Mạnh hơn sợ hãi - Chương 09 - Phần 1

9.

- Cô biết về quá khứ của bà ngoại cô nhiều hơn rất nhiều so với điều cô muốn cho tôi biết, Andrew nói khi ngồi xuống bên cạnh Suzie trong phòng đọc thư viện thành phố.

- Tôi đổi chỗ không phải là để anh tới ngồi ở bàn này.

- Còn chờ xem thế nào đã.

- Anh đâu có hỏi gì tôi.

- Vậy thì tôi làm ngay đây. Còn chuyện gì cô chưa cho tôi biết về Liliane Walker?

- Chuyện đó liên quan gì tới anh?

- Chẳng liên quan gì. Có thể nhiều lúc tôi là một kẻ nghiện ngập, tôi có tính cách khó chịu, nhưng nghề báo là lĩnh vực duy nhất tôi làm xuất sắc. Cô muốn tôi giúp chứ, có hay không?

- Điều kiện của anh là gì?

- Tôi sẽ dành cho cô vài tuần; giả sử chúng ta chứng minh được bà cô vô tội, và giả sử điều đó thu hút sự quan tâm nhất định, tôi muốn được độc quyền về đề tài này và quyền đươc đăng báo mà không cần cô đọc duyệt.

Suzie thu dọn đồ đạc và đứng dậy mà không nói một lời.

- Cô đùa chăng, tôi hy vọng thế, Andrew vừa đuổi theo cô vừa nói. Cô không định xem xét những điều kiện của tôi sao?

- Không được nói chuyện trong phòng đọc, anh ngậm miệng lại đi và theo tôi ra quán cà phê.

Suzie đi mua một chiếc bánh ngọt rồi tiến lại bàn nơi Andrew đang ngồi.

- Cô có ăn gì khác ngoài đồ ngọt không?

- Anh có uống gì khác ngoài rượu không? Cô bốp chát đáp lại. Tôi chấp nhận điều kiện của anh, trừ một chi tiết. Tôi không yêu cầu anh cho tôi sửa bài báo anh viết, mà yêu cầu anh cho tôi đọc trước khi nó được đăng.

- Được, Andrew nói. Ông cô có kể với cô về chuyến đi tới Đức của ông ấy không?

- Ông ít nói chuyện với tôi lắm. Tại sao anh lại hỏi câu này?

- Vì có khả năng ông ấy chưa bao giờ đặt chân tới Đức. Điều đó sẽ khiến chúng ta phải cố mà hiểu cho được câu nói của ông Ashton mang hàm ý gì. Kể ra cô cũng có năng khiếu về mật mã học, vậy thì bắt tay vào việc thôi.

- Tôi đã cố hết sức hiểu ý nghĩa bức thư này từ khí biết đến sự tồn tại của nó. Anh nghĩ ngày nào tôi cũng ở đây làm gì chứ? Tôi đã xoay đi xoay lại các từ theo tất cả các nghĩa, lược đi rồi thêm vào các nguyên âm và phụ âm, thậm chí tôi còn dùng đến cả một phần mềm, và đến giờ này tôi vẫn chẳng thấy gì.

- Cô từng nói với tôi về một thông điệp mà bà cô để lại, tôi xem nó được không?

Suzie mở túi đeo của mình, lấy ra một cặp tài liệu. Cô tháo các kẹp và chìa ra trước mặt Andrew một trang giấy, trên đó có dòng chữ viết tay của Liliane:

“WOODIN ROBERT WETMORE

TAYLORE FISHER STONE”

- Bốn người này là ai? - Andrew hỏi.

- Ba người, William Woodlin là Bộ trưởng Tài chính dưới thời Roosevelt. Tôi chưa tìm được gì về Robert Wetmoore, có biết bao người mang tên đó! Anh mà biết co bao nhiêu bác sĩ mang tên Robert Wetmore thì cũng đủ sững sờ rồi. Còn người thợ may ở Fisher Stone…

- Fisher Stone là ở đâu?

- Tôi chẳng có ý niệm nào về cái tên này. Tôi đã tra cứu tất cả các thị trấn ven biển, cả bờ Đông và bờ Tây, không có nơi nào mang tên này. Tôi đã mở rộng tìm kiếm sang tận Canada, kết quả cũng chẳng khá hơn.

- Cô đã thử tìm ở Na Uy và Phần Lan chưa?

- Cũng không có kết quả.

- Tôi sẽ đề nghị Dolorès giúp chúng ta một tay. Nếu có xó xỉnh nào mang tên đó, dù có nằm ở ngoại ô Zanzibar hay trên hòn đảo nhỏ nhất thế giới đi chăng nữa, cô ấy cũng sẽ tìm ra. Tập tài liệu có thể chỉ dẫn cho chúng ta thấy phải tìm gì của cô có chứa gì vậy?

- Ngoài thông điệp khó hiểu này của bà tôi, có vài bức ảnh của bà và một câu bà viết cho Mathilde, không quan trọng lắm.

- Câu gì?

- “Không phải tuyết cũng chẳng phải mưa, cũng không phải hơi nóng hay bóng tối màn đêm, sẽ ngăn cản được những sứ giả này hoàn thành hành trình đã được giao phó cho chúng.”

- Bà cô có vẻ thích bí hiểm nhỉ! - Andrew than vãn.

- Cứ đặt mình vào vị trí của bà tôi mà xem.

- Nói cho tôi biết về người đàn ông mà tôi đã thấy ra khỏi tiệm tạp hóa.

- Tôi đã nói rồi đó thôi, Knopf là một người bạn của ông tôi.

- Hoàn toàn không cùng độ uổi, nếu tôi không nhầm.

- Anh không nhầm đâu, Knopf trẻ hơn ông tôi.

- Ngoài việc là người thân cận của ông cô, ông ấy làm nghề gì?

- Ông ấy làm trong CIA.

- Chính ông ấy là người dành thời gian xóa sạch mọi dấu vết trong quá khứ của cô sao?

- Ông ấy luôn bảo vệ tô từ khi tôi còn là một cô bé. Ông ấy đã hứa với ông tôi như vậy. Đó là một người biết giữ lời.

- Nhân viên CIA và người bạn của gia đình, hoàn cảnh này có lẽ không dễ cân bằng với ông ấy. Bị giằng co giữa hai thân phận.

- Mathilde nghĩ chính ông ấy đã báo trước cho Liliane việc bà sắp bị bắt. Knopf thì luôn cam đoan với tôi điều ngược lại. Tuy nhiên, ngày hôm đó, bà tôi không về nhà. Mẹ không bao giờ còn gặp lại bà nữa.

Andrew rút ra tập tài liệu mà Morton đã trao lại cho anh.

- Ngay cả khi hai người chúng ta phối hợp thì cũng khá mất thời gian để giải quyết vụ này.

- Ai đã giao cho anh thứ này? Suzie hỏi khi đọc lướt những bài báo cũ cắt ra.

- Một đồng nghiệp già đã về hưu, thời đó ông ấy từng đưa ra một số phát biểu dè dặt về vụ Walker. Bỏ qua mấy bài báo đi, giọng điệu chúng đều na ná như nhau. Và dù những bài này đều là bản gốc, nhưng tôi ngờ rằng trong chồng tài liệu cóp nhặt mà Dolorès đã chuẩn bị cho tôi vẫn còn thiếu một thứ. Đúng hơn là ta nên nghiên cứu các ghi chép của Morton, chúng cũng được viết từ thời ấy, và trong cơn hăng hái.

Andrew và Suzie dành nốt cả buổi chiều ở phòng đọc. Họ chia tay nhau vào cuối ngày trên những bậc thềm lớn của thư viện thành phố. Andrew hy vọng Dolorès vẫn còn ở tòa soạn, nhưng khi anh tới đó, cô nhân viên phòng tư liệu đã đi khỏi.

Anh lên phòng mình và tranh thủ lúc cả tầng đang vắng vẻ để bắt tay vào việc. Anh trải các ghi chép của mình ra trước mặt và trong một lúc lâu, cố gắng lắp ghép chúng như những mảng ghép hình mà bố cục chung anh vẫn chưa nắm được.

Freddy Olson ra khỏi phòng về sinh và tiến về phía anh.

- Đừng có nhìn tôi cái kiểu đó, Stilman, tôi chỉ đi toa lét thôi mà.

- Tôi đã tránh nhìn cậu càng ít càng tốt, Olson ạ, Andrew đáp, ánh mắt lại nhìn uống các ghi chép của mình.

- Vậy là cậu thực sự trở lại làm việc rồi ư! Thế đề tài cho bài báo tiếp theo của nhà báo nổi tiếng Stilman sẽ là gì vậy? Olson vừa hỏi vừa ngồi xuống góc bàn Andrew.

- Cậu không bao giờ biết mệt à? Andrew bắt bẻ.

- Nếu có thể giúp gì cho cậu, tôi rất sẵn lòng.

- Về chỗ của cậu đi, Freddy, tôi kinh tởm những kẻ đọc lén qua vai người khác.

- Cậu quan tâm đến bưu điện trung tâm à? Tôi biết cậu rẻ rúng công việc của tôi thế nào, nhưng cách đây hai năm tôi từng đăng một bài dài về bưu điện Farley.

- Cậu đang lải nhải cái gì đấy?

- Về chuyện sáp nhập các tầng ngầm của bưu điện đó để biến chúng thành nhà ga. Dự án đó được thượng nghị sĩ của bang đề xuất vào đầu những năm 1990. Nó đã mất tận hai mươi năm mới thành hình. Giai đoạn đầu của dự án này đã được khởi động cách đây hai năm và có thể sẽ hoàn thành trong bốn năm tới. Các tầng ngầm của bưu điện Faley sẽ trở thành khu vực mở rộng của Ga Penn với một đường nối chạy dưới đại lộ Tám.

- Cảm ơn vì bài giảng về quy hoạch đô thị, Olson.

- Sao lúc nào cậu cũng coi thường tôi thé nhỉ, Stilman? Cậu tự coi mình là nhà báo vĩ đại nhất trong số tất cả chúng ta ở đây, cậu không định nói với tôi rằng cậu sợ tôi chôm mất đề tài đấy chứ? Nhất là khi tôi đã từng khai thác đề tài đó. Nhưng nếu cậu có nhã ý xuống khỏi đài danh vọng của mình, tôi sẽ chuyển những ghi chép của tôi cho cậu, thậm chí cậu có thể sử dụng chúng, tôi sẽ không nói một lời, hứa đấy.

- Nhưng tôi thì liên quan cái gì tới cái bưu điện trung tâm của cậu?

- “Không phải tuyết của chẳng phải mưa, cũng không phải hơi nóng hay bóng tối màn đêm, ngăn được những sứ giả này hoàn thành hành trình đã được giao phó cho chúng.” Cậu nghĩ tôi ngu chắc? Câu nói này được khắc dọc trên mặt tiền của bưu điện đó, có khi dài tới cả trăm mét. Cậu chép lại nó vì cậu thấy nó nên thơ chắc?

- Tôi không biết điều này, tôi thề đấy, Andrew đáp.

- Khi đi bộ, thỉnh thoảng cậu chịu khó ngẩng đầu lên một chút, Stilman ạ, cậu sẽ nhận ra mình đang sống ở New York. Và cái tòa nhà chọc trời nhọn hoắt có phần nóc đổi màu liên tục ấy tên là Empire State Building, trong trường hợp có ngày đẹp trời nào đó cậu tự hỏi mình câu đó.

Andrew, vẻ lúng túng, gom đồ đạc lại rồi rời tòa soạn. Tại sao Liliane Walker lại chép câu danh ngôn khắc trên mặt tiền của bưu điện trung tâm, và câu danh ngôn đó có thể ám chỉ điều gì chứ?

*

Sương giá phủ kín những bụi cây ngấy và thạch thảo của khu đầm lầy. Cả vùng đồng bằng chìm trong màu trắng và các ao hồ đều đã đóng băng. Bầu trời chuyển hết màu phấn lại sang xam xám tùy thuộc tính khí của cơn gió đang kéo những vạt mấy trên vầng trăng gần như tròn đầy. Phía chân trời, cô nhìn thấy một ánh sáng chập chờn. Cô chống hai tay và đứng bật dậy, chạy thục mạng. Tiếng kêu của một con quạ khiến cô lại ngẩng đầu lên. Nó nhìn cô chằm chằm bằng đôi mắt đen, kiên nhẫn chờ đợi bữa ăn từ thịt người chết.

- Vẫn chưa đâu, cô nói rồi lại tiếp tục chạy.

Bên trái cô, những sườn dốc tạo nên một bức tường thành, cô rẽ ngang để thử đi đến đó. Sang đến sườn bên kia thì cô sẽ thoát ra ngoài tầm đạn.

Cô chạy nhanh hơn, nhưng màn đêm trở nên trong trẻo. Ba tiếng súng vang lên. Cô có cảm giác bỏng rát ở lưng, hơi thở đứt quãng, hai chân nhũn ra và cả thân người đổ về phía trước.

Miệng tiếp xúc với tuyết lạnh khiến cô dịu đi. Chết rốt cuộc cũng không đáng sợ đến như vậy. Thật tốt khi không còn phải tranh đấu.

Cô nghe thấy tiếng mặt đất đóng băng vỡ lách tách dưới bước chân của những gã đang tiến lại gần và cô ước sao được chết trước khi phải nhìn thấy mặt chúng. Chỉ giữ lại đôi mắt Mathilde như một kỷ niệm sau cuối. Cô chỉ muốn còn đủ sức nói một lời xin lỗi tới con gái. Xin lỗi vì đã ích kỷ đến mức tước mất khỏi con chính người mẹ của nó.

Làm sao mà chịu được cảnh rời xa con cái, không bao giờ còn có thể ôm chặt con vào lòng, không bao giờ còn cảm nhận được hơi thở của con khi con thì thầm vào tai một điều bí mật, không còn được nghe tiếng cười lanh lảnh lôi ta ra khỏi mọi phiền nhiễu của người lớn, khỏi tất cả những điều đẩy ta ra xa con đến mức này? Chết, với bản thân cô, chẳng là gì hết, không được thấy người thân thương còn khủng khiếp hơn cả địa ngục.

Tim cô đập dồn, cô gắng gượng đứng dậy, nhưng mặt đất đã mở toang trước mặt và cô nhìn thấy khuôn mặt Mathilde trồi lên từ miệng vực trong tiếng trống đánh tùng tùng.

Suzie vã hết mồ hôi. Cơn ác mộng này, trở đi trở lại từ thuở nhỏ, lúc nào cũng khiến cô bực bội khi thức giấc.

Có người gõ công cốc vào cửa. Cô tung chăn ra, đi ngang phòng khách và hỏi xem ai ngoài cửa.

- Andrew Stilman, người bên ngoài hành lang hét lên.

Cô mở cửa.

- Cô đang tập thể dục à? Anh hỏi khi bước vào nhà.

Anh rời ánh mắt khỏi khuôn ngực hằn dưới nếp áo phồng xâm xấp mồ hôi. Lần đầu tiên từ rất lâu rồi, anh cảm thấy ham muốn trỗi dậy.

- Mấy giờ rồi? - Suzie hỏi.

- Bảy rưỡi. Tôi mang cho cô một cốc cà phê và một chiếc bánh xốp. Cô đi tắm rồi thay đồ đi.

- Anh bị ngã từ trên giường xuống đấy à, Stilman?

- Tôi thì không. Cô không có áo choàng tắm hay thức gì đó khá khẩm hơn để khoác lên người à?

Suzie nhận cốc cà phê từ tay anh và cắn một miếng bánh xốp.

- Sao tôi lại có vinh dự dùng bữa sáng tại phòng thế này nhỉ?

- Tôi qua, nhờ một đồng nghiệp nam mà tôi đã biết được một thông tin quan trọng.

- Cô Dolorès, giờ lại là một đồng nghiệp nam, cả ban biên tập tờ The New York Times đều quan tâm đến số phận của bà tôi sao? Dù chúng ta muốn chuyện này phải kín đáo một chút thì với anh có vẻ hơi khó nhỉ.

- Olson không biết gì hết và hãy thôi dạy dỗ tôi đi. Cô có định thay đồ không vậy?

- Anh biết được tin gì? - Suzie vừa quay vào phòng ngủ vừa gặng hỏi.

- Cô sẽ thấy tận mắt, Andrew đáp lại và đi theo cô.

- Nếu anh không thấy phiền thì tôi định đi tắm một mình.

Andrew ngượng chín mặt và đến bên cửa sổ phòng khách.

Mười phút sau Suzie xuất hiện trở lại, mặc một chiếc quần jean, áo len sợi thô và đội một chiếc mũ bon nê rất hợp với chiếc áo chui đầu.

- Chúng ta đi chứ?

- Mặc áo khoác của tôi vào, Andrew vừa nói vừa đưa áo khoác của anh cho cô. Và kéo mũ xuống tận mắt cho tôi. Cô cứ đi một mình đã. Ngược lên phố. Trên vỉa hè đối diện, cô sẽ thấy một lối đi hơi dốc lên, cô đi vào đó, cổng sắt luôn để mở. Cô sẽ ra được phố Leroy. Chạy đến đại lộ Bảy và bắt một chiếc taxi. Cô bảo tài xế cho xuống ở cổng Ga Penn, đoạn giao giữa đại lộ Tám và phố 31. Tôi sẽ gặp lại cô ở đó.

- Anh không nghĩ là giờ vẫn hơi sớm để chơi trò đuổi bắt đấy chứ? Chuyện này là sao?

- Có một chiếc taxi đang đậu dưới nhà cô. Từ khi cô đi tắm đến giờ, nó chưa nhúc nhích một phân, Andrew vừa nhìn qua cửa sổ vừa nói.

- Thế nhỡ tài xế đi uống cà phê thì sao?

- Cô biết hàng cà phê nào ở góc phố này à? Gã tài xế vẫn đang ngồi sau vô lăng và không ngừng ngước nhìn lên cửa sổ nhà cô, nên cô cứ làm những gì tôi bảo đi.

Suzie mặc áo khoác vào. Andrew chỉnh lại mũ trên mặt cô và quan sát.

- Có lẽ nên đánh lừa một chút. Đừng có nhìn tôi kiểu đó, không phải tôi là người bị theo dõi đâu.

- Thế anh nghĩ tôi cứ khoác mớ đồ lố bịch này vào thì người ta sẽ nhầm tôi là anh chắc?

- Quan trọng là người ta sẽ không nhận ra cô là cô.

.Andrew quay lại vị trí quan sát. Chiếc taxi vẫn không rời khỏi chỗ đỗ khi Suzie ra khỏi chung cư.

Andrew chờ vài phút rồi chuồn khỏi.

*

Cô đợi anh trên vỉa hè, phía trước sạp báo.

- Kẻ nào rình rập dưới nhà tôi vậy?

- Tôi ghi lại được biển số xe rồi, tôi sẽ thử tìm hiểu thêm xem sao.

- Chúng ta đi bắt tàu à? Suzie vừa ngoảnh sang nhìn Ga Penn vừa hỏi.

- Không, Andrew điềm tĩnh đáp. Chỗ cần nhìn là bên kia phố cơ.

Suzie xoay người lại.

- Anh có thư phải gửi à?

- Cô hãy thôi đùa cợt đi mà đọc những chữ được khắc phía trên cao kia kìa, Andrew nói.

Suzie trợn tròn mắt khi phát hiện ra câu trích dẫn khắc trên mặt tiền bưu điện Farley.

- Giờ thì tôi rất muốn hiểu tại sao bà cô lại mất công chép lại cái câu này.

- Mathilde từng nói với tôi về một chiếc hộp nơi mà có thể Lilly đã cất tài liệu ở đó. Chắc ở đây ý là hộp thư bưu điện.

- Nếu như thế thì là tin xấu rồi. Tôi nghi ngờ khả năng hộp thư đó vẫn gắn với người thuê sau một thời gian dài như thế, với lại, làm sao tìm ra nó bây giờ?

Họ sang đường và bước vào tiền sảnh. Tòa nhà có quy mô rộng lớn. Andrew hỏi một người bẻ ghi xem khu đặt hộp thư riêng nằm ở đâu. Người đàn ông trỏ tay về phía một hành lang bên phải họ.

Suzie cởi mũ bon nê ra, và Andrew cảm thấy bối rối trước chiếc gáy để trần của cô.

- Chúng ta không bao giờ tìm được đâu, có đến cả nghìn hộp thư ở đây, cô thở dài khi nhìn thấy bức tường hộp thư xếp kín dọc theo hành lang.

- Bà ngoại cô muốn có người tìm được hộp thư này. Dù người đó có là ai, thì cũng như chúng ta thôi, người ấy phải cần thêm chỉ dẫn.

Andrew gọi về tòa soạn.

- Tôi cần cậu giúp một tay, Olson.

- Chuyển máy cho tôi gặp Andrew Stilman thật đi, Freddy độp lại, anh giả giọng rất cừ, nhưng cái câu tôi vừa nghe chắc khiến cậu ta ngượng mồm lắm.

- Tôi nói nghiêm túc đấy, tới gặp tôi ở cổng chính bưu điện Farley nhé Freddy.

- À, giờ tôi hiểu thêm một chút rồi. Tôi sẽ được gì khi giúp cậu hả Stilman?

- Lòng quý mến của tôi, và sự đảm bảo rằng cậu có thể tin tưởng vào tôi nếu ngày nào đó cậu cần tôi.

- Được thôi, Olson đáp sau một lúc suy tính.

*

Andrew và Suzie chờ Olson trên bậc thềm. Anh ta vừa từ taxi xuống và chìa biên lai cho Andrew.

- Tôi không muốn đi bộ, cậu nợ tôi mười đô. Cậu muốn gì ở bưu điện Farley này chứ?

- Muốn cậu kể hết những gì cậu biết về nơi này.

Olson không rời mắt khỏi Suzie và vẻ nằn nì trong ánh mắt của anh ta gần như khiến người khác phải khó chịu.

- Tôi là bạn gái của vợ cũ Andrew. - Suzie nói, vốn đã biết tỏng về nhân vật mới. Tôi đang hoàn thành một nghiên cứu về quy hoạch đô thị. Tôi bị cho là đã cóp lại từ Internet nguyên một chương bổ sung nội dung cho bản luận án. Giáo sư hướng dẫn đã chấp nhận nhắm mắt làm ngơ cho tôi với điều kiện tôi phải thay chương đó bằng một chương khác về tầm quan trọng của kiến trúc 1900 trong sự phát triển của cảnh quan đô thị New York. Lão giáo sư này là loại dở chứng hạng nhất. Tôi được cho thời hạn đến thứ Hai, thời gian ít ỏi như thế thì đúng là bất khả thi, nhưng tôi không được lựa chọn, phải hoàn thành thôi. Bưu điện này nằm trong số những công trình xây dựng tiêu biểu nhất cho giai đoạn đó. Andrew đảm bảo với tôi rằng anh hiểu toàn nhà này còn hơn cả kiến trúc sư đã xây dựng nó.

- Hơn cả James Wetmore ư, cô đang tâng bốc tôi đấy quý cô ạ, nhưng đúng là tôi biết một chút về kiến trúc nơi này. Tôi từng đăng một bài tuyệt cú mèo về chủ đề này, cô nên bắt đầu bằng việc đọc bài ấy. Nếu cô cho địa chỉ nhà cô, tôi có thể mang tới cho cô một bản sao bài báo ngay trong tối nay…

- Anh vừa nhắc đến tên ai ấy nhỉ?

- Tên của kiến trúc sư đã giám sát công trình này. Cô không biết người đó à?

- Tôi quên mất rồi. - Suzie đáp, vẻ tư lự. Thế còn Fisher Stone, cái tên này có gợi cho anh điều gì không? Có phải là một nơi đặc biệt trong bưu điện này không?

- Thật ra thì cô thuộc típ nghiên cứu sinh gì về quy hoạch đô thị?

- Thuộc típ lười, Suzie thú nhận.

- Tôi cũng có cảm giác như thế. Theo tôi nào, Olson lầm bầm.

Anh ta đưa Suzie và Andrew tới một bức tường và bảo họ dừng lại trước một tấm biển kỷ niệm ngày khánh thành bưu điện trung tâm và trên đó có thể đọc được:

William H. WOODIN

Bộ trưởng Tài chính

Laurence W. ROBERT Jr

Thứ trưởng

James A. WETMORE

Kiến trúc sư giám sát

TAYLOR & FISHER

William F.STONE Jr

Kiến trúc sư cộng tác

1933

- Chúng ta có số hộp thư rồi, Andrew thì thầm vào tai Suzie.

- Vậy cô muốn chúng ta bắt đầu chuyến tham quan này từ đâu? Olson hỏi, hãnh diện về sức ảnh hưởng của mình.

- Anh là hướng dẫn viên của chúng tôi mà. - Suzie đáp.

Và suốt hai tiếng đồng hồ sau đó, Olson tỏ ra là một nhà diễn thuyết hoàn hảo. Vốn kiến thức của anh ta thậm chí rốt cuộc còn khiến Andrew thấy sửng sốt. Cứ đi một bước anh ta lại dừng chân giải thích cho Suzie về nguồn gốc một diềm mũ cột, cho cô biết nhà điêu khắc nào đã tạo tác nên một bức chạm nổi, những nghệ nhân nào đã đắp những ô trần lõm, hay xuất xứ của các loại cẩm thạch lát sàn. Suzie tỏ ra thích thú khi được khám phá lịch sử nơi này, có lúc còn làm quá đến mức hỏi han Olson, điều đó có hiệu quả tức thì là khiến Andrew thấy bực.

Trở lại trước những hộp thư còn lại của bưu điện, Suzie và Andrew nhận thấy không có hộp thư nào mang số hiệu 1933.

- Khi hệ thống phân loại thư tự động được lắp vào đầu những năm 1980, Olson nói tiếp, toàn bộ phần diện tích ngầm của bưu điện đã đóng cửa tham quan với công chúng.

- Dưới tầng ngầm còn nhiều hộp thư khác sao? - Suzie hỏi.

- Còn chứ, đương nhiên rồi, nhưng không còn quan trọng, ngày càng ít người sử dụng hộp thư bưu điện, đa số hộp thư ở đây chỉ còn giá trị trang trí. Các tầng ngầm đó giờ cũng không được vào nữa, nhưng tôi giữ quan hệ tốt với một trong số các lãnh đạo của bưu điện này. Nếu cô muốn tham quan, tôi sẽ sắp xếp chuyện đó trong vài ngày tới. Chúng ta thậm chí có thể ăn trưa trước chuyến tham quan, hoặc ăn tối sau đó.

- Thật là một ý rất hay. - Suzie đáp.

Cô cảm ơn Freddy Olson đã dành thời gian cho họ và nói rằng về nhà cô sẽ hoàn thiện luận án với những gì anh đã chỉ bảo cho cô.

Olson ghi số điện thoại của mình lên một tờ trên cuốn sổ xé và đảm bảo rằng với cô thì lúc nào anh ta cũng rảnh.

Suzie, sau khi đã trả lại áo khoác cho Andrew, để hai người đàn ông lại với nhau. Olson chờ đến khi cô đi xa hẳn.

- Nói đi, Stilman, cậu vẫn đang đau buồn vì cuộc hôn nhân của mình, phải không? Vừa liếc nhìn Suzie đang băng qua đại lộ Tám, Freddy vừa hỏi.

- Chuyện đó liên quan gì tới cậu?

- Tôi cũng cảm thấy đúng như thế. Nếu đã vậy, cậu không thấy bất tiện nếu một tối nào đó tôi mời cô bạn của cậu đi ăn chứ? Có thể tôi nhầm, nhưng có cảm giác tôi không khiến cô ấy khó chịu đâu.

- Nếu cậu có cảm giác mình không khiến ai đó thấy khó chịu, tốt hơn hết đừng bỏ lỡ một cơ hội như thế.

- Lúc nào cậu cũng nên nói lời tử tế với tôi, Stilman ạ.

- Cô ấy là người tự do, cứ làm điều mình thích đi, Freddy.

*