Oan nghiệt - Chương 13 phần 1
Chương 13
Vào sáng thứ Tư, trước khi Banks đi làm, người đưa thư đến, thêm vào các hóa đơn thông thường là một bức thư nữa của ông luật sư của Sandra và một cái gói nhỏ hình chữ nhật. Banks để riêng bức thư để xem sau. Thấy địa chỉ người gởi, ông xé phong bì cái gói, lấy ra đĩa nhạc vừa thu âm chính thức đầu tiên của con trai ông, nhan đề Blue Rain (Mưa xanh) cùng với tờ giấy ghi lời cám ơn về việc Banks đã gởi cho cậu tấm ngân phiếu ba trăm bảng, số tiền làm giảm thiểu trầm trọng ngân sách dành uống uých ki Laphroaig của ông.
Trên bìa đĩa có in hình ban nhạc của cậu, Brian đứng ở giữa, dáng điệu lòng khòng trông lạnh lùng, điệu nghệ, mặc quần jean sờn mòn, áo tay cụt, một chùm tóc cố tình cho phủ xuống một bên mắt. Andy, Jamisse và Ali đứng hai bên. Các ảnh chụp không được rõ. - Có lẽ Sandra không đồng ý với ông về điểm này - và trông có vẻ giống như lấy từ một bức gốc có hình màu, nên trông lốm đốm đen trắng, Banks cũng không thích tên của ban nhạc; Jimson Weed nghe có vẻ kèm nhèm quá, nhưng ông biết gì mà nói?
Âm nhạc mới đáng kể, Banks vui mừng khi thấy ban nhạc ghi âm lại vào đầu đĩa bản Love Minus zero/ No limit của Dylan, bản nhạc mà ông đã rất kinh ngạc khi nghe họ chơi trong một dịp trình diễn nhạc sống. Các bản còn lại đều là những bản gốc do Brian và Jamisse cùng nhau sáng tác, không kể một bản của một nhạc sĩ lớn tuổi ở Mississippi tên là John Hurt, bản này có tên Avalon Blues. Họ không phải là ban nhạc êm dịu, buồn, nhưng nét êm dịu là nét có ảnh hưởng cơ bản lên nhạc họ, thỉnh thoảng nó phủ lên những yếu tố kích động, dân gian và nhảy nhót: như bản The Grateful Dead meet Snoop, Doogy Doog. Banks lại còn vui sướng một cách rất phi lý khi thấy trong những nhạc đệm, Brian đã cho ông cảm giác cậu đã được nuôi dưỡng trong môi trường âm nhạc từ lúc ấu thơ. Nghĩa là bố cậu không chỉ là cảnh sát mà thôi, nghĩa là bố cậu không muốn đi vào lĩnh vực âm nhạc đấy thôi.
Ông không có thì giờ để nghe dĩa nhạc trước khi đi làm. Nếu ông muốn nhân viên của mình được làm việc suốt ngày về vụ án của Emily, thì ông phải làm gương. Nghĩ đến công việc là ông lại nghĩ đến Annie, vì nghĩ đến cô mà đêm qua ông lại mất ngủ nữa. Ông không hiểu cô tìm thấy có gì đáng yêu trong Dalton, anh ta không làm sao so với ông được, vì trông anh ta buồn bã, đáng chán. Lại không có nét gì xinh trai nữa chứ. Nhưng, như ông đã biết, trong tình dục và tình yêu có những cái phi lý thật khó nói.
Ông chỉ muốn làm sao xua đuổi được hình ảnh của họ ra tâm trí thôi. Đêm qua ông cứ trằn trọc thao thức vì mường tượng ra cảnh họ làm tình đủ kiểu, Dalton đã làm cho cô sướng hơn ông nhiều, đã làm cô hưởng tột đỉnh lạc thú. Buổi sáng trời âm u ẩm ướt giúp ông tạm quên những hình ảnh họ yêu nhau, nhưng không làm sao quên được những ấm ức trong lòng. Làm việc với cô hóa ra khó khăn chứ không như ông tưởng. Có lẽ cô nói đúng, nhưng ông không thể dứt khoát với cô được.
Khi ông rẽ xa vào trung tâm thành phố và cho xe chạy chậm lại, ở nút xe cộ nhiều ở đường phố Chợ Bắc, phố xá đã mở cửa buôn bán làm ăn, ông phân vân tự hỏi không biết mọi người có đau khổ vì ghen tuông như ông không. Ông có tánh hay đau khổ vì ghen như thế; ghen đã làm ông chấm dứt mối liên hệ giữa ông với cô gái đầu tiên đã ngủ với ông.
Tên cô ta là Kay Summerville, cô ta sống cùng khu chung cư Peterborough với ông. Suốt mấy tuần liền, ngày nào ông cũng say mê nhìn theo cô đi qua, cô mặc chiếc quần jean và áo khoác, mái tóc vàng xõa dài đến giữa lưng. Cô ta có vẻ khó tán tỉnh, khó chinh phục được như hầu hết các cô mà ông theo đuổi, thèm muốn, nhưng bỗng một hôm khi cùng cô ta trên đường từ sạp báo trở về, ông đánh bạo rủ cô ta đi chơi, ông ngạc nhiên thấy cô ta bằng lòng.
Mọi việc đều tiến triển tốt đẹp cho đến khi Kay rời khỏi trường và có việc làm trong một văn phòng thành phố. Cô ta có bạn trai mới, bắt đầu đi nhậu đều đều với nhiều người sau khi làm việc xong vào ngày thứ Sáu. Banks vẫn còn đi học để lấy bằng A, mà còn học sinh thì sao hấp dẫn được bằng những người đã đi làm việc, lớn tuổi hơn một chút, áo quần bảnh bao, lịch thiệp hơn. Họ có nhiều tiền để chi rộng rãi, thậm chí quan trọng hơn nữa là họ có xe. Kay thì nhất quyết không chịu quan hệ tình dục bất hợp pháp, còn Banks lại đau khổ vì ghen tuông, vì cứ nghĩ người yêu phản bội, không chung thủy, và cuối cùng, Kay bỏ đi. Cô ta nói rằng cô ta không chịu được cảnh ông cằn nhằn cô khi cô nhìn ai, khi cô làm việc gì mà ông không ưng ý, và cô không chịu thái độ cáu kỉnh khi ông thấy cô nhìn người khác.
Sau đó một thời gian ngắn, Banks đến Luân Đôn và vào đại học. Một hai năm sau, sau nhiều lần quan hệ tình dục bất thường, ông gặp Sandra. Sau vài tháng khó khăn lúc ban đầu, khi ông nhận thấy ông muốn bà hết sức, không làm sao chịu đựng được ý nghĩ bà sẽ đi với người khác, ông thấy rằng nếu ông có quyết tâm cùng bà đi đến hôn nhân, thì không ai địch được với ông, và rồi suốt thời gian hai mươi năm ông rất ít khi phải gặp hoàn cảnh để phải ghen tuông. Rồi bà bỏ ông và Sean xuất hiện trong đời bà, hay ngược lại. Bây giờ đến lượt Annie. Ông bắt đầu cảm thấy mình là một chàng trai vị thành niên mặt đầy mụn, bị ám ảnh vì tình dục, và ông không thích như thế chút nào.
Mặc dù không cho dĩa vào máy hát, nhưng ông vẫn để nó trên ghế ngồi bên cạnh tay lái, mỗi lần ông cố quên không nghĩ đến hoàn cảnh khổ tâm của mình và nhìn xuống khuôn mặt của con trai trên bìa dĩa hát, ông lại cảm thấy tự hào. Banks tự nhủ mình rằng cuộc hôn nhân đã kết thúc một cách tồi tệ, nhưng ít ra cũng đã cho ông được hai người con, Brian và Tracy, có chỗ đứng vững vàng trên cõi đời này. Ông lấy CD lên rồi chạy dưới mưa để vào trạm cảnh sát. Khi vào trong văn phòng rồi, ông để dĩa hát lên bàn, hi vọng có ai ghé phòng, thế nào họ cũng hỏi.
Vì ngày thứ Ba là ngày giải quyết công việc giấy tờ, công việc điện thoại hay nhậu nhẹt lai rai, Banks hi vọng ngày hôm nay phải dẹp hết các thứ công việc ấy. Ông đã cử những nhân viên sắc phục và thường phục đi trưng ảnh của Gregory Manners, Andrew Handley, Jamie Gil-bert và Barry Clough cho dân chúng thấy. Nếu bốn tên này có ai đã đến quanh Eastvale trong tháng trước, thế nào cũng có người nhận ra. Ngoài ra, khi ông nhìn vào mặt bìa của dĩa CD Jimson Weed và nghĩ đến một số sự kiện mà ông đã khám phá mới đây, một số chi tiết rời rạc bắt đầu tập hợp lại, ông bèn hẹn ăn trưa với Granville Baird ở Sở Kiểm tra “Tiêu chuẩn thương mại Bắc Yorkshire” lúc một giờ rưỡi ỡ quán Queen’s Arms.
Annie ngạc nhiên khi nhìn thấy mình thoải mái, bình tĩnh vào sáng thứ Tư, từ lâu bây giờ cô mới cảm thấy khoan khoái như thế này. Cô thức dậy sau một giấc ngủ dài, sâu, không mộng mị, thấy mình bình tĩnh như trước đây suy ngẫm và tập Yoga, và thấy mình có vẻ đã trở lại nề nếp xưa kia. Vẫn còn những giọng nói vang vọng từ xa trong cõi ý thức và móng vuốt của cuộc đời vẫn còn cào cấu quanh mép của vùng cảm xúc, nhưng dù sao cô cảm thấy thanh thản hơn nhiều. Rồi tất cả sẽ trở lại tốt đẹp thôi.
Cô phân vân tự hỏi không biết việc Dalton trở về Newcastle có làm cho cuộc đời cô thay đổi không và cô nghĩ rằng chỉ có một phần thôi. Không có gã quanh đây có lẽ cô sẽ được sung sướng, vì cho dù gã vô tình hay hữu ý, sự hiện diện của gã cũng nhắc lại cho cô cái đêm khủng khiếp cách đây hai năm về trước. Mặc dù cô đã chế ngự được sự khủng khiếp đó bằng cách đương đầu với gã gần bên cầu treo. Nhưng, cô không muốn ngẫm nghĩ đến lý do tại sao cô cảm thấy thanh thản. Nhờ ngồi trầm tư mặc tưởng mà cô hiểu ra rằng thỉnh thoảng con người phải biết cách buông thả hết mọi sự, chỉ sống với cảm giác của mình thôi.
Banks đã có vẻ lạnh lùng và xa đối với cô từ khi nổ ra cuộc cãi vã giữa hai người vào chiều thứ Hai, và bây giờ cô chỉ cần không khí hòa thuận là đủ cho cô rồi, để cô yên tâm làm việc.
Vào đầu buổi chiều thứ Tư, cô được yên tâm làm việc vì cô có công tác đến tòa nhà Scarlea. Người nhân viên tiếp tân ở đây cho biết anh ta nhận ra bức ảnh của Barry Clough khi một thám tử đứng trên tầng cấp nhà hàng đưa tấm ảnh cho mọi người thấy.
Chiều hôm ấy trời ảm đạm, Annie cần phải bật đèn xe lên. Mây xám là là xuống thấp, như muốn phủ kín đỉnh ngọn Fremlington Hill, một vách núi đá vôi cao lởm chởm, uốn cong như hàm rang nhe ra ở chỗ tiếp giáp của thung lũng Swainsdale và thung lũng Arkbeckdale nhỏ hơn chạy theo hướng Tây Bắc.
Cô lái xe qua làng Lyndgarth im lìm, với bãi cỏ xanh như chiếc khăn tay phập phồng trong gió, với nhà thờ nhỏ, giáo đường và ba quán rượu. Khói thoát ra từ các ống khói, mất hút vào mây như tư tưởng của cô lúc cô trầm tư mặc tưởng. Cô đi qua thôn cuối cùng nằm ở cầu dài, cái tên nghe thật tức cười vì chiếc cầu bắc qua thung lũng nhỏ nhất, ngắn nhất trong số các cầu ở thung lũng này. Không một bóng người hoạt động, cảnh tượng trong thôn vắng vẻ, tiệm buôn đóng cửa, những ngôi nhà nhỏ xây đá xù xì cũng đóng kín mít. Chỉ còn một quán rượu có ánh sáng le lói cho biết có người đang sống ở trong ấy. Cảnh tượng thật kỳ lạ, nhất là trong cảnh tranh sáng tranh tối. Annie nghĩ rằng nếu cô bước ra khỏi xe, đi quanh một vòng, chắc cô sẽ tìm thấy mọi thứ đều ngăn nắp – bữa ăn dọn trên bàn, báo ngày mở rộng, ấm nước sôi trên lò và không có ai ở đấy hết, như cảnh trong phim Marie Celeste.
Nhà hàng Scarlea House đã hiện ra trước mặt, một khối đen khổng lồ xây bằng đá vôi kiểu Gothic. Hình như không có cửa sổ nào có màn che. Nhà tọa lạc trên một cái dốc xuôi xuôi nằm cuối con đường rộng trải sỏi, và trong ánh sáng yếu ớt, nó tựa lên sườn thung lũng vươn lên cao với màu xanh lục ảm đạm, trông như lâu đài của con ma cà rồng trong một cuốn phim kinh dị. Chỉ cần một vài tia sáng le lói và vài tiếng sấm ì ầm xa xa là tòa nhà hoàn toàn y hệt lâu đài của quỷ. Nhưng khi Annie dừng xe lại ở ngoài và tắt máy thì mọi vật đều yên lặng, ngoại trừ thỉnh thoảng có tiếng chim cất lên và tiếng nước chảy róc rách của sông Arkbeck trên đường đổ vào sông Swain chảy dọc theo đáy thung lũng.
Lạy Chúa Cứu Thế, này Annie, cô nghĩ, ngươi sắp đi vào một nơi đắt giá nhất để săn bắn trong vùng thung lũng Dale, và ngươi hãy nhìn ngươi đi, ăn mặc nhếch nhác. Cô không mặc quần áo cho phù hợp với nơi sang trọng, mà chỉ mặc quần jean, áo tròng qua đầu. Còn tệ hơn nữa là cô mặc cái áo khoác bằng vải thô bền. Cô tự nhủ: họ phải tiếp mình thôi cho dù mình mặc áo quần xấu xí. Cô mở cánh cửa trước nặng trịch ra rồi bước vào khu tiếp dân.
Trần nhà ở tiền sảnh cao hơn cả cái nhà của cô, và nếu đây không phải là nhà thờ Sistine đi nữa, thì người ta vẫn trang hoàng những tấm ván ô mạ vàng và một ngọn đèn chùm. Chân tường đều được ốp ván gỗ đen và treo rải rác những bức tranh sơn dầu thật lớn, vẽ những người đàn ông có lỗ mũi phồng to, đeo cổ cồn thật chắc, mặt mày có màu như màu thịt bò tái, như màu da của Jim Hatchley – loại tranh mà ông Ray, bố cô, gọi là “Trường phái thị giác tự kỉ”. Nhưng tranh lại bán chạy. Nếu một họa sĩ địa phương có được một thiên tài trong trường phái này cho phép bán tranh để ăn huê hồng, thì có lẽ ông ta chỉ cần bán được một bức như thế này thôi, cũng dư sức bỏ tiền mua dụng cụ vẽ vài năm. Ngay cả ông Ray cũng hiểu giá trị của loại tranh này.
- Tôi có thể giúp gì cô được không, thưa cô?
Một người đàn ông tóc bạc mặc bộ com lê đen lịch sự bước đến chào cô. Cảm giác đầu tiên của Annie là trông ông ta giống như nhân viên của nhà đòn.
Annie vừa cảm thấy như muôn sổ mũi nước, vừa cảm thấy bực tức trước mọi vậy chung quanh, cô bèn đáp:
- Không phải cô bà gì hết, mà là trung sĩ thám tử Cabbot.
- À, vâng, thưa trung sĩ, chúng tôi đang đợi cô. Tôi là Lacey. George Lacey. Tổng quản lý. Xin mời cô vào trong này.
Ông ta đưa tay chỉ vào cánh cửa có gắn bảng tên trên ấy, và khi họ vào phòng rồi, Annie thấy đấy là một căn phòng hiện đại, đầy đủ máy fax, máy vi tính, máy in la de, các thứ dùng vào công việc làm ăn. Khi thấy lối trang hoàng theo kiểu xưa trong nhà, cô không ngờ trong văn phòng lại trang bị hiện đại như thế này. Nhưng số khách đến ở tại đây đều là các thương gia giàu có cả, tất nhiên họ phải yêu cầu những thứ tiện nghi của thời đại nguyên tử cũng như các thứ kích thích máu dâm của thời sơ khai. Tại sao không? Họ có khả năng hưởng thụ tất cả mọi thứ kia mà.
Annie ngồi vào chiếc ghế xoay, lấy sổ ghi chép ra. Lacey ngồi đâu mười đầu ngón tay trên bàn, và nói với cô:
- Tôi không biết có gì để nói với cô nhiều hơn những điều tôi đã nói với vị sĩ quan cảnh sát kia. – Annie nhận thấy đôi môi của ông ta ngậm kín, có hình vòng cung và rất đỏ. Nghe ông ta nói thế, cô rất tức giận. Cô cố nhìn vào cái nút thắt chiếc cà vạt của tập thể nhà hàng này.
- Tôi chỉ đến đây để nhờ ông xác nhận có phải người trên tấm hình này ở đây không. – Cô để tấm ảnh của Clough trên bàn, ở trước mặt ông ta. – Người này đấy.
Lacey gật đầu.
- Ông Clough. Phải. Đúng đấy, ông ta đấy. Ông Clough là khách thường xuyên trong xuốt mùa săn.
- Ông có thể cho tôi biết những ngày ông ta ở đây được không?
- Cô đợi cho một chút. – Lacey gõ vào bàn phím trên máy vi tính, cau mày nhìn vào màn hình. – Ông ta ở đây từ thứ Bảy mồng Năm tháng 12, cho đến mồng Mười, thứ Năm.
- Mùa này mà đến nghỉ ở Dales này là quá trễ phải không?
- Đây là nhà trọ để săn bắn, thưa trung sĩ. Người ta không đến đây để nghỉ lễ. Họ đến để săn gà gô. Đợt ấy là đợt cuối tuần cuối cùng của mùa săn, chúng tôi có khả năng có gà để săn.
- Còn bây giờ thì sao?
- Không bận rộn cho lắm. Gà đến rồi đi.
- Nhưng ông vẫn hoạt động cả mùa Đông, mặc dù mùa săn gà gô đã hết à?
- Ồ phải. Chúng tôi vẫn thường có người đăng ký đến ở vào mùa Giáng sinh và đầu năm mới. Thời gian còn lại thì… yên tĩnh hơn, nhưng chúng tôi vẫn có khách nước ngoài. Nhà hàng của chúng tôi nổi tiếng khắp thế giới. Người ta thường phải đăng ký giữ chỗ ăn tối trước hằng tuần mới có chỗ.
- Chắc phải bỏ ra nhiều tiền mới hoạt động nổi.
- Tất nhiên. – Lacey nhìn cô như thể gã muốn nói rằng đề cập đến tiền bạc là chuyện hạ cấp.
- Khi ông Clough đến đây, ông ta thường ở một mình à?
- Thường thường thì ông Clough đến với người phụ tá và một số ít đồng sự. Mùa săn là một dịp giao tiếp xã hội rất trong đại.
- Người phụ tá thân cận của ông ta là ai?
- Một ông tên là Gilbert. Jamie Gilbert.
- A, phải rồi. Đúng là ông ấy. – Banks đã nói cho cô biết rồi, khi ông phải bó buộc phải thú nhận với cô về bữa ăn trưa với Emily, và ông ấy nói Emily cho biết đã thấy Jamie Gilbert ở Eastvale vào hôm thứ Hai trong tuần cô ta chết. Có lẽ cô ta không nghĩ ra được chuyện này. Chắc là Clough đã đến Yorkshire chỉ một hay hai tuần trước ngày Charlie bị giết chết và ra đi vào hôm Emily chết, nghĩa là có lẽ hắn đã tìm cách để cho Emily Côcain có chất strinin.
- Ông có nhớ Clough ra đi vào giờ nào vào hôm mồng Mười không? – Cô hỏi.
- Không nhớ chính xác. Thường thường khách của chúng ta ra đi sau khi ăn sáng xong. Nghĩa là có lẽ từ 9 đến 10 giờ.
- Ông còn có gì để cho tôi biết về việc ông ta ở đây, những lần ông ta đi và về không?
- Chắc là không. Tôi không có nhiệm vụ phải rình mò khách hàng.
- Có ai có thể nói cho tôi biết được không?
Lacey nhìn vào đồng hồ rồi cong môi lên đáp:
- Có lẽ ông Ferguson có thể trả lời được. Ông ta là người bán rượu. Nhờ thế ông ta mới có dịp gần gũi khách hàng. Ông ta có thể nói cho cô biết thêm nhiều hơn.
- Được rồi. Ông ta ở đâu?
- Cuối chiều ông ta mới đến. Khoảng năm giờ. Nếu cô có thể ở lại…
- Tốt. – Annie định hỏi địa chỉ nhà của ông Ferguson và gọi điệni diện chỉ nhà của ông oảng ều hơn.hàng ra đi sau khi ăn dáng xong thoại đến, nhưng cô thấy nên đợi thì hơn. Banks đang ăn trưa với người nào đó ở Sở kiểm tra Tiêu chuẩn Thương mại, và Annie nghĩ chắc ông ta muốn đến đây nếu cô hỏi chuyện này kĩ càng hơn. Cô sẽ điện thoại cho ông ta trên máy điện thoại di động của cô, để thu xếp gặp ông ở Scarlea lúc 5 giờ. Trong thời gian này, cô sẽ đến lâu đài Barnard để kiểm tra lời báo cáo người ta có thấy Emily Riddle ở đây vào buổi chiều trước khi cô ta chết.
Nhưng, tin tức về Clough thật hấp dẫn. Đây là chứng cứ rõ ràng duy nhất họ có được về hắn từ khi các dấu vân tay của Gregory Manners trên hộp dĩa CD cho thấy hắn có liên hệ đến công ty PKF, và đây là đầu mối xác thực đầu tiên để cho họ thấy Clough có liên hệ đến Yorkshire và buộc tội hắn đã nói láo. Phải. Thế nào Banks cũng muốn biết tất cả chuyện này.
Banks đã gặp Granville Baird lần đầu tiên cách đây hai năm, lúc Sở kiểm tra Tiêu chuẩn Thương mại Bắc Yorkshire yêu cầu cảnh sát can thiệp vào một nhân viên kiểm tra của họ bị hăm dọa bằng bạo lực. Từ khi ấy, cứ lúc nào có công việc cần, là hai người lại làm việc với nhau, và thỉnh thoảng họ còn gặp nhau ở quán Queen’s Arms để chơi trò phóng phi tiêu. Họ không phải là bạn thân nhưng họ có tuổi tác gần bằng nhau, và Granville, cũng như Banks, là người hâm mộ nhạc Jazz, và thích xem nhạc kịch.
Họ nói chuyện về nhạc kịch ở miền Bắc một hồi, rồi Banks gọi một dĩa dồi lớn theo kiểu Yorkshire và một chai bia loại Theakston có nồng độ cao. Trong quán người ăn trưa nói chuyện rì rầm. Banks châm điếu thuốc rồi hỏi Granville:
- Anh có biết gì về vụ ăn cướp tác quyền đĩa nhạc không?
Granville nhướng một bên lông mày.
- Có phải anh đang điều tra cái gì trong thị trường không? Có lẽ điều tra Nhóm con buôn phải không?
- Không. Tôi chẳng quan tâm đến vấn đề con buôn, mặc dù anh sẽ giải thích cho ràng nghe rõ ràng. Tôi chỉ nhờ anh giải quyết giúp tôi một chuyện thôi.
- Rất sung sướng được giúp anh. Thì ra cuối cùng bên cảnh sát các anh cũng đã thấy vấn đề ăn cắp trong thương trường rồi phải không?
- Ngoài việc vi phạm tác quyền, vì vấn đề này luôn phải là vấn đề của cảnh sát, tôi không biết luật lệ vấn đề này đã bị phá vỡ. Nếu có kẻ ăn cắp tác quyền của Windows mà họ cứ đợi chúng tôi đến gõ cửa khiếu nại với Bill Gates, thì chắc công việc của chúng tôi làm cho họ cười bể bụng.
Granville cười.
- Alan, anh không theo kịp thời đại. Vấn đề ăn cắp tác quyền bây giờ là vấn đề lớn. Nếu chỉ là vấn đề sao chép đĩa CD mới ra của Michel Jackson, để cho một người bạn, thì không ai đế mắt tới làm gì, nhưng vấn đề ở đây là làm ăn lớn. Kiếm rất nhiều tiền.
- Chính đây là vấn đề được tôi quan tâm đến. – Banks nói. – Nó lớn ra sao?
- Chuyến bố ráp vừa qua của chúng tôi hốt hàng hóa trị giá đến một phần tư triệu bảng.
Banks suýt xoa.
- Lớn thế à?
- Lớn kếch xù.
- Như vậy đây là công việc béo bở cho các tổ chức tội phạm rồi, phải không?
- Nhưng điều đáng nói là các anh không buộc chúng tôi phạm tội được.
- Đây là điểm cần lưu ý. Này anh, chúng tôi hiện đang có một vụ như thế - vụ này khởi đầu bằng vụ giết người – và tôi đã kiểm tra kĩ lưỡng, cuối cùng chúng tôi thấy đây là vụ kinh doanh ăn cướp. Tôi chưa biết vụ này lớn như thế nào. Thật vậy, chúng tôi chưa biết số tiền nhiều đến bao nhiêu. – Đĩa CD của Brain đang làm cho ông lo sợ. Nhìn vào mặt bìa sản xuất có tính chất nghiệp dư, Banks nghĩ đến đĩa CD mà Annie tìm thấy ở công ty PKF, đến những đĩa CD mà cô đã thấy ở căn hộ của Alex và Carly, nghĩ đến dấu tay của Gregory Manners, nghĩ đến việc Barry Clough bị đuổi khỏi công việc tổ chức nhạc hội vì đã buôn lậu các băng ghi âm nhạc sống, và chiếc xe tải bị ăn cướp, tài xế bị giết chết. Họ vẫn chưa tìm ra hàng hóa trên chiếc xe, nhưng Banks dám cá một bảng ăn một xu rằng xe đã chở trang thiết bị để sao chép các đĩa CD, cùng với các đĩa gốc và đĩa còn trống dùng để dùng sao chép. Điều mà Banks cần Granville cho biết là không biết công việc ăn cắp bản quyền này có lợi nhiều không để Barry Clough dấn thân vào, như công việc buôn bán lậu vậy.
- Anh có biết gì không? – Granville hỏi.
- Một công ty mà thuê một trong những nhỏ trong trung tâm thương mại ở nông thôn, hoạt động trong một thời gian, rồi chuyển đi. Như thế là nghĩa lý gì?