Mạnh hơn sợ hãi - Chương 12 - Phần 1

12.

Andrew hỏi đường người gác cổng ký túc xá.

Suzie đi trước anh vào nhà C khu ký túc xá sinh viên.

Andrew gõ cửa. Colman chắc đang vừa làm vừa đeo tai nghe. Đến lượt Suzie gõ cửa, và vì Colman vẫn đang không trả lời cô liền bước vào phòng.

Jack đang ngủ, gục đầu trên bàn phím. Tò mò, Suzie nhìn Andrew rồi tiến lại gần chiếc bàn. Cô đặt tay lên vai Colman, cánh tay cậu trai trẻ buông thõng xuống dọc thân, khuôn mặt nhợt nhạt.

Suzie hét lên một tiếng thì bị Andrew lấy tay bịt chặt miệng khiến cô ngộp thở. Cô đẩy anh ra rồi lay vai Colman. Đầu Jack lắc lư trên bàn phím máy tính, nhưng đôi mắt vẫn khép hờ, không còn chút biểu hiện nào của sự sống.

- Gọi cấp cứu đi, Suzie khẩn khoản.

Andrew ấn ngón trỏ lên động mạch cảnh của Colman.

- Tôi rất tiếc, thật sự rất tiếc, anh nói, cổ họng tắc nghẹn.

Suzie quỳ gối xuống bên cạnh Jack, và cầm lấy bàn tay đã trơ lì của cậu. Và trong khi cô đang van xin Colman hãy tỉnh lại thì Andrew bắt cô đứng dậy.

- Cô đang lưu lại vân tay khắp nơi đấy, anh càu nhàu. Nào, đi thôi, chúng ta chuồn mau.

- Tôi mặc xác mấy cái vân tay đó!

- Đúng là thảm kịch, nhưng chúng ta không thể làm gì được nữa.

Andrew để ý thấy một mảnh bìa màu trắng thò ra dưới má Colman. Anh rút lấy nó và nhận ra danh thiếp của mình. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu anh, như ánh chớp nhoáng lên một giây ngắn ngủi bứt anh ra khỏi cảnh ngộ đang sa vào.

- Mẹ kiếp, mặc kệ vân tay đi, anh làu bàu.

Anh nhấc đầu Colman ra và giành lấy bàn phím, trước mặt Suzie còn đang chưa hiểu sao anh lại vội vã như thế.

Anh mở trình duyệt, kết nối với hộp thư của tờ The New York Times, gõ tên tài khoản và mật khẩu rồi đăng nhập hộp thư điện tử của mình.

Anh thấy trong đó rất nhiều thư mà anh chưa mở từ nhiều ngày nay, bức thư gần nhất xuất hiện phía trên màn hình và được gửi từ Jack Colman.

Cậu thanh niên hẳn đã soạn thư ngay sau cuộc điện thoại giữa họ. Khi gục xuống bàn phím, cậu đã vô tình nhấn nút gửi.

Và trong khi Andrew đang thử đọc những dòng đầu tiên, anh nhận thấy các bức thư khác đang chờ đọc cứ dần biến mất từng cái một.

- Có kẻ đã bẻ khóa hòm thư của tôi, anh kêu lên.

Danh sách email rút ngắn theo từng giây.

Andrew cuống cuồng ấn lên hai nút. Máy in của Colman bắt đầu kêu ro ro và một trang giấy chui ra khỏi khe in.

Andrew cất nó vào túi, bật điện thoại và gọi 911.

*

Căn phòng ký túc xá chật ních cảnh sát. Các nhân viên cứu thương vội vã đến hiện trường đã rút lui khi nhận thấy đối tượng đã chết. Không có tổn thương bên ngoài, không có dấu vết vật lộn, không có vết kim tiêm, thoạt nhìn không có gì chứng tỏ đây là một vụ tấn công hay thậm chí một vụ sốc thuốc.

Một chàng trai trẻ chết trước màn hình máy tính và viên thanh tra, người đã thu thập lời chứng của Andrew, nói với anh rằng nguyên nhân cái chết có vẻ là chết tự nhiên. Đây có lẽ không phải là thanh niên đầu tiên chết vì dị tật tim, vì đứt mạch máu, hay vì lạm dụng amphetamine hay đơn giản là vì ảnh hưởng từ lối sống không lành mạnh. “Đám sinh viên là hay bất chấp tất cả để vượt qua các kì thi lắm”. Ông đã gặp nhiều trường hợp khác trong sự nghiệp. Khám nghiệm tử thi sẽ xác nhận tất cả những chuyện đó. Trong lúc chờ đợi, Suzie và Andrew được yêu cầu không rời khỏi bang New York và phải đến trình diện cảnh sát trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ để lấy lời khai nhân chứng của từng người.

Trước khi cho phép họ rời khỏi hiện trường, viên thanh tra gọi về tòa soạn The New York Times và yêu cầu nối máy với tổng biên tập của Andrew để chắc chắn phóng viên Stilman đang chuẩn bị một bài báo về trường Juilliard và vì việc này anh phải gặp một người tên là Jack Colman trong chiều nay. Olivia Stern xác nhận luôn với ông ta mà không do dự lấy một giây. Cô đề nghị được nói đôi lời với phóng viên của mình. Viên thanh tra chuyển máy cho Andrew.

- Tất nhiên là tôi đang chờ anh tại văn phòng trong một giờ nữa. Olivia nói.

- Đương nhiên rồi.

Anh trả điện thoại di động lại cho viên thanh tra.

- Xin lỗi ông, tôi buộc lòng phải kiểm tra, thủ tục là như vậy. Nhưng tôi đã không nói là ông đi cùng bạn gái.

- Cảm ơn ông. Andrew nói, dù quy định của chúng tôi cũng không cấm việc đó.

Viên thanh tra thả cho họ đi.

*

- Sao anh không nói gì? Suzie thốt lên khi ra đến vỉa hè.

- Nói gì chứ? Nói rằng vì yêu cầu cậu nhóc đó giúp chúng ta tìm ghép các đoạn còn thiếu trong một vở kịch mà chúng ta vô tình khiến cậu ta bị hại chết à? Nói rằng có thể cậu ta bị một tên sát thủ chuyên nghiệp hành quyết và rằng chúng ta có những lí do chính đáng để tin vào giả thuyết này vì tối hôm kia cô đã trừ khử một đồng bọn của gã đó à? Cô có cần tôi nhắc cho cô nhớ chuyện đã xảy ra trên đảo không? Ai trong số hai chúng ta không muốn báo cảnh sát vì sợ cuộc điều tra của mình bị ngưng lại?

- Tôi phải nói chuyện với Knopf, dù anh có thích chuyện đó hay không.

- Cứ làm chuyện gì mà cô thấy là tốt, tôi còn phải đi nói chuyện với tổng biên tập và tôi chưa biết bịa ra chuyện gì để cô ấy cho tôi yên thân. Tôi mang theo lá thư, tôi sẽ nghiên cứu nó ở tòa soạn, cuối ngày chúng ta sẽ gặp lại nhau ở khách sạn. Tôi không thích ý nghĩ để cô lại một mình, hãy cẩn trọng và đừng có bật điện thoại lên đấy.

- Chính anh đã làm điều đó đấy thôi!

- Tôi không còn cách nào khác và tôi đang hối tiếc đây.

*

Andrew cần sắp xếp lại suy nghĩ. Từ đây đến tòa soạn anh phải đi qua chừng hai mươi mốt khối nhà, anh quyết định đi bộ. Khi bước vào quán bar đầu tiên gặp trên đường, anh gọi một cốc Fernet-Coca, nhân viên quầy bar không phục vụ loại đó và Andrew tức tối bước ra.

Trên đường, anh dừng lại trước một quầy điện thoại và bấm số gọi tới San Fransisco.

- Là Andrew Stilman đây. Tôi làm phiền ông được chứ?

- Còn phụ thuộc vào chuyện cậu sặp nhờ tôi, thanh tra Pilguez đáp.

- Tôi vô tình xuất hiện tại hiện trường một vụ giết người. Tôi đã lưu lại đó không ít vân tay, tôi cần một lời bảo chứng để trình bày với các đồng nghiệp của ông.

- Tức là?

- Là ai đó, như ông chẳng hạn, đảm bảo với họ rằng tôi không phải hạng người có thể sát hại một đứa trẻ ranh. Nạn nhân còn chưa tới hai mươi tuổi. Tôi cần được yên thân, đủ thời gian để kết thúc một cuộc điều tra.

Pilguez không trả lời, Andrew nghe thấy cả tiếng ông thở.

- Và tất nhiên, anh chỉ vô tình có mặt tại hiện trường vụ án rốt cuộc ông cũng cất lời, giọng điềm tĩnh.

- Đại khái thế.

- Chuyện xảy ra ở đâu?

- Khu ký túc xá sinh viên Nhạc viện Juilliard, phố 65.

- Anh có ý tưởng nào về kẻ gây án không?

- Không, nhưng là tác phẩm của một kẻ chuyên nghiệp.

- Thôi được, tôi sẽ gọi một cuộc điện thoại. Anh lại đâm đầu vào chuyện gì nữa vậy, Stilman?

- Nếu tôi bảo bản thân tôi cũng không biết thì ông có tin không?

- Tôi được chọn à? Anh có cần giúp một tay không?

- Tôi nghĩ là không, dù gì thì cũng chưa tới lúc.

- Trong trường hợp cần thiết, đừng chần chừ, giờ tôi đang buồn tay buồn chân như con chuột chết đây.

Pilguez ngắt máy.

Khi đến trước tòa soạn, Andrew ngẩng đầu lên để ngắm nghía dòng chữ The New York Times gắn trên mặt tiền. Anh đút hai tay vào túi áo khoác và đi tiếp.

*

Knopf đang đợi Suzie, ông đọc báo, trên một băng ghế ở quảng trường Washington. Cô ngồi xuống cạnh ông.

- Trông cháu có vẻ không vui. Knopf vừa gập tờ báo lại vừa nói.

- Tôi đang hoang mang, Arnold ạ.

- Hẳn phải là chuyện nghiêm trọng thì cháu mới gọi thẳng tên ta như thế.

- Lẽ ra tôi nên nghe lời ông và từ bỏ ý định đi ra hòn đảo đó. Tôi đã bắn hại một người, và tôi sẽ phải sống với cảm giác đó suốt cuộc đời này.

- Cháu giết anh chàng nhà báo rồi ư?

- Không, gã đàn ông định dìm chết anh ta.

- Vậy thì là phòng vệ chính đáng.

- Khi ông phải nhìn cái đầu bê bết máu của người mà ông vừa giết, thì điều đó cũng chẳng thay đổi được gì nhiều.

- Đương nhiên là có chứ. Nếu chính kẻ đó cúi xuống nhìn đầu cháu đẫm máu, thì hẳn phải thay đổi nhiều thứ lắm, với ta cũng như với cháu. Cháu làm gì với cái xác đó rồi?

- Chúng tôi đã quẳng nó xuống đáy hồ.

- Đó là việc nên làm.

- Tôi không biết nữa, đáng lẽ tôi nên nghe lời Andrew và gọi cảnh sát. Nhưng tôi vốn chẳng nghe lời ai hết.

- Ta không còn tính được đã qua bao nhiêu ngày tháng ta bảo vệ cho cháu. Khỏi người khác và khỏi chính cháu. Giữa ta và cháu thì chẳng cần nhắc lại những chuyện tày đình cháu đã gây ra thời thiếu nữ nổi loạn, nhưng trong trường hợp dấu vân tay của cháu có trên một xác chết, ngay cả khi là phòng vệ chính đáng, thì lại vô cùng phiền phức đấy.

- Than ôi, thế mà tôi sợ giờ lại chính là trường hợp đó.

- Cháu nói với ta là kẻ đó đã bị quăng xuống đáy hồ cơ mà?

- Kẻ đó thì đúng thế. Nhưng còn một việc nữa: chúng tôi có hẹn với một sinh viên trường Juilliard và khi vào phòng cậu ta, chúng tôi thấy cậu ta đã chết.

- Và cháu đã để lại dấu vân tay trong căn phòng đó.

- Trên tay vịn cầu thang, trên tay nắm cửa, trên người cậu ta, trên ghế, trên bàn trong phòng cậu ta… Nhưng lần này, chúng tôi đã báo cảnh sát. Ngày mai tôi phải tới đồn cảnh sát cung cấp lời khai nhân chứng.

- Với thanh tra nào?

Suzie chìa tấm danh thiếp mà viên thanh tra đã đưa cho cô.

- Ta sẽ xem có thể làm được gì. Knopf vừa cầm lấy danh thiếp vừa nói, và ta sẽ báo tin cho cháu. Tuy nhiên, với điều kiện ta có thể liên lạc được với cháu! Cháu mất điện thoại à?

- Không, tắt máy.

- Vậy thì bật lại nó lên đi, chết tiệt! Cháu muốn ta bảo vệ cháu như thế nào đây nếu ta không biết tìm cháu ở đâu? Ta đã cảnh báo cháu rồi đấy, Suzie, theo đuổi điều tra vụ đó là một trong những việc thuộc hàng nguy hiểm bậc nhất.

- Miễn cho tôi mấy bài học của ông đi, với lại, ông sẽ hài lòng thôi, tôi đã quyết định chấm hết cuộc điều tra đó, máu đổ xuống cũng đủ rồi. Chuyện này vượt quá sức tôi.

Knopf cầm tay cô lên và ân cần vỗ về.

- Chỉ cách đây vài ngày, cháu gái à, được nghe cháu nói điều này hẳn đã khiến ta vui mừng lắm.

- Giờ thì không nữa à?

- Ta e đã quá muộn rồi. Ta sẽ nói với cháu một điều tuyệt mật, Suzie, và cháu phải thề sẽ không kể lại với bất kì ai, đặc biệt là trong thời điểm trước mắt. Ta đã hy vọng sẽ không bao giờ phải tiết lộ với cháu, bây giờ là tình thế bắt buộc. Bà cháu đã đánh cắp những tài liệu quan trọng hơn rất nhiều so với những chuyện về vị trí đóng quân của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Lời đồn đại đó chẳng có lý do nào khác ngoài mục đích ra ngủ kẻ thù. Lilane là một người tích cực phản đối sức mạnh hạt nhân. Và sự kiện Vịnh Con Lợn chỉ giúp bà ấy củng cố niềm tin. Những tài liệu bà ấy đánh cắp được trong văn phòng của chồng là những thông tin về việc lắp đặt hệ thống phòng thủ hạt nhân, nghiêm trọng hơn nữa, là những thông tin về tên lửa tầm xa mà chúng ta đã bí mật lắp đặt tại Châu Âu, trên biên giới với khối phương Đông. Chúng ta chưa bao giờ thừa nhận sự tồn tại của hệ thống này. Chúng vẫn ở đó, hàng chục tháp xi lô được hạ ngầm dưới các khu rừng. Thời này, Nga không còn là kẻ thù của chúng ta nữa, nhưng nhiều lãnh đạo cấp cao nước ta phải thừa nhận rằng tiết lộ sự tồn tại của hệ thống này hẳn sẽ gây ra những hậu quả tồi tệ về ngoại giao. Ở cái đất nước này, không ai đùa với an ninh quốc gia.

- Ông chỉ cần bảo với họ rằng chúng tôi đã chấm dứt tất cả, tôi bỏ cuộc.

- Giá mọi chuyện đơn giản được như thế? Ta thậm chí còn chưa biết cơ quan nào muốn trừ khử cháu. CIA, NSA[1] hay quân đội? Mà những đầu mối của ta thì hỡi ôi đều cùng độ tuổi với ta, rặc một toán bố già đã nghỉ hưu.

[1] - Central Intelligence Agency (CIA): Cơ quan tình báo trung ương Mỹ.

- National Security Agency/Central Security Service (NSA/CSS): Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ/Cục An ninh Trung ương.

Suzie dùng bàn chân vẽ một đường tròn lên mặt đất khô khốc của lối đi dạo trên quảng trường Washington.

- Nếu là tôi, ông sẽ làm gì? - Cô hỏi, không nhìn vào mắt Knopf.

- Khi không thể phanh được một cỗ máy chỉ chực đâm thẳng vào tường, giải pháp duy nhất là hãy tông vào đó. Phá hủy chướng ngại vật, thay vì chết bẹp trước nó. Dù từ giờ trở đi, những ý đồ của cháu có hợp lí thế nào. Họ sẽ không tin cháu. Điều duy nhất có thể ngăn họ lại, là cháu phải tìm được những tài liệu đó và giao chúng lại cho ta. Ta có thể dùng chúng để thỏa thuận về sự an toàn cho cháu. Trong tình huống lúc này, cháu phải hiểu rằng điều quan trọng nhất là không được nói gì với anh bạn phóng viên của cháu, lợi ích giữa cháu và anh ta không còn giống nhau.

- Thế nên điều đó vẫn chưa đủ? Suzie lầm bầm, vẻ tư lự.

- Nếu họ vẫn cương quyết, chúng ta sẽ thay đổi chiến thuật. Chúng ta sẽ dùng đến anh chàng phóng viên, anh ta sẽ đăng bài, và khi bài báo đã được đăng, cháu sẽ không còn phải sợ nữa, sẽ không ai dám động đến cháu.

- Sao không làm luôn việc đó?

- Vì điều đó sẽ khơi lại vụ phản bội của bà cháu. Ta muốn chúng ta không đi tới nước cờ đó thì hơn. Nhưng nếu phải lựa chọn giữa một sự cố ngoại giao cũng hết sức nghiêm trọng, và mạng sống của cháu, ta sẽ không mất nhiều thời gian suy nghĩ đâu.

Suzie quay sang nhìn Knopf và đối diện với ánh mắt ông, lần đầu tiên từ khi bắt đầu cuộc trò chuyện.

- Vậy thì, bà tôi thực sự là thủ phạm à?

- Đó là chuyện quan điểm thôi. Bà ấy là thủ phạm trong mắt của những người cầm quyền nước ta, và rồi mười lăm năm sau đó, thế giới rốt cuộc lại thấy bà ấy nói đúng, chúng ta đã ký hiệp ước giải giáp vũ khí. Từ năm 1993 đến nay, hàng trăm pháo đài B-52 huyền thoại đã han gỉ trơ khung dưới cái nắng của sa mạc Arizona, ngay cả khi sự ruồng bỏ ấy chỉ là một màn kịch hoành tráng vì chúng ta đã hoàn toàn thay thế bằng tên lửa.

- Tại sao ông không kể cho tôi tất cả những chuyện này sớm hơn, Knopf?

- Liệu cháu có đồng ý nghe ta nói không? Ta đã cố nhưng bà cháu quan trọng với cháu biết bao. Mathilde chỉ là bóng ma của một người mẹ và cháu đã biến Liliane thành thần tượng của mình. Làm sao có thể ấn mạnh thêm mũi đao đã đâm sâu vào da thịt của vết thương thời thơ ấu?

Suzie nhìn quanh công viên. Mùa đông đã lột bỏ hết sắc màu của nó. Vài người dạo bộ đang bước nhanh trên các lối đi, tay đút túi áo, đầu cúi gằm.

- Tôi đã leo lên một ngọn núi, gây ra cái chết cho ba người đàn ông, một người còn chưa tới hai mươi tuổi, tất cả những điều ấy là để chứng minh cho sự vô tội của bà tôi, và bây giờ tôi phải tiếp tục cái việc điên rồ ấy, như ông vẫn bảo thế, đi tìm bằng chứng cho tội trạng của bà. Mỉa mai làm sao?

- Ta e rằng câu chuyện về gia đình cháu còn là một điều mỉa mai hơn. Anh bạn phóng viên của cháu đang ở đâu vậy?

- Anh ta về giải trình với tổng biên tập.

- Ta biết chuyện này không liên quan đến mình, nhưng giờ cháu với anh ta có gì không?

- Không, chuyện đó không liên quan đến ông. Là người biết rất rõ Liliane, ông có từng nghe nói đến nơi mà đôi khi bà trốn chồng đưa Mathilde tới không?

Knopf gãi cằm.

- Bà cháu có nhiều bí mật quá. Chuyến thăm hòn đảo kia hẳn đã khiến cháu tin điều đó.

- Ông tôi lừa dối bà với ai?

- Cháu xem, lúc nào cháu cũng bảo vệ bà ấy! Mà quay lại câu hỏi trước của cháu đã, trong đầu ta chỉ nghĩ tới một nơi, Liliane là người mê nhạc jazz, chồng bà ấy thì chỉ thích nhạc kịch và những tác phẩm thuộc thể loại cổ điển. Nhạc jazz với ông ấy chỉ là một chuỗi những nghịch âm quê mùa. Khi bà cháu chơi dương cầm, ông ấy bắt bà cháu phải đóng chặt các cửa phòng chơi nhạc và hạ bớt âm thanh. Tháng nào Edward cũng cần tới Washington, và Liliane tranh thủ thời gian này để thỏa mãn niềm đam mê của mình trong một câu lạc bộ nhạc jazz nổi tiếng ở Manhattan. Quán Vanguard, nếu như ta nhớ đúng, nhưng ta không nhớ bà ấy có đưa mẹ cháu tới đó. Sao cháu lại hỏi ta chuyện này?

- Trên đảo, chúng tôi đã tìm thấy một lá thư được Liliane viết cho Mathilde. Bà có nhắc đến một nơi mà hai người thường tới cùng nhau.

- Thế bà ấy còn nói gì trong lá thư đó?

- Không còn gì khác ngoài lời yêu thương của một người mẹ gửi cho con gái. Bà tự biết mình đang trong vòng nguy hiểm, tôi đọc chẳng thấy khác gì di thư.

- Ta rất muốn có thể đọc lá thư đó, nếu cháu không thấy phiền.

- Lần sau tôi sẽ mang cho ông xem, Suzie hứa hẹn. Cảm ơn ông, Arnold.

- Vì chuyện gì? Ta đã làm được gì đâu.

- Vì lúc nào cũng ở đây vì tôi, vì là người đúng như ông vốn là, người mà tôi luôn luôn có thể tin tưởng.

Cô đứng dậy và hôn lên má Knopf, một cử chỉ dịu dàng khiến ông gần như đỏ mặt.

- Về chuyện kia, ông vừa đứng dậy vừa nói, trước khi chết, cậu Colman đó có nhắn gì cho bọn cháu không?

Suzie nhìn xoáy vào Knopf, và chần chừ trước khi trả lời.

- Không, chúng tôi đã đến quá trễ.

Cô bước đi xa dần trên lối đi dạo và ngoảnh lại để gửi lời chào sau cuối tới người đỡ đầu.

*

Andrew đang chờ cô tại quán bar khách sạn. Một cốc rượu đã vơi một nửa trước mặt anh.

- Đây là cốc đầu tiên mà tôi thậm chí còn chưa uống hết, anh nói.

- Ai khảo mà anh xưng. Suzie vừa đáp vừa ngồi lên chiếc ghế cao.

Cô cầm cốc lên và nhấp môi.

- Sao mà cô uống được cái thứ đắng ngắt như thế nhỉ?

- Là chuyện gu.

- Cuộc gặp ngắn ngủi của cô bổ ích chứ?

- Là chuyện quan điểm! Bà tôi có tội, Suzie buông lời. Không phải vì tội mà họ cáo buộc bà, nhưng dù sao bà cũng định phản bội đất nước.

- Thế thiên thần hộ mệnh của cô phản ứng ra sao?

- Tốt, nhưng tôi nghĩ ông ấy nói dối tôi.

- Cô gái đáng thương, cô đang đi từ giấc mộng tan vỡ này đến giấc mộng tan vỡ khác.

Suzie quay sang tát anh một cái. Cô lại cầm cốc rượu lên và uống một hơi cạn sạch rồi đặt cốc lên quầy.

- Anh cũng thế, anh cũng là một kẻ dối trá, hai mắt anh long lên còn người anh thì sặc mùi rượu. Anh uống mấy cốc rồi?

- Ba, nhân viên quầy bar vừa lau quầy vừa nói. Tôi rót thứ gì nhé, quý cô? Là quán mời.

- Một bloody mary. - Suzie đáp.

Andrew xoa xoa má, vẻ hoài nghi.

- Knopf đã hỏi tôi xem Colman có nhắn gì với chúng ta không. - Suzie nói tiếp, tôi chưa hề cho ông ấy biết tên cậu ta.

Nhân viên quầy bar đặt cốc bloody mary xuống trước mặt cô, và hứng trọn ánh mắt lạnh băng của Andrew lúc đi qua.

- Anh không nói gì sao? Suzie cằn nhằn.

- Tôi sẽ nói với cô là tôi đã cảnh báo với cô rồi đấy thôi, với bà cô cũng như với Knopf, nhưng tôi sợ đã đổ lỗi cho người khác.

- Knopf không phải là kẻ thù của chúng ta, anh không khiến tôi đổi ý được đâu. Ông ấy không nói hết với tôi, nhưng trong nghề của ông ấy, bí mật là một nghệ thuật.

- Cô có phát hiện được gì khác không?

- Bản chất thật sự của những tài liệu bà tôi đã lấy đi. Động cơ của bà không phải vì tiền, bà hành động vì lí tưởng. Bà hy vọng có thể buộc quân đội ngừng chôn giấu tên lửa hạt nhân trong các khu rừng Đông u. Đó là bí mật lớn nhất ẩn giấu đằng sau chiến dịch Công chúa Tuyết.

Andrew ra hiệu cho nhân viên quầy bar rót thêm rượu cho cô.

- Anh cũng vậy, mỗi ngày anh lại khiến tôi ngạc nhiên thêm một chút. Suzie nói tiếp, tôi nghĩ đã tiết lộ với anh một bí mật động trời, thế mà anh có vẻ thờ ơ như đó chỉ là cái áo sơ mi đầu tiên ấy.

- Đừng nói thế, tôi thích cái áo sơ mi đầu tiên của tôi lắm. Nhưng chuyện quân đội Mỹ giấu tên lửa tại Châu Âu trong những năm 1960 ấy, chuyện đó thì tôi cóc quan tâm. Những lời đồn đại về chuyện này đâu có thiếu, mà thời buổi bây giờ thì chuyện đó còn tác động gì nữa?

- Một vụ bê bối ngoại giao trầm trọng.

- Cô nói thế nào ấy chứ? Lúc những tàu ngầm hạt nhân của Nga bị đâm khi đi ngang ngoài khơi Alaska hoặc lưu thông trên hải phận Na Uy, chuyện đó chẳng đáng được vài dòng trên tờ lá cải. Và nếu đây là tiết lộ động trời mà tôi hứa hẹn với tổng biên tập, thì bài điều tra lần tới của tôi chắc chắn sẽ là đi đếm lá cải trong công viên Trung tâm. Đi thôi, đủ rồi, tôi phải nói chuyện với cô, nhưng không phải ở đây.