹ Peter Falco. Anh đang vẫy tay chào cô. Khuôn mặt lúc nào cũng vui vẻ của anh có vẻ lo lắng.

Vài bác sỹ phẫu thuật nổi tiếng vì hay phát cáu trong phòng mổ. Có người hùng hổ lao vào phòng mổ và khoác áo choàng của họ theo cái cách mà người ta khoác áo choàng của hoàng đế. Có người lại tỏ ra là những kỹ thuật viên tài ba lạnh lùng. Với họ, bệnh nhân chỉ là một mớ dụng cụ kỹ thuật cần được sửa chữa.

Và rồi sau đó có Peter, Peter hài hước, cởi mở, luôn hát lạc điệu những bài hát chói tai của Elvis Presley trong phòng mổ, người tổ chức cuộc thi máy bay giấy trong văn phòng và vui vẻ bò bằng tay và đầu gối để chơi trò Lego với các bệnh nhân nhỏ tuổi. Cô đã quen nhìn thấy nụ cười trên khuôn mặt của Peter. Vì vậy khi thấy anh cau mày bên ô cửa phòng bệnh, cô bước ra khỏi phòng bệnh ngay.

- Mọi việc đã ổn chứ? - Anh hỏi.

- Mới xong các bước đầu.

Peter nhìn ống dẫn và đống máy móc quanh giường ông Gwadowski.

- Tôi nghe nói cô đã cứu sống ông ấy một cách tuyệt vời, một ca chảy máu cần mười hai đơn vị máu liền.

- Tôi không biết có nên gọi đó là cứu sống ông ấy hay không. - Cô quay lại nhìn người bệnh. - Mọi bộ phận đều hoạt động, trừ não.

Họ im lặng một lúc. Cả hai đều nhìn ngực ông Gwadowski nâng lên, hạ xuống.

- Helen nói với tôi là hôm nay cảnh sát đến gặp cô, có chuyện gì vậy?

- Không có gì.

- Lại quên không trả tiền phạt đỗ xe sai quy định à?

Cô cố cười.

- Đúng vậy, và tôi chỉ còn biết trông cậy vào anh thôi.

Họ rời Bộ phận chăm sóc đặc biệt, đi dọc hành lang. Peter cao lênh khênh thong thả đi bên cạnh cô. Khi họ vào thang máy, anh hỏi.

- Cô ổn chứ, Catherine?

- Sao anh hỏi vậy? Trông tôi không ổn sao?

- Thật chứ? - Anh nhìn kỹ mặt cô. Đôi mắt màu xanh dương của anh thẳng thắn đến mức cô có cảm giác anh đang nhìn thấu tâm trạng cô. - Có vẻ như cô cần một cốc rượu và một bữa ăn tối bên ngoài thật ngon. Cô muốn đi cùng tôi chứ?

- Một lời mời hấp dẫn đấy.

- Nhưng?

- Nhưng tôi nghĩ tối nay tôi sẽ ở nhà.

Peter ôm ngực như bị thương nặng.

- Lại bị bắn hạ! Hãy nói cho tôi biết, lời nào có thể thuyết phục nổi cô đây?

Cô cười.

- Anh phải tự tìm ra điều đó.

- Còn chuyện này thì sao? Một chú chim nhỏ bảo tôi rằng sinh nhật cô vào thứ bảy này. Hãy để tôi đưa cô đi bằng máy bay của tôi!

- Không được. Hôm đó tôi phải trực.

- Cô có thể đổi cho Ames. Tôi sẽ nói với anh ấy.

- Ôi, Peter. Anh biết tôi không thích bay mà.

- Đừng nói với tôi là cô có chứng bệnh sợ bay đấy nhé!

- Tôi chỉ không giỏi điều khiển khi lơ lửng thôi.

Anh buồn bã gật đầu.

- Tính cách cổ điển của một bác sỹ phẫu thuật.

- Đó là cách nói lịch sự rằng tôi là kẻ cứng nhắc.

- Vậy là sẽ không có buổi hẹn hò bay bổng nào sao? Tôi không thể khiến cô thay đổi ý kiến à?

- Tôi nghĩ vậy.

Anh thở dài.

- Ồ, đó là những lời của tôi. Tôi đã xài hết mọi tiết mục rồi.

- Tôi biết. Anh đã bắt đầu xào lại rồi đấy.

- Helen cũng nói vậy.

Cô nhìn anh ngạc nhiên.

- Helen có khuyên anh làm cách nào để mời tôi đi chơi không?

- Cô ấy nói cô ấy không thể chịu đựng được cảnh tượng đáng thương khi thấy một người đàn ông đập đầu vào bức tường rắn chắc.