Mạnh hơn sợ hãi - Chương 12 - Phần 2

Andrew thanh toán hóa đơn, không quên nhắc nhân viên quầy bar là cốc bloody mary tính tiền cho anh ta. Anh nắm cánh tay Suzie và kéo cô ra phố. Anh bắt cô đi hết hai khối nhà mà không nói một lời nào, cho đến tận khi họ bước xuống một ga tàu điện ngầm trên phố 49.

- Tôi có thể biết chúng ta đang đi đâu không?

- Cô muốn đi bến Bắc hay Nam?

- Cũng như nhau cả thôi.

- Vậy thì Nam nhé, Andrew vừa đáp vừa đẩy cô lại phía cầu thang.

Anh thấy một ghế băng phía cuối bến và ngồi xuống đó. Một đầu tàu điện ngầm lao tới trong tiếng ầm ầm inh tai.

- Những ghi chép của Colman kể câu chuyện hoàn toàn không giống câu chuyện mà ông bạn thân thiết Knopf của cô đã kể.

- Anh đọc bản sao của cậu ta rồi à?

- Colman không kịp hoàn tất công việc. Khó mà rút ra được kết luận cuối cùng. Andrew nói to để át tiếng ồn từ đầu tàu đang chạy trong ga, nhưng tôi đã hiểu hơn tại sao cậu ta lại muốn tăng giá; chuyện đó cũng lạnh sống lưng đấy.

Andrew đưa lại cho Suzie tờ giấy mà họ in trong phòng Jack Colman.

Họ muốn sát hại Công chúa Tuyết.

Nếu không có biện pháp bảo vệ nàng, nàng sẽ biến mất vĩnh viễn.

Vàng tuôn tràn trề dưới lớp áo khoác băng giá của nàng và những người thuộc tầng lớp trên của chúng ta muốn chiếm đoạt nó.

Cách duy nhất để chiếm được của cải từ nàng là đẩy nhanh phút lâm chung của nàng.

Nhưng nấm mồ của Công chúa tuyết cũng sẽ là nấm mồ của mùa đông, báo hiệu một sự đảo lộn có tính hủy diệt.

Họ biết những hậu quả của việc đó và họ coi thường chúng, giờ tôi đã có bằng chứng.

Con đường phương Bắc được giải phóng sẽ đảm bảo vị thế thông lĩnh và sự thịnh vượng cho họ.

Tây hay Đông, liên minh hay kẻ thù không còn quan trọng. Ngăn ngừa họ là cách duy nhất chấm dứt cuộc tấn công đã khởi sự.

Những người thuộc tầng lớp trên của chúng ta đang dùng đến những cách thức bỉ ổi nhất để đạt được mục đích.

Những đứt gãy đều là cố ý và thiên nhiên sẽ làm nốt phần việc còn lại.

Cứu Công chúa Tuyết là một nhiệm cụ không cần biết đến sự phục tùng hay Tổ quốc, là nhiệm vụ đảm bảo sự sống sót cho hằng triệu con người.

- Anh có hiểu gì không? Suzie dò hỏi.

- Văn phong hơi trữ tình, tôi công nhận, nhưng bà cô đã sáng tác ra đoạn văn này từ một vở nhạc kịch. Lần đọc đầu tiên, tôi đã tự hỏi, như cô. Và rồi tôi nhớ đến sự phấn khích của Colman lúc gọi điện, khi ấy tôi tự hỏi cậu ta đã thấy điều gì mà tôi không thấy trong đoạn văn này. Tôi đã không nhìn di động khi khởi động lại điện thoại để gọi cảnh sát. Nhưng vừa rồi, lúc chờ cô ở quán bar, tôi phát hiện ra Colman đã gửi cho tôi một tin nhắn. Có lẽ vào đúng lúc phát hiện ra người gõ cửa phòng không phải là chúng ta. Chính tin nhắn cuối cùng này đã soi sáng cho tôi.

Andrew rút điện thoại ra khỏi túi và chỉ nó cho Suzie.

“Công chúa Tuyết là vỏ Bắc Cực”

- Giờ hãy đọc lại đoạn văn này, Andrew nói tiếp, và cô sẽ hiểu ra tất cả, trừ cái điều điên rồ đã xui khiến những kẻ muốn đẩy nhanh quá trình tan băng.

- Họ muốn phá hủy lớp vỏ băng đó ư? - Suzie hỏi.

- Và cuối cùng mở ra con đường phương Bắc. Một món hời đối với những nhà cầm quyền của chúng ta, những người luôn sợ hãi lệnh phong tỏa hoặc sự chật chội của kênh đào Panama, nơi mà cho đến giờ vẫn là con đường duy nhất cho vận tải đường biển từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương, nếu muốn tránh “vĩ tuyến 40 gầm thét”. Tuyến hành lang duy nhất mà hằng năm, ba trăm triệu tấn hàng hóa phải đi qua. Vì kênh đào này lại thuộc sở hữu của một quốc gia cộng hòa bé nhỏ tí tẹo ở Trung Mỹ. Mở một con đường mới ở phương Bắc có tầm quan trọng đáng kể về chiến lược. Nhưng con đường này hiện vẫn bất khả thi vì băng, Đó cũng là món hời với các công ty dầu mỏ nước ta. Cô còn nhớ lý lịch người tình của bà cô chứ. Chính trị gia, Bộ Trưởng Tài chính, trùm tư bản, nhóm lợi ích và công ty đa quốc gia, cả cái thế giới đẹp đẽ đó đều đi cùng nhau, hòa vào nhau, chia sẻ chung lợi ích. Bốn mươi phần trăm trữ lượng vàng đen của thế giới nằm dưới lớp vỏ băng và vẫn sẽ không thể tiếp cận được chúng chừng nào vòm băng Bắc Cực chưa tan. Tôi nhớ đã đọc được ở đâu đó rằng nguồn lợi ấy có giá trị ước tới trên bảy nghìn tỷ đô la. Đó là nguyên nhân của nhiều chuyện. Đó là lý do tại sao đã nhiều đời chính phủ nước ta vẫn ra sức phản đối mọi biện pháp kiềm chế khí hậu nóng lên. Bão tố, sóng thần, hạn hán, nạn đói, nước biển dâng, sự dịch chuyển của cư dân duyên hải, tất cả những điều đó đều nhẹ nhàng trước bảy nghìn tỷ đô la và hai thế kỉ ăn chắc vị thế thống lĩnh về năng lượng. Thế nên bốn mươi năm nay, Mỹ, Canada và Nga vẫn tranh chấp quyền lãnh thổ trên Bắc Cực. Người Nga thậm chí còn phái cả tàu ngầm hạt nhân đi cắm cờ dưới đáy đại dương.

- Chúng ta cũng đã lên cắm cờ trên Mặt Trăng mà có được là chủ Mặt Trăng đâu, Suzie vặn lại.

- Mặt Trăng thì hơi xa, mà người ta lại chưa tìm thấy dầu mỏ trên đó. Chúng ta gây ra bao nhiêu cuộc chiến để cố kiểm soát những van khóa nguồn vàng đen, bao con người đã bỏ mạng trong những cuộc chiến ấy… Nhưng điều khiến tôi thấy đáng sợ nhất trong bức thông điệp mà bà cô đã kỳ công mã hóa, đó là theo bà cô thì từ hồi ấy những người kia đã triển khai kế hoạch của họ rồi.

- Nhưng kế hoạch gì chứ?

- “Những đứt gãy đều là cố ý và thiên nhiên sẽ làm nốt phần việc còn lại.” Tấn công lớp băng dưới sâu để đẩy nhanh quá trình tan chảy.

- Như thế nào?

- Tôi làm sao mà biết được, nhưng cứ nhìn tốc độ băng tan năm này qua năm khác, tôi e là kịch bản này không chỉ là câu chuyện hư cấu đơn thuần. Dù họ làm gì, tôi có dự cảm buồn là chuyện đó đã bắt đầu.

- Chính phủ nước ta có thể đã cố tình làm lớp băng cực biến mất để xây các giàn khoan trên Bắc Cực á?

- Ừ, đại loại như thế. Cô đoán chuyện gì sẽ xảy tới nếu chúng ta tìm thấy bằng chứng chính thức của điều mà mẩu giấy này tiết lộ chưa? Tôi đồ rằng hậu quả không chỉ là một sự cố ngoại giao đơn thuần đâu. Toàn bộ uy tín của nước Mỹ sẽ lại bị phơi bày trên trường quốc tế. Cứ hình dung phản ứng của các phong trào hoạt động vì môi trường, các tổ chức phản đối toàn cầu hóa, các quốc gia đình đốn vì khí hậu nóng lên. Đấy là chưa nói đến các đồng minh châu Âu, tất cả những nước này đều có yêu sách về nguồn tài nguyên dự trữ ở Bắc Cực. Công chúa Tuyết chẳng khác nào một kho thuốc súng thật sự, và hai chúng ta đang ngồi trên đó.

- Nhưng đây cũng sẽ là đề tài đỉnh nhất trong sự nghiệp của anh.

- Nếu chúng ta còn sống để tôi có thể đăng báo.

Và trong lúc Andrew và Suzie đọc lại lần nữa bức thông điệp mà Liliane Walker đã gián tiếp truyền lại cho họ, các camera giám sát được gắn trên bến đã thay nhau truyền tải sự hiện diện của họ trên màn hình của cơ quan an ninh. Phần mềm nhận diện khuôn mặt, được triển khai từ sau vụ khủng bố 11 tháng Chín, đã truyền đi dấu hiệu nhận dạng của họ.

*

Người đàn ông trong y phục tối màu đứng tựa bên cửa sổ, ngắm nhìn thành phố trải dài tới tận mũi đảo, nơi đại dương giành lại chủ quyền. Một con tàu chở khách đang xuôi dòng Hudson, và Elias Littelefield nhận ra rằng, nếu như ông có một gia đình, có lẽ chẳng bao giờ ông đưa gia đình đi nghỉ trên một tòa chung cư bình dân nổi như thế này. Đi du lịch cả đàn cả đống, với ông ta, vừa là điều tầm thường vừa không thể chịu đựng nổi.

Ông ta cài cặp kính vào túi trên áo vest và tặc lưỡi. Rồi ông ta ngoảnh lại nhìn cử tọa ngồi quanh bàn họp, vẻ nặng nề và bực tức.

- Tôi tưởng tính chất của tổ chức này là tiên liệu chứ không phải là chịu đựng. Bây giờ một trong số các ông hẳn có chút thời gian rảnh rỗi để báo cáo với chúng ta về tài liệu đó chứ?!

- Ông đã mắc sai lầm khi chất vấn họ “bây giờ”, Knopf đáp, cố tình nhấn mạnh vào hai từ cuối cùng.

Littelefield lại gần bàn họp và rót một cốc nước to. Ông ta đưa nó lên miệng mút chùn chụt khiến Knopf khó chịu.

- Đôi chim cu của ông đã mất dạng bốn mươi tám tiếng đồng hồ rồi đấy, ông ta nói tiếp, tôi sẽ không cho phép chuyện này tái diễn.\

- Chính ông đã hùa theo cái ý tưởng can thiệp xuất sắc trên đảo Clarks phải không?

Littlefield nhìn các cộng sự với ánh mắt đồng lõa và khoan dung. Để mỗi người trong số họ biết rằng họ cùng thuộc một đội ngũ gắn kết mà ông ta là người đứng đầu.

- Không, chúng tôi tuyệt đối không liên quan tới chuyện đó.

Littlefield quay ra cửa sổ chiêm ngưỡng tầm nhìn.

Những ngọn đèn chiếu soi rọi kiến trúc tòa Empire State Building bằng những luồng sáng màu đỏ và màu xanh lá cây, dấu hiệu cho thấy những lễ hội cuối năm đã cận kề. Elias Littlefield nghĩ rằng khi hồ sơ này chỉ còn là một vụ việc đã được giải quyết nhờ sự thu xếp của mình, ông sẽ đi trượt tuyết ở Colorado.

- Ông vẫn quy chuyện đó thành chuyện chạy đua với các cơ quan khác sao? Knopf nói tiếp. Tôi tự hỏi thật sự điều ông muốn bảo vệ là đất nước hay sự nghiệp của ông?

- Tại sao đó lại không phải người Nga, người Canada hay thậm chí người Na Uy đang cố vượt trước chúng ta?

- Vì họ có đầu óc. Họ sẽ chờ cho đến khi tìm ra bằng chứng rồi mới hành động.

- Cất cái giọng hạ cố của ông đi, Knopf. Suốt bao nhiêu năm, ông luôn khẳng định với chúng tôi rằng những bằng chứng ấy không còn tồn tại. Lý do duy nhất cho việc chúng tôi lôi ông khỏi cuộc sống hưu trí, đó là vốn hiểu biết của ông về vụ này. Nhưng thời gian càng trôi qua thì tôi càng nghi ngờ tính hữu dụng của ông. Tôi nhắc cho ông nhớ nhé, vai trò của ông ở đây chỉ là vai trò quan sát viên mà thôi, vậy nên cứ giữ những nhận xét đó lại cho bản thân ông đi.

Knopf đẩy ghế ra. Ông vơ áo khoác trên mắc treo rồi đi khỏi.

*

Đoàn tàu điện ngầm dừng lại trong tiếng kèn kẹt cơ học, cửa các toa tàu mở ra. Andrew và Suzie chạy lên toa đầu và ngồi xuống hàng ghế trống đầu tiên.

- Một giờ sau khi chúng ta đi khỏi, những cảnh sát có mặt tại phòng Colman đã bị yêu cầu rời khỏi hiện trường.

- Bởi ai?

- Bởi nhân viên của NSA, có vẻ những người này sẽ tiếp tục công việc của cảnh sát.

- Sao anh biết chuyện đó?

- Tôi đã nhờ vả đôi chút ở chỗ một người bạn. Không lâu sau ông ấy gọi lại để cho tôi biết thông tin đó.

- Tôi tưởng chúng ta không nên bật điện thoại lại?

- Chính vì thế nên bây giờ chúng ta mới ở đây, để biến mất khỏi màn hình của họ. Chúng ta sẽ xuống ở trạm cuối Brooklyn.

- Không, chúng ta xuống ở phố Christopher, tôi cũng có tin mới.

*

Ánh áng từ công trường Freedom Tower chỉ còn tạo thành một quầng sáng trong màn đêm xám xịt. Một đêm mà cơn mưa phùn màu đông khiến người ta rét buốt đến tận xương. Xe cộ nối đuôi san sát trên đại lộ Bảy trong âm thanh huyên náo của còi xe và tiếng rít của lốp xe nghiền trên mặt đường ẩm ướt.

Suzie đẩy cánh cửa tại số 178 và bước xuống những bậc thang dốc đứng dẫn xuống tầng ngầm. Họ bước vào căn phòng khách của quán Village Vanguard. Vẫn còn sớm và tam ca Steve Wilson đang biểu diễn hết mình cho hai vị khách ở quầy bar, một người đàn ông lẻ loi ở một bàn,và một người nữa đang đọc email trên điện thoại di động, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu lên. Loraine Gordon, từ trên ghế đẩu, dò xét khắp căn phòng với vẻ yên vị của một bà chủ. Bốn mươi năm rồi bà ở đó, chung thủy với chỗ ngồi đó, sau tối một tuần.

Thelonious Monk, Miles Davis, Hank Mobley, Bill Evans, bà đã chào đón tất cả bọn họ tới câu lạc bộ của mình. Và để những nhạc công tứ xứ khắp châu Mỹ này đến đây, bà chỉ đơn giản là “Lorraine”, nàng thơ của thánh địa nhạc jazz, trừ Shirley, người đặt cho bà biệt danh “trung sĩ”, nhưng ít người dám gọi bà bằng biệt danh đó.

Suzie và Andrew ngồi vào bàn cách xa sân khấu nhất. Lorraine Gordon tiến lại và không chờ họ cho phép đã ngồi xuống cùng bàn với hai người.

- Một bóng ma! Cậu đã đi đâu vậy?

- Ở chỗ này anh cũng là khách quen à? - Suzie hỏi.

- Anh đây thường đến uống ở quán tôi, cô gái ạ, bà chủ quán đáp lời mà không nhìn cô lấy một lần.

- Tôi đi ngao du, Andrew nói.

- Tôi đã quen trông cậu khó ưa hơn cơ, dù ánh áng quán này luôn luôn nịnh mặt. Cậu đã làm gì với vợ cậu vậy?

Và vì Andrew không trả lời, bà đành hỏi xem anh muốn uống gì.

- Không gì hết. - Suzie đáp thay anh. Anh ấy không khát.

Lorraine thích vẻ táo tợn của cô, nhưng giữ trong lòng không nói. Bà không thích những cô gái mà bà thấy hơi quá xinh xắn, ngờ rằng họ sẽ dùng cặp mông nóng bỏng để đạt được mục đích. Mỗi lần có anh chàng nhạc sĩ nào xuống phong độ, những khi họ bắt đầu say quắc cần câu, y như rằng đó là vì một cô nàng xinh đẹp vừa làm tan nát trái tim họ.

- Bà cô ấy từng chơi nhạc trong câu lạc bộ của bà, cách đây lâu rồi, Andrew vừa nói vừa đưa mắt sang Suzie. Liliane Walker, cái tên này có gợi cho bà điều gì không?

- Không hề. Lorraine vừa nhìn kỹ Suzie vừa khẳng định. Các nhạc sĩ, cô gái yêu quý ạ, tôi đã gặp nhiều người giễu qua đây.

- Thế nếu bà ấy tên là Liliane Mc Carthy? Suzie vừa hỏi vừa cố cưỡng lại mong muốn đuổi Lorraine về chỗ.

- Bà cố đến đây chơi nhạc vào năm nào?

- Lần cuối cùng hẳn là năm 1966.

- Cô nên nhớ, hồi đó tôi mới hai mươi sáu tuổi, cô gái ạ. Tôi và Max thậm chí chưa lấy nhau.

Lorraine Gordon nhìn khắp một lượt và dừng mắt trên bức tường được phủ kín các bức chân dung đen trắng.

- Không, tôi không nhớ bà ấy.

Suzie rút bức ảnh Liliane ra khỏi túi và đặt nó lên mặt bàn. Lorraine nhìn bức ảnh và đi về phía bức tường mà bà đã lướt mắt qua. Bà tháo một khung ảnh xuống và lại ngồi xuống bên bàn.

- Đây, bà ấy đây, bà của cô đấy. Tất cả những người từng chơi nhạc ở đây đều có ảnh trên bức tường này. Cô chỉ cần lật khung ảnh lại, ai cũng có lời đề tặng.

Suzie, hai tay run rẩy, nhìn chăm chú vào khuôn mặt tươi cười của Liliane. Bà có vẻ là một người phụ nữ khác, rạng rỡ đến mức không thể so sánh nổi với người phụ nữ trên những bức ảnh mà Suzie từng xem. Cô lật khung ảnh lại, và không bộc lộ chút ngạc nhiên nào, cô đẩy nó sang cho Andrew.

Thay vì một lời đề tặng, trên đó lại viết: ‘Oslo, Kulturhistorisk, Frederiks Gate 3”.

Andrew dịch lại sát Lorraine và ghé vào tai bà.

- Bà giúp tôi một việc được chứ? Nếu có ai tới hỏi, hãy trả lời là bà không gặp chúng tôi tối nay.

- Tôi không phải kiểu người đó, che giấu những vụ ngoại tình.

Andrew trợn mắt nhìn bà chằm chằm và Lorraine Gordon hiểu ra đây là chuyện khác.

- Cậu gặp phiền phức với cảnh sát à?

- Còn phức tạp hơn cả thế, và tôi cần tranh thủ thời gian.

- Vậy thì cả hai chuồn đi. Hãy ra bằng cửa sau. Cuối hành lang có một cánh cửa thông ra quảng trường Waverly. Nếu họ không thấy hai người bước vào, họ cũng sẽ không thấy hai người bước ra.

Andrew dẫn Suzie đến quán Taim, một quán ăn trông bên ngoài thì rất tồi tàn, nhưng dân từ khu Uptown còn phải đến tận đây vì mòn bánh kẹp đậu tằm của quán. Ăn xong họ quyết định đi dạo một chút trên các con phố khu West Village.

- Chúng ta không về khách sạn Marriot nữa, địa chỉ đó đã bị lộ rồi, Andrew nói.

- Còn nhiều khách sạn khác ở New York, Suzie gợi ý, hãy chọn chỗ nào mà anh thích ấy, tôi lạnh cóng cả người rồi.

- Nếu đối tượng mà chúng ta dính líu vào là NSA thì tất cả các khách sạn trong thành phố hẳn đã nhận được dấu hiệu nhận dạng của chúng ta, và ngay đến những khách sạn tồi tàn nhất cũng không đùa với chuyện này đâu.

- Chúng ta không lang thang ngoài đường suốt đêm thế này đây chứ?

- Tôi biết vài quán bar nơi chúng ta có thể được yên thân.

- Tôi cần ngủ.

Andrew thấy một buồng điện thoại ở góc giao giữa phố Perry và Bleecker.

- Lại là một vụ án mạng nữa à? Thanh tra Pilguez lo lắng hỏi.

- Chưa đâu, tôi chỉ đang cần một chỗ an toàn để qua đêm.

- Tới khu Bronx, Pilguez ra lệnh sau một lúc suy nghĩ, quán cà phê Colonial trên đường White Plains, tìm cách nói chuyện với Oscar, và bảo anh ta là tôi giới thiệu cậu đến, anh ta sẽ cho cậu ở mà không hỏi han gì. Ai muốn gây gổ với cậu vậy, Stilman? Thanh tra Morrelli mà tôi đã nhờ vả để cậu yên, ông ấy vừa gọi cho tôi lúc nãy.Cảnh sát toàn thành phố đang lung sục cậu.

- NSA, Andrew đáp.

- Vậy thì quên cái địa chỉ mà tôi vừa cho cậu đi. Ngắt máy ngay và chuồn khỏi nơi cậu đang đứng, mau lên.

Andrew cầm tay Suzie và kéo cô chạy về phía sông Hudson. Anh nhảy xổ ra giữa ngã tư đầu tiên để chặn một chiếc taxi và đẩy cô lên xe không chút nể nang.

- Tôi biết nơi họ sẽ không bao giờ tìm được chúng ta rồi, Andrew lẩm bẩm.

*

Dolorès vừa tắt máy tính. Cô đang sửa soạn rời văn phòng thì thấy Andrew lẻn vào cùng một phụ nữ trẻ. Cô ngẩng đầu lên nhìn hai vị khách.

- Suzie Baker, tôi đoán nhé?

Suzie chìa tay cho cô nhân viên phòng tư liệu, cô này bắt tay không chút nồng nhiệt.

- Tôi cần cô, Dolorès. Andrew vừa cởi áo gió vừa nói.

- Tôi tưởng anh tới đưa tôi đi ăn tối cơ đấy! Anh may đấy, cô nói tiếp, Olivia Stern vừa đi khỏi đây chưa tới mười phút. Tôi không biết anh vẫn còn chuyện gì nới cô ấy, nhưng cô ấy đang bực mình lên với anh và tìm anh khắp nơi. Cô ấy muốn biết gần đây tôi có gặp anh hay điện thoại cho anh không. Tôi không cần nói dối cô ấy.

Dolorès bật lại màn hình máy tính và đặt ngón tay sẵn lên bàn phím.

- Lần này sẽ là gì đây?

- Chẳng gì hết, không tìm kiếm gì hết, chúng tôi chỉ tới ngủ ở đây thôi.

- Trong văn phòng của tôi á?

- Phòng tôi nằm cùng dãy với phòng Olivia mà tôi lại có hàng xóm là Olson.

- Anh lúc nào cũng tìm được lý lẽ lọt tai nhỉ, Stilman. Hãy nói cho tôi nghe, rằng cảnh sát đang lùng sục cô ấy và rằng không phải vì để thỏa mãn cái khoái lạc hèn hạ mà anh muốn qua đêm với cô ta trong phòng tôi?

- Anh ta hoàn toàn không phải kiểu đàn ông tôi thích, Suzie thốt lên. Và cô nói đúng, tôi cần ẩn nấp.

Dolorès nhún vai và đẩy ghế ra.

- Vậy thì, cứ tự nhiên như ở nhà. Nhân viên quét dọn sẽ qua lúc 6 giờ, hai người có cần tôi đánh thức trước không? Thế thì phải có người lôi tôi ra khỏi giường lúc 5 rưỡi rồi! Dolorès nói thêm với giọng lạnh như tiền.

Cô đi ra phía cửa.

- Dolorès? Andrew gọi theo.

- Gì nữa?

- Tôi cũng còn vài thứ muốn nhờ cô tìm giúp.

- À, cứ việc! Tôi nghĩ anh coi tôi là tú bà nhà thổ. Tôi nghe đây, là chuyện gì?

- Những tài liệu chính thức, các bài báo, những tuyên bố mịt mờ nhất mà cô có thể tìm được cho tôi về trữ lượng dầu mỏ ở Bắc Cực, báo cáo về các lần thám hiểm địa chất và khí tượng được thực hiện xung quanh khu vực Bắc Cực, và cả bản báo cáo mới nhất về sự tan chảy của các núi băng, tốt nhất là báo cáo do các nhà khoa học nước ngoài thực hiện.

- Tất cả vào ngày mai?

- Đến cuối tuần, như thế là đẹp nhất.

- Anh sẽ lại qua gặp tôi à?

- Không, trong thời gian trước mắt thì không.

- Vậy thì tôi gửi những tài liệu đó tới đâu cho anh?

- Cô hãy tạo một hòm thư điện tử bằng tên cô và cô chỉ cần dùng tên con mèo nhà cô làm mật khẩu, tôi sẽ tự đăng nhập vào đó.

- Anh đang tiến hành một vụ lớn à, Stilman? Dolorès ra đến ngưỡng cửa còn hỏi.

- Lớn hơn tất cả những gì cô có thể tưởng tượng nổi.

- Với anh thì tôi chả tưởng tượng cái gì hết, như thế, tôi chưa từng phải thất vọng, cô vừa nói vừa nhìn Suzie lần cuối.

Và Dolorès đi khỏi.