Nhà Tuck Bất Tử - Chương 18 - 19

Chương 18

Và thế là bữa sáng họ lại ăn bánh rán tiếp, nhưng có vẻ như
chẳng ai nề hà chuyện đó cả.

“Không con nào cắn câu à?” Bà Mae hỏi.

“Dạ không,” Miles nói. “Bọn con chả muốn bắt con nào cả.”

Dù sao thì nói như vậy cũng đúng. Nhưng Winnie đỏ mặt khi
nghe anh nói thế, cô thật biết ơn vì anh chẳng hề giải thích gì thêm.

“Thôi không sao,” bà Mae nói. “Chắc là lâu rồi con không câu
nên quên ấy mà. Có lẽ ngày mai sẽ câu được thôi.”

“Chắc thế ạ,” Miles nói. “Ngày mai vậy.”

Thế nhưng chính ý nghĩ sắp được nhìn thấy Jesse nữa mới làm
cho ruột gan Winnie cồn cào lên. Sau cùng cậu cũng chịu xuống, miệng ngáp và
yêu đời, tay vò mái tóc xoăn, đúng ngay lúc bà Mae đang bày bánh rán lên đĩa. “Chà,
con sâu ngủ,” bà trìu mến bảo cậu. “Con suýt nữa bỏ lỡ bữa sáng đó. Miles với
Winnie dậy được mấy tiếng rồi, đi câu cá xong rồi về đây nè.”

“Ủa?” Jesse nói, mắt nhìn Miles. “Vậy thì cá đâu? Sao mà mình
ăn toàn bánh rán vậy nè?”

“Bữa nay xui,” bà Mae đáp. “Hổng biết sao mà cá không cắn câu
nữa.”

“Tại anh Miles không biết câu cá thì có,” Jesse nói, cười toe
toét với Winnie làm cho cô bé phải liếc nhìn xuống, tim đập thình thịch.

“Cũng chẳng sao,” bà Mae nói. “Mình còn cả khối đồ ăn. Đến
lấy suất của mình đi nào, cả nhà.”

Họ lại ngồi mỗi người một góc trong phòng khách, giống như
đêm hôm trước. Trần nhà loang loáng những bóng phản chiếu rực rỡ và ánh nắng
tràn qua nền nhà bụi bặm đầy vỏ bào. Bà Mae nhìn quanh rồi thở phào hài lòng. “Thật
là hay quá,” bà nói, đặt nĩa nằm ngang thăng bằng trên đĩa. “Cả nhà mình tụ tập
ở đây. Và còn có cả Winnie nữa - giống như là ăn tiệc vậy.”

“Đúng đó ạ,” Jesse và Miles lên tiếng cùng một lúc, và Winnie
cảm thấy hạnh phúc chợt ào đến.

“Nhưng mình vẫn còn nhiều thứ phải bàn lắm,” ông Tuck nhắc
mọi người. “Chuyện con ngựa bị chôm nè. Và còn phải đưa Winnie về nhà nữa chớ.
Làm sao mình làm được nếu không có ngựa ở đây?”

“Để ăn xong đã, ông Tuck” bà Mae nói chắc nịch. “Đừng nói
nhiều làm hỏng bữa ăn ngon. Mình sẽ bàn tới đó liền thôi mà.”

Thế là mọi người quay lại ngồi ăn trong yên lặng và lần này
Winnie liếm láp xirô thích trên mấy ngón tay mà chẳng cần dừng lại nghĩ ngợi gì
trước cả. Giờ đây đối với cô những nỗi sợ hãi vào bữa tối hôm qua dường như mới
ngốc nghếch làm sao. Có thể họ thật điên rồ, nhưng không phải là
tội phạm. Cô yêu họ và cảm thấy họ như người thân của mình.

Chợt ông Tuck lên tiếng, “Ngủ có ngon không vậy con?”

“Dạ ngon,” cô trả lời và trong khoảnh khắc ấy cô đã ước chỉ
mình có có thể ở lại đây, mãi mãi cùng với họ, trong căn nhà nhỏ bé, bề bộn,
ngập tràn ánh nắng bên bờ hồ ấy. Lớn lên cùng với họ và có lẽ, nếu chuyện về
con suối là sự thật - thì có lẽ khi cô mười bảy tuổi… Cô liếc nhìn Jesse, cậu
đang ngồi bệt trên sàn nhà, mái tóc xoăn rũ xuống trên đĩa thức ăn. Rồi cô nhìn
sang Miles. Và ánh mắt cô chạm vào ông Tuck, nán lại trên khuôn mặt nhăn nheo
sầu muộn của ông.

Cô chợt nhận ra rằng trong cả gia đình Tuck ông chính là
người thân thương nhất đối với cô, dù chẳng thể lý giải được vì sao cô lại cảm
thấy như vậy.

Tuy nhiên, chẳng còn thời gian để nghĩ ngợi nữa vì vào chính
lúc ấy có tiếng gõ cửa vang lên.

Đó chính là một âm thanh xa lạ, quá đột ngột và bất ngờ đến
độ bà Mae làm rơi cả nĩa còn mọi người thì ngước nhìn lên, hoảng hốt. “Ai thế nhỉ?”
ông Tuck nói.

“Không thể tưởng tượng nổi,” bà Mae thì thầm. “Nhà mình chưa
từng có ai gọi cửa trong suốt những năm sống ở đây.”

Winnie nhận ra giọng nói ấy liền tức thì. Đó là một giọng nói
trầm và dễ chịu. Chính là gã đàn ông mặc đồ vàng. Và lúc này đây gã đang cất
tiếng, “Chào buổi sáng thưa bà Tuck. Bà là bà Tuck phải không ạ. Tôi vào nhà
được chứ?”

Chương 19

Người mặc đồ vàng bước vào gian phòng khách ngập tràn ánh
nắng. Gã đứng đó một lúc, nhìn một lượt xung quanh, từ bà Mae, Miles, Jesse,
ông Tuck và cả Winnie nữa. Khuôn mặt chẳng biểu lộ cảm xúc gì, nhưng có vẻ gì
đó khó chịu ẩn đằng sau nó mà Winnie cảm nhận được ngay, cái gì ấy khiến cô lập
tức nghi ngờ. Tuy vậy giọng nói vẫn thật dịu dàng khi gã cất lời, “Giờ con được
an toàn rồi, Winnifred. Bác đến đây để đón con về nhà.”

“Tự tụi tôi cũng đang tính mang cô bé về nhà ngay đây,” Ông
Tuck nói, chậm rãi đứng dậy. “Nó không gặp nguy hiểm gì đâu.”

“Tôi đoán ông chắc là ông Tuck?” người mặc đồ vàng nói.

“Phải, là tôi đây,” ông Tuck trịnh trọng nói, lưng thẳng hơn
bình thường.

“Vậy thì ông cũng nên ngồi xuống như cũ đi. Cả bà nữa, bà
Tuck. Tôi có nhiều thứ cần phải nói lắm nhưng lại chẳng còn nhiều thời gian
nữa.”

Bà Mae ngồi xuống trên mép chiếc ghế đu, ông Tuck cũng vậy
nhưng hai mắt ông thì nheo cả lại.

Jesse nói, không thoải mái lắm, “Ông nghĩ mình là cái quỷ gì
mà…”

Nhưng ông Tuck ngắt ngang lời cậu. “Yên nào, con. Để ông đây
nói đi.”

“Vậy là khôn ngoan đó,” người mặc đồ vàng nói. “Tôi sẽ nói
ngắn gọn hết sức.” Nói rồi gã bỏ mũ ra, đặt lên bệ lò sưởi và đứng nhịp chân
trước nền lò sưởi bề bộn, đối diện họ. Khuôn mặt trông thật là trơ tráo và vô
cảm. “Tôi sinh ra ở phía Tây nơi này,” gã bắt đầu, “và trong suốt thời thơ ấu,
bà tôi hay kể chuyện cho tôi nghe. Đó là những chuyện kỳ lạ và hoang đường nhưng
tôi tin chúng. Chúng kể về một người bạn thân của bà, người đã lấy phải người
trong một gia đình hết sức kỳ quặc. Lấy người anh cả trong hai anh em, và họ có
với nhau hai đứa con. Nhưng sau khi sinh con rồi bà ta mới bắt đầu nhận ra gia
đình đó kỳ quặc như thế nào. Người bạn của bà tôi đã sống với chồng được hai
mươi năm nhưng điều lạ là ông chồng ấy chẳng hề già đi chút nào. Bà ta thì già
đi còn ông ta thì không. Cả mẹ, cha và em trai ông ta cũng vậy nốt. Người ta
bắt đầu đặt dấu hỏi về gia đình ấy, còn bạn của bà tôi thì sau cùng đã kết luận
rằng họ là phù thủy, hay tệ hơn nữa. Bà bỏ chồng, mang theo hai đứa con đến
sống ở nhà bà tôi một thời gian ngắn. Rồi bà đi về miền Tây. Tôi không biết sau
đó bà ta thế nào nữa. Nhưng mẹ tôi thì vẫn còn nhớ chuyện đã từng chơi với đám
trẻ con nhà ấy. Họ trạc tuổi nhau, một đứa con trai và một người con gái.”

“Là Anna!” Miles thì thào.

Bà Mae òa lên, “Không ai khiến ông đến đây mang đau khổ cho
chúng tôi!”

Và ông Tuck chêm vào, giọng đanh cả lại, “Ông có điều cần nói,
tốt hơn hết là ông đi thẳng vào vấn đề đó đi.”

“Đây, đây, giờ đến rồi đây,” người mặc đồ vàng nói, xòe mấy
ngón tay dài trắng bệch ra hiệu hãy bình tĩnh. “Nghe tôi nói hết đã nào. Như
tôi đã nói đó, mấy câu chuyện của bà tôi đặc biệt cuốn hút tôi. Những con người
bất lão! Thật là tuyệt. Nó chiếm hữu cả tâm hồn tôi. Tôi quyết định mình sẽ
dành trọn cả đời này tìm hiểu chuyện đó có thật hay không, và nếu có thì bằng
cách nào và tại sao như vậy. Tôi đi học, tôi vào đại học, tôi học triết học,
siêu hình học và cả một chút y khoa nữa. Nhưng chẳng thứ gì giúp ích cho tôi
cả. À, cũng có vài truyền thuyết xa xưa, nhưng chỉ thế thôi. Tôi gần như đã bỏ
cuộc. Việc đó bắt đầu trở nên lố bịch và mất thời gian. Tôi trở về nhà, lúc này
bà tôi đã già lắm rồi. Ngày nọ tôi tặng bà một món quà, đó là một chiếc hộp
nhạc. Và khi tôi đưa nó cho bà, nó làm bà nhớ lại một thứ: người đàn bà, người
mẹ trong cái gia đình không bao giờ già đi đó, bà ta có một
cái hộp nhạc.”

Bàn tay bà Mae luồn vào túi chiếc váy đang mặc. Miệng bà há hốc
rồi ngậm lại ngay.

“Cái hộp nhạc đó có một giai điệu rất đặc biệt,” người mặc đồ
vàng tiếp tục. “Người bạn của bà tôi và con của bà ta - Anna? Đó là tên người
con gái phải không nhỉ? - Họ nghe nhiều đến nỗi thuộc lòng. Họ dạy lại cho mẹ
tôi trong thời gian ngắn sống tại nhà. Chúng tôi cứ nói chuyện đó mãi, qua bao
nhiêu năm trời, mẹ tôi, bà và tôi nữa. Sau mẹ tôi cũng nhớ ra giai điệu đó. Mẹ dạy
lại cho tôi. Đến giờ cũng gần dược hai mươi năm rồi nhưng tôi vẫn luôn nhớ như
in trong đầu. Đó chính là một manh mối.”

Người mặc đồ vàng khoanh tay lại và khẽ lắc lư người. Giong
gã dễ chịu, gần như là thân thiện. “Suốt hai mươi năm nay,” gã nói, “tôi đã làm
biết bao nhiêu việc khác. Nhưng không thể nào quên cái giai điệu đó cũng như
gia đình bất lão nọ. Chúng ám ảnh tôi cả trong những giấc mơ. Thế là mấy tháng
trước đây tôi bỏ nhà ra đi và bắt đầu tìm kiếm họ, đi theo con đường mà họ đã
đi sau khi rời khỏi trang trại. Chẳng có người nào tôi hỏi suốt dọc đường biết
gì cả. Chẳng ai nghe nói về họ, chẳng ai nhận ra tên họ. Nhưng vào cái buổi
chiều tối cách đây hai ngày ấy, tôi đã nghe được âm thanh từ chiếc hộp nhạc ấy,
chính là giai điệu đó, và nó phát ra từ khu rừng nhà Foster. Và ngay sáng sớm
vào ngày hôm sau, cuối cùng thì tôi cũng gặp được gia đình ấy, lúc họ mang
Winnifred đi. Tôi đã đi theo họ và nghe toàn bộ câu chuyện, từng chữ một.”

Khuôn mặt bà Mae cắt không còn hột máu. Miệng bà há hốc ra.
Và ông Tuck nói giọng khàn đặc, “Ông định sẽ làm gì?”

Người mặc đồ vàng mỉm cười. “Gia đình Foster đã trao cho tôi
khu rừng của họ,” gã nói. “Để đổi lại việc tôi mang Winnifred trở về nhà. Ông
thấy đó, tôi là người duy nhất biết chỗ con bé mà lại. Cho nên nó là một vụ
trao đổi. Đúng đó, tôi đã đi theo bà, thưa bà Tuck, và tôi đã lấy con ngựa của
bà rồi quay trở lại ngay.”

Bầu không khí trong phòng lúc này căng thẳng tột cùng. Winnie
cảm thấy mình không thể thở nổi nữa. Đó là thật sao! Hay là người đó cũng điên
rồi?

“Đồ trộm ngựa!” ông Tuck quát lên. “Đi thẳng vào vấn đề đi!
Mày tính làm gì?”

“Đơn giản thôi,” người mặc đồ vàng đáp. Và khi nói ra điều
này, vẻ trơ tráo trên khuôn mặt gã hơi dãn ra một tí. Cơn phấn khích màu đỏ
nhạt trườn lên tận cổ và cao giọng hơn một chút, gã nói. “Như những điều tuyệt
diệu khác cũng vậy thôi, rất chi là đơn giản. Khu rừng - và con suối - giờ đã
thuộc về tôi.” Gã vỗ vỗ túi ngực áo. “Tôi có giấy tờ đây, đã ký tên hợp lệ để
làm bằng. Như ông thấy đó, tôi dự định sẽ bán thứ nước ấy.”

“Mày không được làm vậy!” ông Tuck gầm lên. “Bộ mày mất trí
rồi hả!”

Người mặc đồ vàng nhíu mày. “Nhưng mà đâu phải ai tôi cũng
bán chứ,” gã cãi lại. “Chỉ một số người nhất định thôi, những ai xứng đáng. Và
nó sẽ rất, rất là mắc. Nhưng để được trường sinh bất tử thì ai chẳng bỏ ra cả
gia tài cơ chứ?”

“Tao thì không,” ông Tuck nói dứt khoát.

“Chính xác,” người mặc đồ vàng nói. Đôi mắt gã lóe sáng. “Bọn
ngu dốt như mi thì chẳng bao giờ có cơ hội đó. Nước đó chỉ dành cho… một số
người đặc biệt. Và cho cả ta nữa. Tuy nhiên, vì đã quá trễ để loại mi ra rồi
nên cho bọn mi tham dự vào chuyện ta sắp làm cũng được. Chỉ cho ta chỗ con suối
và giúp ta quảng cáo. Chúng ta sẽ tổ chức những cuộc trình diễn. Mi biết đó -
đại loại như những thứ mà có thể làm chết người khác nhưng lại chẳng mảy may
ảnh hưởng gì tới bọn mi. Dĩ nhiên là ta sẽ trả công rồi. Cũng chẳng phải quảng
bá gì lâu la lắm đâu. Và rồi mi có thể đi đường mi. Vậy đó, mi nghĩ sao nào?”

Jesse nói yếu ớt, “Những kẻ quái dị. Ông muốn biến chúng tôi
thành một lũ quái dị. Trong một buổi trình diễn bán thuốc.”

Người mặc đồ vàng nhướng mày lên và vẻ bực tức căng thẳng len
lỏi vào giọng nói, “Dĩ nhiên, nếu bọn mi không thích ý tưởng này,” gã nói, chớp
mắt liên hồi, “thì không cần phải tham gia. Ta có thể tìm ra con suối đó và
xoay xở tốt mà không cần bọn mi. Nhưng có vẻ như là một quý ông lịch thiệp thì
phải đưa ra lời đề nghị như vậy đấy. Rốt cuộc thì,” gã nói thêm, sau khi đã
nhìn quanh căn phòng bừa bộn, “điều đó sẽ giúp bọn mi đủ tiền sống cho giống
người trở lại thay vì làm heo.”

Và đó chính là lúc sự căng thẳng bùng nổ. Cả bốn người nhà
Tuck bật dậy ngay lập tức, còn Winnie, sợ hãi tột cùng, co rúm người trên ghế
của cô. Ông Tuck la lên, “Mày là thằng điên! Thằng khùng! Mày không được cho ai
biết về thứ nước đó hết. Mày không thấy chuyện gì sẽ xảy ra à?”

“Ta đã cho bọn mi cơ hội rồi,” người mặc đồ vàng rít lên, “và
bọn mi từ chối nó.” Nói rồi gã thô bạo giật lấy tay Winnie lôi cô bé ra khỏi
ghế. “Ta sẽ đưa con bé này đi và bắt đầu chuyện làm ăn của ta.”

Lúc này ông Tuck bắt đầu nổi xung, khuôn mặt căng lên vì kinh
hãi. “Đồ điên!” ông thét.

Và Miles và Jesse cũng bắt đầu thét lên theo. Họ túm tụm theo
sau khi người mặc đồ vàng lôi Winnie xềnh xệch qua tuốt nhà bếp đến bên cánh
cửa.

“Không!” cô gào lên, sau cùng cũng thấy được rằng mình ghét
gã. “Tôi không muốn đi với ông! Không muốn!”

Nhưng gã đã mở cửa ra rồi đẩy cô ra ngoài. Đôi mắt gã như hai
đốm lửa chói lòa, khuôn mặt gã méo mó.

Chợt tiếng la hét đằng sau lưng đột nhiên im bặt, và bầu
không khí im lặng chết người ấy vang lên tiếng bà Mae, đều đều và lạnh tanh: “Mày
để yên con nhỏ đó.”

Winnie nhìn trân trân. Bà Mae đang đứng ngay bên ngoài ngưỡng
cửa. Tay bà đang nắm nòng khẩu súng săn bị-lãng-quên-đã-lâu của ông Tuck, như
cầm một cây gậy.

Gã mặc đồ vàng nhếch một nụ cười rùng rợn. “Tao thật không
thể hiểu nổi tại sao bọn mày lại phải buồn khổ như vậy. Bộ tụi bây thật sự tin
là có thể giữ thứ nước đó cho riêng mình được sao? Sự ích kỷ của bọn bây thật
ngoài sức tưởng tượng, mà còn tệ hơn nữa, bọn bây là một lũ ngu. Đáng lẽ tụi
bây phải làm cái điều mà tao sắp làm từ khuya rồi mới phải chớ. Còn giờ thì
muộn rồi. Khi mà tao cho Winnifred uống nước đó xong, nó sẽ quảng bá cho tao
cũng tốt chẳng thua gì tụi bây. Thậm chí còn tốt hơn ấy chứ. Dù sao thì trẻ con
vẫn hấp dẫn hơn. Vậy tốt hơn hết là tụi bây cứ thoải mái đi vì tụi bây chẳng
thể làm gì để ngăn được tao đâu.”

Nhưng gã đã lầm rồi. Bà Mae nâng khẩu súng lên. Sau lưng bà,
tiếng Miles thở gấp, “Mẹ! Đừng!”

Nhưng bà Mae đang đỏ mặt tía tai. “Không phải là Winnie!” bà
rít lên giữa hai hàm răng khép chặt. “Mày không được làm chuyện như vậy đối với
Winnie. Và mày không được nói ra bí mật này.” Đôi cánh tay mạnh mẽ của bà vung
khẩu súng vòng quanh đầu để lấy đà, giống như một vòng xoay vậy. Gã mặc đồ vàng
giật mình bỏ chạy nhưng đã quá muộn. Với một tiếng rắc nhỏ, báng súng phang
thẳng vào đằng sau hộp sọ gã. Gã đổ vật xuống như một cái cây, khuôn mặt hãy
còn vẻ sững sờ, mắt trợn ngược. Và cũng chính ngay giây phút ấy, viên cảnh sát
Treegap xuất hiện, cưỡi ngựa vượt qua những hàng thông vừa đúng lúc chứng kiến
toàn bộ cảnh trên.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3