Mạnh hơn sợ hãi - Chương 09 - Phần 2

Khi bước vào quán Frankie’s, Andrew nhận thấy Suzie đã ngồi sẵn ở bàn anh thường ngồi, phía cuối nhà hàng.

- Tôi đã bảo cô phục vụ là tôi ăn tối với anh.

- Tôi thấy rồi, Andrew đáp khi ngồi xuống.

- Anh cắt đuôi được anh chàng đồng nghiệp chưa?

- Dẫu sao thì cũng không phải nhờ cô.

- Giờ chúng ta làm gì nhỉ?

- Chúng ta ăn tối. Sau đó, cùng đi làm một chuyện ngốc nghếch và hy vọng sau này không hối tiếc chuyện đó.

- Chuyện ngốc nghếch kiểu nào? Suzie vừa hỏi vừa tạo dáng khiêu khích.

Andrew ngước mắt lên ngao ngán và lục tìm trong túi đeo. Anh lấy ra một chiếc đèn pin và đặt nó lên bàn. Suzie bật đèn và rọi nó lên trần nhà.

- Chúng ta chơi trò xem ai bắt chước tượng Nữ thần Tự do giống nhất đi! Cô phấn khích thốt lên trước khi chiếu đèn vào mắt Andrew. Hãy nói tôi biết tất cả những điều mà anh biết, anh Stilman! Cô vừa ra vẻ một tay cớm cứng rắn vừa nói.

- Chắc là vào rạp xiếc tôi sẽ tìm được ông chủ. Tôi vui vì điều đó khiến cô vui.

- Thôi được rồi, thế chúng ta làm gì với cái đèn này?

- Chúng ta sẽ đi tìm một hộp thư trong khu vực tầng ngầm của bưu điện Farley.

- Nghiêm túc à?

- Một cách lẳng lặng.

- Tôi thích ý tưởng này đấy!

- Càng hay, tôi thì ngược lại.

Andrew trải một sơ đồ ra trước mặt Suzie.

- Dolorès lấy được cái này từ văn phòng thị chính. Đây là một phần trong số các tài liệu để chế độ xem miễn phí. Nhiều hộp thư cũ còn lại đã được bịt lại trong khu vực mà cô thấy ở đây, anh nói thêm, đồng thời chỉ tay theo một đường lượn màu đen. Và tôi đã tìm ra cách xâm nhập vào đó.

- Anh là người-xuyên-tường à?

- Những đường này, mảnh hơn trên sơ đồ, là các vách thạch cao. Nhưng vì tất cả chuyện này chỉ khiến cô cười cợt thôi, nên tôi sẽ về nhà xem tivi, như thế thư thái hơn mà lại ít nguy cơ hơn chuyện vượt rào vào khu tầng ngầm của bưu điện.

Suzie đặt tay lên tay Andrew.

- Tôi chỉ muốn làm anh mỉm cười thôi. Tôi chưa từng được thấy anh cười.

Andrew cố nặn ra bộ mặt nhăn nhó.

- Cứ như Nicholson đóng vai Joker ấy.

- Ờ thì là thế đấy, tôi thuộc típ người không hay cười. Andrew vừa gấp sơ đồ lại vừa lẩm bẩm. Cô ăn cho xong món mì đi, tôi sẽ giải thích với cô tại chỗ, anh vừa nói vừa rút tay lại.

Suzie gọi phục vụ rót thêm cho cô một cốc vang. Andrew ra hiệu đem hóa đơn lại cho anh.

- Anh quen vợ anh như thế nào?

- Chúng tôi gặp nhau hồi trung học. Cả hai bọn tôi cùng lớn lên ở Poughkeepsie.

- Hai người luôn bên nhau từ hồi niên thiếu sao?

- Với một quãng tạm nghỉ chừng hai mươi năm. Chúng tôi chạm mặt nhau ở New York, ở lối ra của một quán bar. Valèrie đã trở thành một người phụ nữ, mẫu phụ nữ hấp dẫn nữa là đằng khác! Nhưng đêm hôm ấy, tôi đã gặp lại cô gái của thời niên thiếu. Cảm xúc chẳng bao giờ cũ đi.

- Sao hai người lại chia tay nhau?

- Lần đầu tiên, chính cô ấy là người ra đi. Chúng ta ai chẳng có giấc mơ thuở thiếu thời, cô ấy không có thời gian chờ đợi tôi. Tuổi niên thiếu thường nông nổi.

- Thế còn lần thứ hai?

- Tôi chưa bao giờ biết nói dối.

- Anh đã lừa dối cô ấy à?

- Không hẳn.

- Anh đúng là típ người buồn cười, Stilman.

- Mà không biết mỉm cười.

- Anh vẫn yêu cô ấy chứ?

- Điều đó thì thay đổi được gì?

- Cô ấy vẫn đang sống, điều đó thay đổi được nhiều thứ.

- Shamir đã yêu cô và cô yêu anh ấy. Nói theo một cách nào đó thì cả hai vẫn luôn bên nhau. Còn tôi, tôi đơn độc.

Suzie rướn người qua bàn và hôn Andrew. Đó là nụ hôn bị đánh cắp, trộn lẫn nỗi buồn và sự sợ hãi, một nụ hôn ruồng rẫy, với anh và với cả cô.

- Chúng ta sẽ làm chứ, chuyện vụng trộm ấy? Cô vừa nói vừa ve vuốt má anh.

Andrew nắm bàn tay Suzie và ngưng ánh mắt lại nơi những ngón tay đã bị cụt đốt. Anh hôn vào gan bàn tay cô.

- Ừ, hãy đi làm chuyện vụng trộm đó thôi, anh vừa đứng dậy vừa nói.

Những con phố khu West Village nhường chỗ cho những con phố khu Chelsea, khu Hell’s Kitchen và chiếc taxi chở họ rẽ về hướng Đông. Andrew nhiều lần ngoái lại để nhìn qua ô kính phía sau xe.

- Đừng có cuồng ám như thế, Suzie thở dài.

- Chiếc taxi đậu dưới chân tòa nhà cô ở là một chiếc xe cảnh sát ngụy trang.

- Tài xế xe đã đến tự thú à? Cô đáp lại với giọng châm chọc.

- Olson không phải là kẻ duy nhất có mối quan hệ rộng rãi. Anh ta thì với một nhân viên bưu điện, còn tôi với một cựu thanh tra của đồn cảnh sát khu phố nhà mình. Chiều này tôi đã gọi cho ông ấy, biển số của chiếc taxi ấy vốn được đăng ký cho một xe cảnh sát.

- Một tên tội phạm đang lảng vảng quanh nhà tôi, điều đó có thể lý giải cho hai vụ trộm ở nhà chúng ta.

- Tôi những muốn chuyện chỉ là thế. Thanh tra Pilguez không phải kiểu người để mặc tôi mà không nói một lời, nhưng lần này… Tôi đã đề nghị ông ấy thử tìm hiểu xem cảnh sát đang theo dõi ai. Các đồng nghiệp cũ của ông ấy đã đảm bảo rằng hôm nay không có ai nhận nhiệm vụ theo dõi đối tượng nào trên phố Hudson cả.

- Tôi không hiểu, vậy đó có phải là xe cảnh sát hay không?

- Đó là chiếc xe được ngụy trang đến hai lần. Chỉ có một cơ quan chính phủ có thể làm được việc kiểu này, giờ thì cô hiểu rõ hơn rồi chứ?

*

Andrew dẫn Suzie qua Ga Penn. Một cầu thang máy lớn đưa họ xuống các đường ke nằm dưới tầng ngầm. Vào cái giờ khuya khoắt này, nhà ga gần như vắng hoe. Hành lang mà họ liều lĩnh bước vào càng lúc càng tối. Qua hết một ngã rẽ, họ tới trước một hàng giậu có dán nhiều tờ giấy phép xây dựng.

- Từ đây là bắt đầu công trường rồi, Andrew thông báo, đồng thời rút một chiếc tuốc nơ vít ra khỏi túi đeo.

Anh xử lý hai cái bản lề trên cánh cửa gỗ mà anh đã mở được chẳng mấy khó khăn.

- Anh thạo việc này ra trò nhỉ, Suzie thốt lên.

- Bố tôi là thợ sửa chửa mà.

Mở ra trước mắt họ là một lối đi ngầm được chiếu sáng yếu ớt bằng vài bóng đèn treo lủng lẳng dưới sợi dây điện nối lên mái vòm. Andrew bật đèn pin và bảo Suzie đi theo anh.

- Chúng ta đang ở dưới đại lộ Tám à? - Cô hỏi.

- Đúng thế, và nếu sơ đồ của tôi là hàng chuẩn thì đường hầm này sẽ dẫn chúng ta tới khu vực tầng ngầm của bưu điện Farley

Căn phòng mà họ vừa bước vào chìm sâu trong bóng tối đen đặc. Andrew chìa đèn pin cho Suzie và bảo cô soi đèn vào tấm sơ đồ mà anh đang giữ bằng một tay.

- Bên phải, anh vừa tiếng lên vừa nói.

Tiếng bước chân của họ vang vọng. Andrew ra hiệu cho Suzie dừng chân và giữ im lặng. Anh tắt đèn chờ một lúc.

- Có chuyện gì vậy? Cô thì thào.

- Không chỉ có mình chúng ta.

- Bọn chuột đấy, cô đáp. Một nơi như thế này hẳn là đầy chuột ấy chứ.

- Chuột thì không mang giày, Andrew bác bỏ, tôi nghe có tiếng bước chân.

- Vậy thì ta chuồn thôi.

- Tôi lại tưởng cô bạo dạn hơn đấy. Theo tôi nào, nói cho cùng có lẽ là chuột thật, tôi không nghe thấy gì nữa.

Andrew bật đèn trở lại.

Họ đi đến một căn phòng vốn là nơi phân loại thư. Những chiếc bàn gỗ cũ kỹ được xếp chồng chất những thùng kim loại nơi mà ngày trước các nhân viên bưu điện phân chia thư từ giờ chìm dưới một lớp bụi dày. Sau đó, họ băng ngang phòng ăn của một căng tin cũ, một phòng thay đồ và một dãy bàn đã xập xệ hết mức. Andrew có cảm giác đang tham quan một xác tàu đắm.

Anh nhìn sơ đồ lần nữa rồi lại đi tiếp.

- Lẽ ra chúng ta phải thấy một cầu thang xoáy ốc, đâu đó phía bên trái. Thẳng trên đầu chúng ta là nơi đặt các hộp thư, nhưng tôi không biết làm cách nào để lên được tới đó.

Andrew nhìn thấy một chồng hòm xiểng. Anh đưa đèn pin cho Suzie và dịch chuyển đống thùng, phát hiện ra phía sau chúng là tay vịn đã bị ăn mòn của một cầu thang ọp ẹp mất hút vào một ô cửa trên trần.

- Đường đi của chúng ta đây rồi, Andrew vừa nói vừa tự phủi bụi.

Anh leo lên trước, để yên tâm là không một cầu thang nào bị gãy khi Suzie theo sau, nhưng cô mới là nhà leo núi, anh nghĩ bụng, và một cái cầu thang cũ kỹ hẳn cũng chẳng khiến cô thấy sợ.

Suzie gặp lại anh ở tầng trên. Andrew lia đèn khắp căn gác, soi vào một dãy hộp thư vẫn còn gắn nguyên trên tường. Trên các ổ khóa đều gắn một ngôi sao bằng thiếc. Số thứ tự của hộp thư, được thếp vàng, nổi bật trên nền sơn màu xanh da trời.

Suzie tiến lại chỗ hộp thư số 1933. Andrew lại lấy chiếc tuốc nơ vít ra và chọc thủng lỗ khóa.

- Nhường cô vinh dự này, anh nói sau khi đã mở được hộp thư.

Suzie rút từ trong đó ra một chiếc phong bì, cô run rẩy bóc và đọc được một từ duy nhất ghi trên mảnh giấy bristol chứa bên trong: “Snegourotchka”.

Andrew đặt ngón trỏ lên môi Suzie và lại tắt đèn pin.

Lần này, anh chắc chắn đã nghe thấy một tiếng rắc, rồi cả một hơi thở quá rõ rệt nên không thể là hơi thở của loài gặm nhấm. Anh đợi một lúc, cố gắng nhớ lại bản sơ đồ mà anh đã nghiên cứu đi nghiên cứu lại. Anh cầm tay Suzie và lần dọc theo bức tường toàn hộp thư cho đến tận cuối căn gác.

Suzie vấp phải vật gì đó và hét lên một tiếng. Andrew bật đèn trở lại, và soi vào các bậc thang dẫn lên tầng trên.

- Lối này, anh vừa nói vừa rảo bước.

Trong tiếng vọng từ bước chân của họ, anh nhận ra rõ ràng tiếng bước chân của hai người đang theo sau họ.

Andrew siết chặt tay Suzie và bắt đầu chạy. Một cánh cửa chắn ngang đường đi. Andrew vung chân đá một cú khiến nó lung lay. Đến cú tấn công thứ hai, ổ khóa bung ra. Anh đóng cửa lại chặn lối đi và kê cả một chiếc thùng kim loại chèn vào đó.

Họ lạc vào một căn phòng ngập ngụa rác và nặng mùi xú uế, lẫn giữa nước tiểu và phân. Những kẻ vô gia cư hẳn đã biến nơi này thành hang ổ của mình. Và nếu những kẻ ấy vào được tận tay, chứng tỏ hẳn phải có một lối vào ở đâu đó. Andrew rọi đèn ra xung quanh và nhận thấy một ô cửa trổ phía trên trần. Anh kéo một chiếc bàn ra và bảo Suzie leo lên đó. Anh thấy cô mất hút qua ô cửa trập với độ nhanh nhẹn đáng chú ý. Cô lại ló mặt ra, chìa tay cho anh. Khi đến lượt mình leo lên, Andrew nghe thấy tiếng cánh cửa bung ra dưới những đòn tấn công sau khi cái thùng sắt đã bị những kẻ kia đẩy lui.

Suzie chỉ lên một ô cửa sổ con nơi các chấn song sắt đã bị cắt cụt. Có thể những kẻ vô gia cư đã lẻn vào toàn nhà qua đường này. Cả hai lom khom đi đến tận ô cửa sổ nhỏ, lần lượt chui qua đó và nhảy xuống rãnh thông cạn nước bao dọc bưu điện Farley trên phố 31.

Được hít thở lại không khí mát lành khiến họ sung sướng ngây ngất. Andrew ước tính họ có lơi thế hai phút so với những kẻ truy đuổi. Trong cái rãnh cạn thấp hơn mặt đường này, giữa đêm hôm khuya khoắt, mọi chuyện đều có thể xảy ra.

- Tới đây, phải ra khỏi cái xó này. - Anh ra lệnh cho Suzie.

*

Khi đã lên được trên mặt đường, họ chạy băng qua đại lộ Tám và dừng ngang lòng đường để bắt taxi. Andrew bảo tài xế chạy về khu Harlem. Qua phố 80, anh bảo tài xế là đã đổi ý và nài nỉ anh ta lái xe trở xuống khu Greenwich Village.

Và trong khi chiếc taxi lướt nhanh trên đường cao tốc West Side, Andrew vẫn chưa nguôi giận.

- Cô có nói với ai về hành động liều mạng của chúng ta tối nay không? Anh nói, hai hàm răng nghiến chặt.

- Đương nhiên là không, anh coi tôi là loại người gì chứ?

- Vậy cô giải thích sao về chuyện vừa xảy ra?

- Ai bảo anh đấy không đơn thuần chỉ là mấy tên vô gia cư?

- Bao nhiêu năm nay, chưa ai từng bước vào căn phòng nơi tôi nghe thấy tiếng động lúc đầu.

- Anh thì biết gì chứ?

- Bụi dưới sàn còn trắng nguyên như tuyết. Những kẻ đuổi theo chúng ta đã theo dõi chúng ta từ Ga Penn. Và tôi có thể đảm bảo với cô rằng cả tôi cả cô đều không bị bám đuôi lúc chúng ta rời khỏi nhà cô.

- Tôi thề với anh là tôi không nói với ai! Suzie nổi khùng.

- Tôi tin cô, Andrew đáp. Kể từ giờ phút này, chúng ta phải cảnh giác hơn nữa.

Suzie đưa lại cho Andrew tờ giấy mà cô đã tìm thấy trong hộp thư bưu điện.

- Cô có biết từ này nghĩa là gì không? Anh vừa xem xét vừa nói.

- Không hề.

- Trông giống tiếng Nga, Andrew nói. Cũng không biện minh được gì cho bà cô.

Suzie không nói gì.

Về tới nhà Andrew, Suzie, lạnh cứng người, đi pha trà cho cả hai.

- Công chúa Tuyết! Đột nhiên Andrew hét lên từ phòng khách.

Suzie đặt khay trà lên bàn làm việc và cúi nhìn vào màn hình máy tính.

- Snegourotchka, là một vở nhạc kịch do Rimski- Korsakov sáng tác vào năm 1881, chuyển thể từ một vở kịch do một người nào đó tên là Aleksandr Ostrovski viết, anh nói.

- Liliane chỉ thích jazz thôi.

- Nếu bà cô đã mất công đi giấu tên của vở nhạc kịch này trong một hộp thư bưu điện, thì hẳn nó phải có một ý nghĩa quan trọng nào đó.

- Nhạc kịch về chủ đề gì?

- Sự đối lập muôn thuở giữa các thế lực tự nhiên, Andrew đáp. Nhường cô đọc đấy, mắt tôi mỏi quá rồi, anh vừa đứng dậy vừa nói. Hai bàn tay anh bắt đầu run run, anh giấu chúng sau lưng và tới nằm trên xô pha.

Suzie ngồi thế chỗ anh và đọc to đoạn tiếp theo.

- Là câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ giữa những con người bằng xương bằng thịt và các nhân vật huyền thoại, cô đọc tiếp. Công chúa Tuyết mơ ước được sống giữa thế giới con người. Mẹ nàng, Nữ chúa Mùa xuân, và ông nàng, Chúa tể Băng giá, đồng ý để nàng làm con nuôi của một đôi vợ chồng nông dân. Hồi hai, một cô gái có tên Kupova báo tin kết hơn với chàng trai tên là Mizghir. Nhưng vài ngày trước lễ cưới của họ. Mizghir gặp Công chúa Tuyết trong rừng và đem lòng yêu nàng đắm đuối, cầu xin nàng đáp lại tình yêu của anh.

- Chuyện này nghe giống chuyện của ai đó quá, Andrew thở dài.

- Công chúa Tuyết không hề biết tình yêu là gì và nàng từ chối. Người dân trong làng cầu xin sa hoàng rửa sạch nỗi nhục mà cô gái đã hứa hôn kia phải chịu. Sa hoàng ban chiếu đày Mizghir biệt xứ. Nhưng khi đến lượt mình nhìn thấy Công chúa Tuyết, sa hoàng cũng ngây ngất trước vẻ đẹp của nàng nên đã thu lại chiếu chỉ và hỏi xem nàng có yêu Mizghir không. Công chúa Tuyết đáp rằng nàng mang trái tim băng giá nên không thể yêu ai được. Vì vậy, sa hoàng tuyên bố ai chinh phục được trái tim nàng sẽ lấy nàng và được trọng thưởng. Trong hai hồi tiếp theo, Công chúa Tuyết rốt cuộc cũng tìm ra được chìa khóa của cảm xúc và đem lòng yêu Mizghir. Mẹ nàng đã cảnh cáo nàng không bao giờ được xuất hiện dưới ánh mặt trời, nhưng Mizghir lại sống giữa vùng nắng ấm. Công chúa Tuyết bước ra khỏi khu rừng để gặp chàng và, trước sự bấn loạn của những người có mặt cùng vị hôn phu bất hạnh, nàng tan ra rồi biến mất.

- Tôi cảm thấy khá gần gũi với anh chàng Mizghir này, tôi đồng cảm với nỗi đau khổ của anh ta, Andrew lẩm bẩm.

- Anh không biết mình nói chuẩn thế nào đâu, Mizghir, vì quá đau đớn, đã trẫm mình xuống hồ.

- Mỗi người một kiểu, tôi thì đã chọn Fernet-Coca. Thế vở bi kịch của Nga này kết thúc thế nào?

- Sa hoàng tuyên bố với các thần dân rằng nhờ sự biến mất của Công chúa Tuyết mà mùa đông dài lạnh giá trên khắp nước Nga sẽ chấm dứt.

- Tuyệt cú mèo! Chúng ta thật sự đã tiến xa đấy! Andrew càu nhàu.

- Tại sao bà tôi lại để lại từ tiếng Nga đó trong hộp thư nhỉ?

- Tôi đang tính hỏi cô điểu đó!

Andrew nhường phòng ngủ cho Suzie, anh sẽ ngủ trên xô pha, anh quen ngủ trên đó rồi. Suzie lấy một chiếc chăn, tắt đèn và nằm dài lên thảm bên cạnh anh.

- Cô làm gì thế?

- Tôi đã nói là tôi không thích ngủ trên giường, và tôi có cảm giác rằng, dù có nằm trong chăn đệm mới thì anh cũng không muốn ngủ trên giường nhà mình, vậy tì sao phải ngủ riêng chứ?

- Cô sẽ không cảm thấy thoải mái hơn trên xô pha này đâu nhỉ? Nếu cô không muốn ngủ một mình, tôi có thể làm quen với tấm thảm.

- Chắc chắn trăm phần trăm.

Họ vẫn cứ im lặng trong lúc đôi mắt quen dần với bóng tối.

- Anh ngủ chưa? Suzie thì thào.

- Chưa.

- Anh không ngủ à?

- Có chứ, tôi mệt đứt cả hơi rồi.

- Vậy thì?

- Vậy thì, chẳng có hết.

- Buổi tối hôm nay được đấy chứ.

- Tôi đã bấn loạn cả lên khi mấy tay bám theo chúng ta bắt đầu phá cửa.

- Tôi đang nói về bữa tối cơ, Suzie lẩm bẩm.

- Ừ, cũng được, Andrew vừa nói vừa trở mình quay sang phía cô.

Và anh nghe thấy hơi thở đều đều của cô. Suzie đã thiu thiu ngủ và Andrew cứ nằm thế ngắm nhìn cô, cho đến khi giấc ngủ cũng đến mang anh đi.

*

Tiếng chuông điện thoại đánh thức Knopf dậy.

- Tôi hy vọng gọi điện cho tôi vào giờ này thì hẳn phải có tin quan trọng.

- Snegourotchka. Cái đó đáng để quấy rầy ông chứ?

Knopf nín thở.

- Sao ông lại nhắc đến cái tên đó? Ông vừa nói vừa kềm chế cảm xúc.

- Vì từ giờ trở đi đôi trai gái của ông cũng biết cái tên đó rồi.

- Họ đã biết ý nghĩa của từ đó sao?

- Chưa đâu.

- Làm sao họ biết được?

- Theo báo cáo về các lần nghe lén mà tôi vừa được nhận, đêm qua hai người đó đã giải khuây bằng trò tham quan khu tầng ngầm của bưu điện Farley. Nàng Liliane Walker của ông đã để lại một bức thư trong một hộp thư. Tôi tưởng chúng ta đã xóa sạch dấu vết rồi chứ?

- Có vẻ là chưa, Knopf thở dài.

- Tôi rất muốn biết làm sao một sai lầm như thế lại có thể xảy ra được.

- Phải thấy rằng bà ấy mưu mẹo hơn chúng ta nghĩ.

- Hơn ông nghĩ thôi, Knopf, tôi nhắc lại để ông nhớ rằng chính ông đã giám sát vụ này.

- Ông đã muốn hành động quá sớm, và phản đối ý kiến của tôi. Nếu chúng ta chờ thêm…

- Nếu chúng ta chờ thêm một ngày nữa, hẳn là bà ta đã thủ tiêu tất cả, và Snegourotcha sẽ chết. Giờ thì khắc phục sai lầm của ông đi và giải quyết dứt điểm chuyện này cho chúng tôi.

- Tôi không nghĩ có gì phải hoảng. Ngay cả khi họ có hiểu được từ đó nghĩa là gì, điều mà tôi vẫn rất nghi ngờ, thì chắc họ cũng chẳng có bằng chứng nào đâu.

- Chỉ trong vài ngày Suzie Walker và Andrew Stilman đã tìm ra một tài liệu mà chúng ta không hề biết đến sự tồn tại suốt bốn mươi sáu năm nay, đừng có đánh giá thấp họ như thế. Ông dám chắc là hồ sơ về Snegourotcha đã được hủy đến thế kia à? Chuyện xảy ra đêm qua dường như cho thấy điều ngược lại.

- Tôi dám chắc.

- Vậy có ai cũng quan tâm đến hai người được ông bảo vệ chứ, và tại sao?

- Ông đang nói gì vậy?

- Vẫn theo bản báo cáo về các lần nghe lén, tôi đọc nguyên văn nhé “Tôi đã bấn loạn cả lên khi mấy tay đi theo chúng ta bắt đầu phá cửa.” Một nhóm người của chúng ta đang theo dõi họ à?

- Không, chúng tôi đã để mất dấu họ, hai người đó đã ra khỏi chung cư mà chúng tôi không hề biết.

- Thật là thiếu chuyên nghiệp, Knopf, người kia nói giọng mũi gắt gỏng. Snegourotcha phải được bảo vệ. Bây giờ càng cần hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh hiện nay, tiết lộ sự tồn tại của nó hẳn sẽ là chuyện động trời, ông hiểu chứ?

- Tôi hiểu ý ông mà, thưa ông.

- Vậy thì hãy làm việc cần làm đi.

Người ở đầu dây bên kia gác máy mà không một câu chào.