Umi - Chương 11- 12 - 13 - 14

11.

Vào buổi sáng ngày Yuu ra sân bay đón bạn, ngày hôm
ấy chỉ có tôi và Makoto ở nhà. Tôi không thường ra tắm biển, biển ở
Hokkaido rất lạnh, chỉ trừ những ngày thật sự nắng nóng tôi mới
cùng Makoto xuống nước. Xui là hôm nay trời lại hơi lạnh nên tôi chỉ
biết nằm nhà đọc sách.

Bố tôi cùng bố mẹ Yuu đã rủ nhau đi mua bia và sữa
tươi từ sớm. Thường thì họ luôn mua đủ cả bốn loại bia màu của
Hokkaido Abashiri nhưng nhiều nhất vẫn là bia màu hồng Jyaga Draft tượng
trưng cho mùa thu. Tất cả mọi người đều thích bia Jyaga, tôi cũng không
thể phủ nhận rằng đó là loại ngon nhất trong bốn màu bia, thế nhưng
tôi vẫn thường hay uống loại Ryuho màu xanh da trời vì đơn giản là nó
có màu mà tôi thích. Makoto biết rõ điều này, cậu ấy thường cất
riêng những chai Ryuho ra một góc trong tủ lạnh rồi dùng giấy nhớ có
đề chữ “Màu xanh của Umi” dán lên tất cả các chai. Điều này nghe có
gì đó hơi buồn vì Umi còn có nghĩa là biển, màu sắc của nỗi buồn.

“Tớ tìm được một đôi găng bóng chày trong tủ dưới
gầm cầu thang.” Makoto nói, đoạn thảy đôi găng lên trên bàn bếp chỗ tôi
đang ngồi.

“Đấy là đôi găng cũ của bố Yuu ngày xưa, hồi nhỏ bọn
tớ vẫn hay lấy ra chơi ném bắt bóng.” Tôi đáp rồi lại hỏi: “Trong
phòng tớ vẫn còn vài quả bóng khá mới đấy, ra ngoài chơi không?”

Phải đến gần mười năm rồi tôi chưa hề đụng đến đôi
găng này. Kể từ ngày Yuu ra nước ngoài, mỗi mùa hè đến luôn chỉ có
mỗi mình tôi là đứa trẻ con duy nhất nên chẳng có ai chơi cùng trò
ném bắt bóng cả. Người lớn luôn luôn bận rộn với những câu chuyện
thường ngày của họ, họ sẽ vui lòng ngồi xem ti vi với tôi chứ không
phải là cùng chơi trò ném bắt bóng.

Tôi và Makoto chơi trong khoảng sân trước của hai nhà,
tôi là người bắt đầu ném quả đầu tiên.

“Thử một trăm quả liên tiếp không rơi nhé!” Tôi nói
lớn.

Thần kinh vận động của tôi vốn không được tốt cho
lắm, tôi thường chẳng mấy khi đỡ được cầu lông mỗi khi chơi với Makoto
nhưng nếu là ném bắt bóng như thế này thì tôi lại làm khá tốt mặc
dù đây chẳng phải một trò chơi kịch tính gì nếu như thiếu đi gậy
bóng chày.

“Này Umi,” Chúng tôi vừa chơi vừa nói chuyện: “sau khi
đi Hồ Xanh về cậu có định đi vườn hoa ở Furano không?”

“Chưa biết được.” Tôi chụp lấy quả bóng mà Makoto vừa
ném lên rất cao. “Đi Hồ Xanh xong chắc các vị phụ huynh lại bắt đi
suối nước nóng tiếp, tớ muốn đi suối nước nóng ở công viên quốc gia
Daisetsuzan.”

“Daisetsuzan hả? Nhưng giờ đâu phải mùa thu?”

“Kệ chứ, mình có được đến đây vào mùa thu bao giờ
đâu.”

“Thế Furano thì sao? Hè nào cậu cũng muốn đến còn
gì?”

“Để nghĩ đã.”

Mùa hè ở Hokkaido không thể không kể đến những trang
trại hoa ở Furano, những cánh đồng oải hương bạt ngàn thơm ngát và
tím ngắt một màu trải dài vô cùng đẹp. Thường thì người lớn thích
đi suối nước nóng hơn, nhưng hồi còn nhỏ tôi và Yuu cũng từng được
đưa đến đấy chơi vài lần. Chúng tôi được thả cho chạy nhảy khắp trang
trại hoa Tomita rồi được ăn kem hoa oải hương. Sau khi Yuu rời đi thì tôi
không còn đến đó nữa, chỉ đến năm ngoái có Makoto đi cùng bố mới
gợi ý để hai đứa tự cùng nhau đi tới đó chơi. Nhưng năm đó tôi không
đến trang trại hoa Tomita mà đến một trang trại khác.

“Năm mươi quả rồi
đấy, đừng làm rơi bóng nhé Umi.”

“Không có chuyện đấy đâu.” Lần này tôi ném khá mạnh
tay về phía Makoto. Đó là một đường bóng đẹp thẳng tắp.

“Sang sáng mai cậu sẽ không còn sức mà chơi ở Hồ Xanh
nữa cho xem. Tay cậu sẽ đau rã rời luôn
vì chẳng mấy khi cậu vận động nhiều như thế này.” Makoto cảnh báo
tôi.

Và Makoto nói đúng, tôi chẳng mấy khi vận động nhiều
thật, tôi thậm chí còn chẳng biết hít xà, còn điểm thể dục ở
trường thì hoàn toàn tệ hại, hoàn toàn khác xa với Makoto. Makoto có
thể chất vượt trội, dù chẳng tham gia bất cứ câu lạc bộ thể thao
nào nhưng cứ đến hội thao là cậu ấy luôn giành được vài giải.

“Làm thế nào mà cậu có được từng ấy cơ bắp thế,
Makoto?” Tôi hỏi.

“Gym.”

“Hả? Cậu tập gym sao? Tớ tưởng môn thể thao duy nhất
mà cậu tập là chạy bộ mỗi buổi sáng và tối?”

Makoto chỉ cười. Thì ra vẫn còn có những điều tôi
chẳng biết về cậu ấy, thân hình của cậu ấy thật quá đẹp, khác với
kiểu vừa đủ dùng của của Yuu.

“Được rồi, đỡ lấy này Captain America!” Lần này tôi thu hết
sức ném một đường máu lửa đầy bạo liệt về phía cậu ấy. Thế là
thay vì đỡ, Makoto né người sang một bên và tôi làm vỡ cửa sổ nhà
bếp.

“Makoto!” Tôi thốt lên trách móc.

“Umi!” Một giọng ngạc nhiên khác thốt lên sau lưng tôi.
Đó là Yuu, anh ta về từ lúc nào.

“Umi đó là cửa sổ bếp nhà anh!”

“Em xin lỗi Yuu!” Tôi chắp cả hai tay lại cúi đầu nhận
tội. Yuu không đứng đấy một mình, bên cạnh anh còn có người bạn Mỹ
mà Yuu đưa về nhưng giờ tôi chẳng còn thời gian mà xét đoán.

“May cho em là không có ai ở trong nhà đấy. Giờ thì
vào nhà thay đồ rồi lấy đá chườm cánh tay và bả vai đi, còn Makoto
giúp anh dọn mảnh kính vỡ.”

Dặn Makoto cẩn thận với các mảnh thuỷ tinh vỡ, tôi
vội chạy vào nhà, cất đôi găng bóng chày, xả nước lên người tắm qua
rồi thay bộ váy bằng vải thô màu trắng ngà như những gì Yuu bảo mặc
dù bỏ qua chuyện lấy đá chườm. Tôi cảm thấy mình dở hơi hết sức khi
gây chuyện đúng vào hôm nhà có khách như thế này. Hơn nữa thay vì
làm vỡ của sổ bếp nhà mình, việc làm vỡ cửa sổ nhà hàng xóm nghe
chừng có vẻ tội nặng hơn.

Khi tôi chạy sang thì mọi người đã thu dọn gần xong,
Yuu đang dùng máy hút bụi hút những mảnh kính nhỏ còn sót lại trên
thảm còn Makoto mang những mảnh kính lớn đã dọn ra ngoài vứt.

“Có phải đem những mảnh kính đi đốt hay chôn ngoài
vườn không?” Tôi hỏi.

“Không cần đâu,” Yuu
nói: “chỉ cần bỏ phân loại rác vào đúng thùng là được.”

“Em xin lỗi Yuu.” Xem chừng anh ấy có vẻ hơi bực mình.

“Em tìm thấy đôi găng đấy ở đâu vậy?” Yuu hỏi ngay lại
khi tôi còn chưa dứt hẳn lời xin lỗi.

“Là Makoto tìm thấy dưới gầm cầu thang.”

“Em đã rủ cậu ấy chơi à?”

“Vâng.”

“Trên đôi găng ấy có ghi tên anh và em đấy.”

Tôi ngừng lại mất vài giây để suy nghĩ rồi bất chợt
mỉm cười: “Yuu, anh ghen đấy à?”

Yuu bỗng không nói nên lời, rồi chúng tôi cứ đứng như
thế nhìn nhau cho đến khi bạn của Yuu từ trên cầu thang bước xuống.

“Umi, đây là James Levine. Và James, đây là Umi Akiyama.”
Yuu giới thiệu chúng tôi với nhau bằng tiếng Anh.

“Chào Akiyama!” James mỉm cười vui vẻ đưa tay tới.

“Gọi tôi là Umi.” Tôi cũng cười vui vẻ đưa tay ra bắt
lại.

“Yuu đã kể về cô trên suốt chặng đường từ sân bay về
tới đây, cậu ấy nói cô là hôn thê của cậu ấy.”

“Về chuyện đó, tôi nghĩ là chúng tôi huỷ hôn trong
hoà bình từ cách đây mười năm rồi.” Tôi trả lời, không quên đưa một
cái liếc mắt về phía Yuu.

“Tôi cũng nghĩ vậy, không dễ gì mà tin được việc Yuu
lại được nhận lời bởi một cô gái xinh đẹp như thế này.”

Rồi chúng tôi cùng phá ra cười. Hoá ra James lại là
một gã trai vui vẻ, thân thiện và đáng mến. Còn tôi thì tất nhiên có
thiện cảm tốt về anh chàng này.

Đến gần trưa thì người lớn trong nhà trở về mang theo
rất nhiều bia, tất cả đều vẫn còn lạnh. Trong lúc mọi người chuẩn
bị đồ ăn thì tôi và Makoto sắp xếp lại những chai bia đặt trên bàn.
Theo thói quen, Makoto lại chia riêng số bia Ryuho ra rồi dán những mẩu
giấy có dòng chữ “Màu xanh của Umi” lên các chai sau đó bỏ vào một
góc tủ lạnh. Trên bàn ăn hầu hết toàn loại bia hồng Jyaga.

“Anh chưa uống loại bia này bao giờ.” Yuu xăm soi nhìn
bốn chai bia màu đặt trên bàn rồi rót chúng ra bốn cốc bia, “Chà, màu
đẹp thật.”

“Đó thực sự là bia sao?” James hiếu kỳ hỏi.

“Đúng vậy,” Tôi bắt đầu giải thích: “ loại bia màu
xanh da trời là Ryuho Draft tượng trưng cho mùa đông, được làm từ nước
băng của những tảng băng trôi trên biển Hokkaido; bia đỏ là Hamanasu
Draft tượng trưng cho mùa hè, được lấy từ sắc tố thực vật tự nhiên
trong cây và quả, đặc biệt là hoa Hamanasu; bia màu xanh lá cây Shiretoko
Draft tượng trưng cho mùa xuân, được lấy từ tảo biển, cây hoa bia và
một hỗn hợp bởi nhiều loại thực vật ở bán đảo Shiretoko; cuối cùng
là viên ngọc đỉnh cao của loạt bia theo mùa – bia hồng, Jyaga tượng trưng
cho mùa thu, là hương vị hỗn hợp của hoa hồng, nước sông băng và khoai
tây.”

“Làm sao mà em biết hết những điều đó vậy? Toàn
những từ tiếng Anh khó nữa.” Yuu ngạc nhiên sau khi nghe tôi nói hết
một lượt rất trôi chảy bằng tiếng Anh.

“Em tra trên Google thôi.” Tôi giơ chiếc điện thoại trong
tay ra cho Yuu nhìn.

“Tôi sẽ thử hết bốn vị này xem sao.” James nói và
bắt đầu với Ryuho, kế sau đó là xanh lá cây Shiretoko, hồng Jyaga,
cuối cùng mới đến đỏ Hamanasu. Mỗi loại thử vài ngụm. “Jyaga có vị
thật đặc biệt.”

“Phải, tất cả mọi người đều thích Jyaga.”

“Nhưng có lẽ tôi thích Ryuho hơn, vị của nó tinh khiết
đơn giản và…”

“Và màu xanh rất đẹp!” Tôi kết thúc câu thay cho James
một cách phấn khích.

“Phải, tôi thích màu xanh hơn.” James có vẻ hơi ngạc
nhiên nhìn tôi nói.

“Tôi cũng để ý khi thấy thứ tự loại bia anh chọn khi
thử, anh thích những gam màu lạnh hơn đúng không?”

“Đúng vậy, chúng có màu rất dễ chịu khi nhìn vào.
Và tôi thường có thói quen ưu tiên chọn đồ theo màu mình thích.”

“Tôi cũng vậy, tôi sẽ chia cho anh số Ryuho của tôi.
Thường ở nhà chỉ có mỗi mình tôi uống chúng.”

“Còn anh sẽ uống trà Ô Long.” Yuu chốt lại sau cùng
khi cũng đã uống thử hết bốn vị bia.

12.

Tôi và James ăn ý nhau đến không ngờ. Và cả Makoto
nữa, James cũng mang theo một cây guitar và hai người họ đàn hát đến
tận chiều.

James khi gắn với cây đàn nhìn trông thật khác, anh ta
trở nên trầm mặc và mái tóc bồng bềnh của anh ta trông thật lãng tử
so với hình ảnh vui vẻ thân thiện khi cùng tôi trò chuyện. Cũng không giống với chất giọng buồn
dịu êm của Makoto, giọng hát của James nghe có chút bụi bặm, một
chút bất cần nhưng cũng thật tình cảm. James hát cho chúng tôi nghe
những bài mà anh sáng tác cho nhóm nhạc của mình, những bài hát tự
do và phóng khoáng. Anh ta cũng biểu diễn cho chúng tôi nghe ngón nghề
piano của mình nữa, bản Piano Sonata in A Minor của Schubert mà thật
trùng hợp là cả tôi và anh ta đều thích nhất.

Tôi khi nói chuyện với James cũng rất thoải mái,
chúng tôi có quá nhiều điểm tương đồng, do vậy nên những câu chuyện
chẳng bao giờ dứt được bất chấp việc thỉnh thoảng tôi lại phải tra
từ điển những từ tiếng Anh mà tôi không hiểu. Nhưng việc đó cũng
chẳng vấn đề gì vì chúng tôi có thể chuyển đề tài rồi lại nói
chuyện hợp nhau ngay tức khắc.

“Em xin lỗi Yuu nhưng em rất thích anh
ta!”

Tôi nói với Yuu điều này vào ngay tối hôm ấy khi cuối
cùng tôi cũng có cơ hội được ở với Yuu một mình bên ngoài sân.

“Chỉ trong một ngày sao?”

“Em chưa từng chơi vui vẻ như thế với ai ngoài Makoto
trong suốt ba năm rồi.” Tôi mãn nguyện cười. “Yuu tuyệt lắm. Nên bạn
của Yuu cũng rất tuyệt!”

“Vậy sao?” Trông vẻ mặt của anh bỗng nhẹ nhõm hẳn. “Nếu
thế thì em thích cậu ta cũng được nhưng anh sẽ rút lại lời đồng ý
cho em hẹn hò với cậu ta.”

“Em đâu cần đến điều đó.”

Tôi dựa lưng vào bờ tường, ngửa cổ nhìn lên bầu trời
đêm đầy sao báo hiệu ngày mai sẽ có nắng.

“Thật ra anh đã tìm thấy đôi găng bóng chày trước cả
Makoto.” Yuu lên tiếng: “Anh đã lau sạch chúng rồi bỏ lại vào tủ gầm
cầu thang.”

“Anh vẫn luôn nhớ hồi đó phải không?”

“Có những điều chẳng thể nào quên được dù anh đã
chẳng hề nhớ tới trong suốt một thời gian dài.”

“Em cũng chẳng nhớ tới nhiều điều trong suốt một
thời gian dài rồi, cho đến khi gặp được người khiến mình phải nhớ ra.”

“Đúng là như vậy nhỉ? Cho đến khi gặp được đúng
người.”

13.

Makoto đã đúng về việc đau tay. Chúng tôi dậy từ sớm
tinh mơ ngày hôm sau để chuẩn bị cho chuyến tham quan Hồ Xanh và tôi
quả thực chưa bao giờ cảm thấy vất vả hơn thế trong việc thay đồ.
Khắp từ bả vai chạy xuống dọc cánh tay của tôi đều đau nhức sau một
trăm lần ném bắt bóng ngày hôm qua.

Ngày hôm nay tôi mặc một chiếc váy xoè, tay lửng kiểu
đơn giản màu xanh dương, bên ngoài khoác thêm một chiếc áo sơ mi vải
nỉ màu ghi xanh cho đỡ lạnh. Đó là chiếc áo mà tôi lấy của Makoto
vào cuối đông năm ngoái. Bỏ thêm vài món đồ lặt vặt vào trong ba lô,
tôi ra khỏi nhà đợi bố Yuu đưa xe ra đón.

Bố của Yuu nhân dịp này đã thuê một chiếc ô tô bảy
chỗ, vừa đủ để chở tất cả mọi người. Theo lịch trình thì sau khi
đến Hồ Xanh Aoiike, cả nhà sẽ tới thác Shirogane rồi vào công viên quốc
gia Daisetsuzan. Lúc leo lên ô tô
ngồi, theo thói quen tôi lại ngồi kế bên Makoto, tôi vẫn chưa hết buồn
ngủ nên dựa vào vai cậu ấy.

“Cánh tay cậu cứng quá Makoto.” Tôi phàn nàn rồi ngủ
thiếp đi khi xe bắt đầu chuyển bánh.

Khi cả đoàn đến tới Hồ Xanh thì trời có nắng chan
hoà, thời tiết hôm nay phải nói là đẹp đến ngây người, đặc biệt là
khi đứng trước cảnh hồ Aoiike. Tôi đã đến đây vài lần, và mặc dù là
một người Nhật Bản thực thụ nhưng chưa bao giờ cảm thấy thôi thích
thú khi đứng trước nơi này.

“Thật không thể tin
được!” James ngạc nhiên thốt lên: “Nước hồ có màu xanh da trời chưa
từng thấy!”

“Tuỳ vào thời tiết
sẽ còn có những ngày nó đổi thành màu xanh nước biển nữa đấy.”

Trên mặt hồ, những
thân cây bạch dương trắng khẳng khiu nhô lên khỏi mặt nước được mặt hồ
lặng như gương soi bóng khiến tâm hồn con người bỗng dưng cũng cảm
thấy tĩnh lặng lạ thường. Tôi thậm chí còn cảm thấy mình có thể
chuyển đến sống luôn tại đây được.

“Hôm nay Umi cũng mặc toàn đồ màu xanh hợp ghê nơi!”
Yuu trêu tôi, anh bắt chước giọng Hokkaido
giống y hệt.

Bốn chúng tôi ngồi xuống cạnh nhau bên bờ Hồ Xanh. Tôi
chợt tự ý thức ra một chuyện rằng xét về một mặt nào đó, nếu như
trừ riêng cái việc tâm trí tôi lúc nào cũng luôn mông lung về chuyện
quyết định cuộc sống của mình ra thì tôi bây giờ cũng có thể được
coi là kẻ may mắn hiếm có trên đời. Tôi được ở đây thưởng ngoạn cảnh
đẹp và xây dựng được một mối quan hệ tốt với những ba chàng trai.
Nếu như đây là một cuốn sách, có lẽ đó không phải là một cuốn sách
hay, nhưng với những chương đầu mỗi lúc một trở nên tốt đẹp như thế
này, tôi đoán rằng cho đến khi kết thúc nó sẽ vẫn là một câu chuyện
đáng để đọc và đáng được thỉnh thoảng nhớ lại.

Suốt cả ngày hôm ấy mọi người đều có những trải
nghiệm thiên nhiên đầy phấn khích. Chúng tôi đến công viên quốc gia
Daisetsuzan, đi bộ trong rừng và tắm suối nước nóng. Nếu như đây là
giữa thu hẳn tôi sẽ còn được ngắm cảnh lá đỏ tuyệt đẹp giữa chốn
núi rừng. Những trải nghiệm như thế này khiến tôi chẳng muốn quay
trở về Tokyo ngột ngạt. Ở Tokyo, ban đêm
khi nằm trên giường tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng xe cộ lướt qua,
thậm chí là tiếng bước chân loẹt quẹt của những người đi làm về
muộn. Còn ở Hokkaido, ban đêm chỉ nghe thấy tiếng của thiên nhiên, đôi
khi là tiếng sóng biển vỗ về.

Yuu mang cho tôi một lon trà. Chúng tôi ngồi dưới bóng
một tảng đá lớn thư giãn ngắm cảnh.

“Tay còn đau không Umi?”

“Em đỡ nhiều rồi, suối nước nóng thật là tuyệt!”

Rồi lại một khoảng yên lặng dễ chịu kéo dài.

“Em bỗng nhớ ra…” Tôi mở lời: “hình như em chưa hỏi
bất kỳ điều gì về Yuu cả.”

“Như thế nào?” Anh hỏi.

“Như những việc Yuu vẫn thường làm khi ở Mỹ, Yuu học
chuyên ngành gì, rồi công việc làm thêm, và cả chuyện hẹn hò nữa. Em
chẳng biết gì cả.”

“Vậy mà anh cứ tưởng Umi không thèm quan tâm đấy.”

“Em đã từng chẳng có nhu cầu quan tâm đến bất cứ ai
cả.” Tôi tựa hẳn lưng vào tảng đá phía sau mình, nói: “Nhưng có vẻ
như mùa hè này có tác động tốt với em. Cũng có thể là nhờ việc
có Yuu trở về đây nữa.”

“Lúc gặp Umi hồi đầu hè anh thực ra đã rất mừng.” Anh
cười nói: “Trông Umi bây giờ rất khoẻ mạnh, không như hồi còn nhỏ rất
hay đau ốm.”

“Hồi đó em có kha khá vấn đề về hô hấp.” Tôi nhớ
lại, đó là một phần tuổi thơ tương đối khổ sở mà tôi từng trải qua.
Từng có nhiều đêm tôi khiến cả nhà thức trắng vì mình bị đau tức
ngực và không tài nào thở nổi.

“Phải rồi.” Yuu gật đầu. “Nhưng anh cũng hơi ngạc nhiên
trước Umi tuổi mười bảy này, trông em nghiêm túc, lãnh đạm và khép
mình hơn. Chẳng còn bóng dáng đứa trẻ con nhõng nhẽo vẫn hay bám
theo anh hồi đó nữa. Lúc đó anh đã nghĩ ‘A! Thật là đáng tiếc…’ Anh
cũng tưởng Umi chẳng nhận ra anh nữa.”

“Đúng là em không nhận ra thật mà.”

“Còn anh thì vẫn nhớ, bởi vì anh đã quyết tâm theo
học ngành y chính vì Umi hay đau ốm mà anh nhớ hồi còn nhỏ.”

“Thật dễ chịu khi biết rằng mình từng là động lực
quyết tâm cho một ai đó.”

“Vậy còn Umi thì sao?” Yuu nhìn thẳng vào mắt tôi đợi
câu trả lời.

“Em cảm thấy mình chưa sẵn sàng cho mọi thứ.” Tôi
đáp.

Tôi nghe thấy tiếng thở dịu dàng của Yuu, “Vậy à…” Anh
khẽ nói: “Nhưng không sao cả, anh nghĩ giờ là lúc thích hợp để thử.”

Và rồi Yuu nghiêng người cúi xuống đặt lên môi tôi một
nụ hôn nhẹ như cái chạm phớt qua êm đềm của mây và gió.

14.

Tôi thực sự không hiểu chính mình.

Tôi rất thích Yuu, đó là sự thật. Và còn nhiều hơn
tôi tưởng rất nhiều so với cái thích của một đứa trẻ khi xưa hay
kiểu thích dành cho người mà mình yêu quý hay ngưỡng mộ.

Nhưng tôi chưa sẵn sàng cho bất kỳ một mối quan hệ
nghiêm túc nào cả. Thật sự nực cười khi mới cách đây vài tháng tôi
vẫn còn muốn cố gắng cải thiện cuộc sống thường nhật nhàm tẻ của
mình và mong muốn tiến đến một mối quan hệ yêu đương nào đó như bao
học sinh cấp ba bình thường khác. Rồi cuối cùng khi cơ hội thật sự
đến tôi lại cảm thấy chùn bước và cố gắng trốn chạy. Điều này
khiến tôi cảm thấy có lỗi với Yuu ghê gớm. Và cả Makoto nữa. Càng
lúc tôi càng có nhiều những điều bí mật mà tôi sẽ chẳng bao giờ
muốn kể cho cậu ấy biết.

Cuối tháng bảy, nắng rong ruổi khắp nơi trên mặt biển
và chúng tôi cũng vậy dù biển Hokkaido có lạnh đến thế nào. Thực
tình mà nói, việc hành xử như thế chẳng có chuyện gì nghiêm trọng xảy
ra đối với tôi không khó. James cũng rất quý mến tôi và tôi nghĩ mình
sẽ không có cơ hội được gặp anh ta nhiều khi kỳ nghỉ hè kết thúc nên
tôi chẳng muốn nép mình trong phòng riêng để trốn tránh chút nào. Đó
là cách hành động của một con người ngớ ngẩn, mà tôi thì không
thuộc kiểu như vậy. Luôn có thời gian để cho tôi suy nghĩ.

James nói ngày hai mươi bảy tháng tám anh ta và Yuu sẽ
phải quay trở về New York. Điều đó có nghĩa là chúng tôi chỉ còn
chừng mười ngày bên nhau ngắn ngủi và chẳng đời nào tôi bỏ lỡ bất
kể một giây vui vẻ bên ba con người đó.

Chúng tôi đi tắm biển, rồi lại đi leo núi cắm trại
và đến cả vườn thú Asahiyama vui chơi như những khách du lịch thực
thụ. Chúng tôi chụp thật nhiều ảnh. Trong mỗi bức ảnh tôi vẫn thường
khoác vai James và Yuu hoàn toàn thoải mái. Tôi không hề lảng tránh
mỗi khi nhìn vào Yuu, còn anh lại bắt đầu gọi tôi là hôn thê trở
lại. Đôi khi tôi tự hỏi không biết tôi có làm anh buồn về chuyện đó,
về cái cách mà tôi làm như giữa tôi và anh chưa từng có chuyện gì
xảy ra cả. Có khi nào chỉ có một mình tôi là cảm thấy thoải mái
về chuyện giả vờ hay không?

Thời gian trôi qua rất nhanh khi con người ta rong chơi
qua nó. Hơn một tuần trôi qua và chúng tôi chuyển sang đếm từng giờ
mà Yuu cùng James còn có thể ở lại. James đã viết tặng tôi và Makoto
vài bài hát, Makoto hát chung với James, chúng tôi thu hình lại rồi
đăng tải lên Youtube và nhận được rất nhiều những bình luận ủng hộ.

“Tôi sẽ để ban nhạc của mình trình diễn những bài
hát này.” James nói: “Tôi sẽ chẳng chờ đợi được đến ngày có thể
quay về đây với các bạn, Hokkaido
là một nơi quá tuyệt vời.”

“Và anh sẽ nhớ bia Ryuho chứ?” Tôi cười tươi đưa cho
James chai Ryuho cuối cùng của mình.

“Tôi sẽ giữ cái này.” James bóc tờ giấy nhớ có đề
chữ ‘Màu xanh của Umi’ mà Makoto đã dán lên chai bia rồi nhét vào túi
áo.

Điều đó với tôi có ý nghĩa rất nhiều.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3