Trên Chuyến Bay Đêm - Chương 05 - Phần 2
Hai người im lặng để suy nghĩ tìm ra phương kế.
Bỗng bà nhớ đến thái độ hòa nhã của ông ta, bà hỏi:
– Gia đình ông bình an chứ?
– Chưa ai rửa ráy, chưa mặc áo quần và không nghe lời. Betty có thai.
Bỗng Nancy quên hết buồn phiền. Bà kêu lên:
– Không đùa đấy chứ? - Bà nghĩ họ thường không muốn có nhiều con. Đứa út đã năm tuổi rồi. - Nghỉ lâu rồi mà có còn lại sao?
– Chắc là vì hoàn cảnh cần phải có thêm.
Nancy bật cười. – Chúc mừng ông!
– Cám ơn. Nhưng bà xã tôi hơi... quá tải.
– Thế sao?
– Cám ơn. Chị ấy trẻ hơn tôi mà.
– Nhưng sáu đứa con, thế là nhiều quá.
– Ông có thể lo chu toàn mà.
Nancy thở dài.
– Tôi đang ở Liverpool, cách xa Southampton đến 300 cây số, mà máy bay thì sẽ cất cánh trong vòng chưa đầy hai giờ nữa. Không thể nào đi được.
– Liverpool à? Không xa Ailen.
– Đừng khuyên tôi đi du lịch nữa ông ơi.
– Chiếc Clipper sẽ tạm dừng ở Ailen mà!
Bỗng Nancy cảm thấy hồi hộp. Bà hỏi:
– Ông chắc không đấy?
– Tôi đọc trên báo như thế.
Thế là tình hình thay đổi rồi, bà tự nhủ, lòng lại cảm thấy hy vọng. Có thể bà đi phi cơ được lắm chứ. Bà hỏi tiếp:
– Máy bay tạm dừng ở đâu... ở Dublin à?
– Không chỗ nào đấy ở bờ phía tây, tôi không nhớ tên. Nhưng bà có thể đến kịp để đáp phi cơ.
– Để tôi hỏi xem và sẽ gọi cho ông sau. Tạm biệt.
– Này, Nancy!
– Cái gì?
– Chúc sinh nhật vui vẻ.
Bà nhìn bức tường, nhoẻn miệng cười.
– Mac, anh thật tuyệt.
– Chúc may mắn.
– Chào anh. - Bà móc điện thoại, quay lại bàn tiếp tân. Người nhân viên trực cười với bà, nụ cười chiếu cố. Bà cố làm ngơ tỏ thái độ khiếm nhã của anh ta; căng quá sẽ làm cho anh ta bớt hợp tác. Bà bèn lấy giọng hòa nhã nói với anh ta:
– Theo chỗ tôi biết thì chiếc Clipper sẽ tạm dừng ở Ailen...
–Đúng thế thưa bà, dừng ở Foynes, trong cửa sông Shannon.
Bà muốn hỏi: Thế thì sao hồi nãy anh không nói, thằng khờ phách lối kia. Nhưng bà chỉ cười và nói:
– Nghỉ ở đấy lúc mấy giờ?
Anh ta lấy bảng thông báo giờ lên xem và đáp:
– Máy bay sẽ đáp xuống lúc 3 giờ 30 và cất cánh lại lúc 4 giờ 30.
– Tôi có thể đến đấy kịp không?
Nụ cười rộng lượng biến mất trên môi, anh ta nhìn bà với ánh mắt khiển trách, rồi nói:
– Tôi nghĩ là không kịp đâu. Muốn đến đấy bà phải đi trên chiếc máy bay nhỏ hai giờ. Nếu tìm ra được phi công, bà mới có thể đến đấy kịp.
Sự căng thẳng gia tăng thêm. Bà thấy tình thế có vẻ thực hiện được.
– Ông vui lòng gọi cho tôi chiếc tắc xi để đưa tôi ra bãi đáp phi cơ, được không?
Anh ta búng ngón tay, gọi người nhân viên khách sạn.
– Gọi tắc xi cho bà! - Anh ta quay qua Nancy.
– Còn hành lý của bà? - Hành lý đã được mang xuống để ở tiền sảnh. - Bà không thể chất hành lý này trong một chiếc máy bay nhỏ được đâu.
– Ông cho chuyển giúp đến tàu thủy được không?
– Được...
– Ông gửi tiền giúp tôi nhanh lên.
– Có liền.
Nancy mở vali lấy ra cái túi xách du lịch nhỏ.
Túi xách đựng các thứ dùng trang điểm, áo quần để thay lúc đi đường. Bà mở vali lấy ra cái áo tay cụt bằng xoa màu xanh nước biển để dùng vào sáng mai, cái áo ngủ và áo khoác ngoài để ngủ. Bà đã mang sẵn trên tay chiếc măng tô ca sơ mia xám mà bà định mặc khi lên boong tàu cho khỏi lạnh. Bây giờ bà mang theo luôn. Có thể dùng mặc cho ấm khi ngồi trên máy bay. Bà đóng vali lại.
– Thưa bà Lenehan, phiếu tính tiền của bà đây.
Bà viết ngân phiếu rồi biếu anh ta ít tiền boa.
– Xin cám ơn, thưa bà Lenehan. Tắc xi đang đợi bà. - Bà bước nhanh ra ngoài, leo lên chiếc tắc xi kiểu Anh nhỏ nhắn. Người nhân viên khách sạn mang túi xách ra để bên cạnh bà trên xe, rồi dặn dò người tài xế.
Nancy nói thêm:
– Và xin anh lái nhanh cho.
Chiếc tắc xi chạy qua trung tâm thành phố với tốc độ rì rì thật chán. Bà nóng lòng, dí đầu mũi giày da hoẵng xuống thảm lót xe. Xe chạy chậm là vì có nhiều người đang sơn những vạch trắng ở giữa đường, trên lề đường và quanh các gốc cây. Bà tự hỏi không biết họ sơn như thế để làm gì, rồi bà đoán có lẽ họ vẽ những đường trắng ấy là để giúp những người lái xe hơi trong đêm tối.
Khi ra ngoại ô xe chạy nhanh hơn và khi vào vùng quê xe mời phóng nhanh được. Ra đến đây, bà không thấy có dấu hiệu gì chuẩn bị chiến tranh hết.
Người Đức sẽ không dội bom ở vùng quê, nếu không có lý do. Bà xem đồng hồ mãi. Đã 12 giờ 30. Giả sử bà tìm được máy bay và phi công, yêu cầu được chở bà đi sau khi đã ngã giá, công việc nếu, diễn ra nhanh chóng, thì chắc máy bay sẽ cất cánh lúc 1 giờ. Người nhân viên khách sạn nói máy bay sẽ bay trong vòng hai giờ. Bà sẽ hạ cánh lúc 3 giờ. Sau đó, đương nhiên bà sẽ tìm cách để đi từ bãi đậu máy bay đến Foynes.
Nhưng chắc đường sẽ không xa. Có xe hơi chở bà đến tận bến tàu không. Mà lo nghĩ nhiều làm chi, vô ích.
Rồi bà lo chiếc Clipper đã đủ người rồi. Tất cả tàu bè đều đủ người hết.
Bà cố xua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi tâm trí. Bà định hỏi tài xế đường còn bao xa, thì bỗng bà thở phào nhẹ nhõm khi người tài xế quẹo xe, chạy vào một cánh đồng. Khi chiếc xe chạy gập ghềnh trên cỏ, Nancy thấy hiện ra trước mắt một nhà kho. Những chiếc máy bay nhỏ có màu sắc rực rỡ đậu trên bãi cỏ trông như bộ sưu tập bướm trên tấm vải nhưng. Không thiếu máy bay, bà vui mừng nghĩ thế. Nhưng bà phải có phi công, và có vẻ như không có bóng dáng phi công nào quanh đấy hết.
Tài xế đưa bà đến tận cánh cửa lớn của nhà kho.
– Anh vui lòng đợi tôi một lát, - bà nói rồi nhảy xuống xe. Bà không muốn bị kẹt lại ở đây: Bà đi nhanh vào trong nhà kho. Bên trong có ba chiếc máy bay, nhưng không có người. Bà quay ra lại ngoài trời nắng. Chắc phải có ai chứ, nếu không thì cửa kho đã đóng rồi, bà thầy có ba người đàn ông đang đứng quanh một chiếc máy bay. Chiếc máy bay thật đẹp: Màu vàng nghệ, hai bánh xe nhỏ màu vàng tươi, chiếc máy bay khiến Nancy nhớ đến những chiếc xe trẻ con chơi.
Máy bay có hai bánh, các cánh nối với nhau bằng những thanh ngang, một động cơ duy nhất gắn ở trên mũi máy bay. Vì thế mà cái chong chóng phải chĩa lên trời, nên trông nó giống như con chó con năn nỉ xin người ta dẫn nó đi chơi.
Người ta đang đổ nhiên liệu vào máy bay. Một người mặc quần áo có dây dai màu xanh lấm dây vết dầu, đội mũ liêu trai đang ngồi tót trên đầu chiếc thang, chăm chú đổ xăng từ trong thùng vào chỗ phình ra trên cánh máy bay nằm phía trên chỗ ngồi ở phía trước.
Bên cạnh đấy, một người đàn ông to cao, đẹp, tuổi cỡ tuổi Nancy, đầu đội mũ phi công, mặc áo khoác bằng da. Ông ta đang nói chuyện với một ông mặc bộ com lê bằng vải tuýt.
Nancy đằng hắng giọng và nói:
– Xin lỗi quí vị.
Hai người đàn ông quay mặt nhìn bà, nhưng người lớn nhất vẫn tiếp tục nói, không quan tâm chú ý đến bà. Tình hình có vẻ không ra chi, Nancy nói:
– Tôi xin lỗi làm phiền quí ông. Tôi muốn thuê một chiếc máy bay.
Người đàn ông to con ngừng nói chuyện một giây để trả lời bà:
– Tôi không thể giúp bà được.
– Tôi có việc khẩn cấp. - Nancy năn nỉ nói.
– Bà xem tôi là đồ lái tắc xi sao? - Ông ta lại quay sang trả lời bà.
Nancy nổi giận, bà đáp lại:
– Tại sao cục cằn thế?
Ông ta ngạc nhiên, nhìn bà, và bà nhìn thấy cặp lông mày đen của ông ta có hình dấu mũ. Ông ta bèn dịu dàng nói:
– Tôi không muốn cục cằn, nhưng máy bay của tôi không cho thuê và tôi cũng không làm thuê.
Bà thất vọng, nói tiếp:
– Xin ông đừng giận, đây là chuyện tiền bạc sòng phẳng, tôi sẽ trả với giá...
Lần này ông ta nổi giận, mặt ông đanh lại, ông quay người sang phía khác.
Nancy nhận thấy dưới chiếc áo khoác bằng da là bộ com lê màu xám đậm có sọc màu nhạt hơn, ông ta đi đôi giày đen đóng tại Oxford chính hiệu, chứ không phải loại sao chép rẻ tiền như hãng của Nancy chế tạo. Ông ta đúng là một doanh gia giàu có, lái máy bay riêng để giải trí. – Vậy không có ai cho thuê máy bay hết à? - Bà hỏi.
Người thợ máy ngẩng mặt lên khỏi thùng đựng xăng, lắc đầu nói:
– Hôm nay không có ai hết.
Người đàn ông mặc áo khoác nói với người kia:
– Tôi không làm công việc gì để phải mất tiền hết. Ông hãy nói với Seward rằng số tiền người ta trả cho ông ấy chỉ là giá bình thường thôi.
– Tiếc thật, - người mặc bộ comlê tuýt đáp lại, - đây là bảng giá anh ta đã bàn bạc rồi.
– Tôi biết. Ông nói với ông ta lần sau chúng ta sẽ thương thảo một giá cao hơn. À, như thế chắc anh ta không bằng lòng đâu.
– Vậy thì thôi, anh ta cứ làm một mình đi.
Nancy muốn hét lên vì thất vọng. Bà thấy tức tối khi đứng trước một chiếc máy bay tốt đẹp, có phi công, và bà đã nói hết lời mà vẫn không làm cho ông ta xiêu lòng. Gần như muốn khóc, bà ta buột miệng nói lớn:
– Tôi phải đi đến Foynes mới được.
Người đàn ông cao lớn quay lại, ông ta hỏi:
– Bà nói bà đến Foynes à?
– Phải.
– Tại sao?
Bà đã làm cho ông ta chịu nói chuyện rồi đấy. Bà đáp:
– Tôi đến cho kịp để đáp chiếc Clipper của hãng Pan American.
– Thật là lạ. Chính tôi cũng thế.
Bà bắt đầu hy vọng trở lại. Bà thốt lên:
– Ôi lạy Chúa. Ông đi đến Foynes à?
– Đúng thế. - Ông ta có vẻ đau khổ. - Tôi đuổi theo cô vợ tôi.
Nói gì mà tức cười thế không biết, bà nghĩ, thật không hợp với thái độ hùng hổ của ông ta mới rồi tí nào: một người có khả năng thú nhận một việc động trời như thế này quả là người hoặc rất yếu đuối, hoặc rất tự tin. Bà nhìn chiếc máy bay. Máy bay có hai chỗ ngồi, một trước một sau.
Máy bay của ông có hai chỗ ngồi phải không?– Bà hỏi, giọng run run.
Ông ta nhìn bà từ đầu đến chân. Ông đáp:
– Phải, có hai chỗ.
– Tôi van ông, xin ông cho tôi đi với.
Ông ta ngần ngừ một lát rồi nhún vai.
– Tại sao không?
Bà gần như ngất xỉu vì mừng rỡ.
– Ôi thật ơn Chúa. Tôi hết sức cám ơn ông.
– Vui mừng được biết bà. - Ông đưa bàn tay to tướng ra cho bà bắt. - Tôi là Mervyn Lovesey.
Bà bắt tay ông ta.
– Tôi là Nancy Lenchan, - bà đáp. - Tôi hết sức sung sướng được gặp ông.
*
Cuối cùng, Eddie nhận ra anh cần phải nói chuyện với ai đấy.
Với người mà anh hoàn toàn tin cậy, người có thể giữ được tuyệt đối chuyện bí mật này.
Người duy nhất mà anh có thể thảo luận được những việc như việc này thì chỉ có Carol-Ann mà thôi.
Nàng mới là người đáng tin cậy. Thậm chí anh cũng không thể thảo luận với bố anh về việc này: anh không muốn thổ lộ sự yếu đuối của mình cho bố thấy.
Vậy bây giờ anh có thể tâm sự với ai đây.
Anh nghĩ đến Baker, Cơ trưởng máy bay. Martin Baker là loại phi công thương mến hành khách: Ông ta đẹp mã, hàm vuông, về tự tin. Eddie nể trọng ông và thương mến ông. Nhưng ông ta là người yêu quí máy bay, trong sinh mạng của khách và rất nguyên tắc. Thế nào ông ta cũng đem chuyện này báo cho cảnh sát biết. Không nên nói với ông ta làm gì.
Người khác là ai nhỉ?
Phải, Steve Appleby.
Steve là con trai một tiểu phu ở Oregon, anh ta to con, thịt rắn chắc như gỗ. Gia đình anh theo Thiên Chúa giáo, nghèo như ông Job vậy. Hai người quen biết nhau khi họ mới bước chân vào trường Annapolis. Họ trở thành bạn bè ngay từ ngày đầu gặp nhau trong phòng ăn tập thể, căn phòng rộng sơn màu trắng. Hôm ấy, trong lúc mọi người chê bai món ra-gu dở ẹc, thì Eddie đã rửa xong dĩa ăn của mình. Ngẩng mặt lên nhìn, anh thấy một sinh viên sĩ quan khác cũng nghèo, có vẻ thỏa mãn thức ăn đó là Steve. Bốn mắt gặp nhau, thông cảm nhau sâu sắc.
Hai người chơi với nhau thân thiết suốt thời gian học ở trường, rồi sau đó gặp lại nhau ở Pearl Harbor. Khi Steve cưới Nella, Eddie làm phụ rể, hai người cùng phục vụ tại một nhiệm sở. Steve vẫn ở trong hải quân, tại căn cứ hải quân Portsmouth, bang New Hampshin. Bây giờ thì hai người không gặp nhau luôn, nhưng chuyện này không quan trọng, vì tình bạn của họ đã sống mãi với thời gian, dù không gặp nhau. Họ không viết thư cho nhau, vì chẳng có gì quan trọng để viết. Thỉnh thoảng họ gặp nhau ở New York, cùng đi ăn với nhau, hay là đi xem đá bóng, và họ cảm thấy gần gũi như mới gặp nhau hôm qua. Eddie nên tâm sự với Steve.
Rồi bỗng Steve trở thành người xoay xở rất tài. Một giấy phép đi nghỉ cuối tuần, một chai rượu ngon, hai vé ngồi xem trận đấu quan trọng, anh kiếm được hết trong khi những người khác bó tay.
Eddie phải tiếp xúc với Steve mới được. Anh chạy vào khách sạn. Anh đến phòng điện thoại, đưa số của căn cứ hải quân cho người phụ trách điện thoại, rồi anh lên phòng mình. Khi cô phụ trách điện thoại nối được đường dây, cô ta sẽ báo cho anh biết. - Anh cởi áo quần lao động ra, không dám mở nước tắm, vì anh sợ đang tắm thì điện thoại ở dưới reo. Cho nên anh đành rửa tay rửa mặt trong bồn rửa, rồi mặc cái sơ mi trắng sạch và chiếc quần của bộ đồng phục.
Công việc này làm cho anh bình tĩnh lại đôi chút. Anh không biết Steve sẽ nói gì, nhưng chắc anh sẽ thấy dễ chịu khi có người san sẻ khó khăn với anh.
Anh đang thắt cà vạt thì người phụ trách điện thoại đến gõ cửa. Anh chạy xuống thang lầu, nhấc ống nói lên nghe. Đường dây liên lạc được với tổng đài viên của căn cứ.
– Cô làm ơn cho tôi gặp Steve Appleby được không?
– Trung úy Appleby đang bận, không thể nối đường đây đến ông ta được, - cô tổng đài viên đáp. Eddie cảm thấy tim mình thắt lại. Cô ta nói thêm:
– Tôi chuyển tin lại cho ông ấy được không?
Eddie rất thất vọng. Anh biết Steve không làm sao cứu Carol-Ann được nhưng có thể có một ý gì đấy nảy sinh khi họ nói chuyện.
– Thưa cô, chuyện này khẩn cấp lắm. Ông ấy ở đâu?
– Tôi xin phép hỏi ông là ai được không, thưa ông?
– Tôi là Eddie Deakin.
Cô phụ trách điện thoại liền bỏ giọng quan trọng, vui vẻ, nói.
– Ô, chào Eddie! ông là phụ rể cho ông ấy phải không. Tôi là Laura Gros chúng ta gặp nhau rồi mà. Rồi cô ta nói tiếp bằng giọng bao che:
– Ông ta vắng mặt không chính thức. Đêm qua, ông ra ngoài căn cứ.
Eddie cố nén tiếng càu nhàu. Steve chọn đúng lúc đấy chứ.
– Theo cô thì khi nào mới gặp lại anh ta?
– Đúng ra là ông ấy phải có mặt trước bình minh, nhưng chưa thấy ổng đến.
Vậy là không những Steve vắng mặt mà thôi, anh ta lại còn có nguy cơ gặp chuyện không hay nữa.
Cô nhân viên tổng đài nói tiếp.
– Tôi có thể chuyển đường dây đến cho Nella, chị ấy hiện trong phòng đánh máy.
– Tốt, cám ơn. - Dĩ nhiên anh không thể tâm sự với Nella, nhưng có thể chị ta biết Steve hiện ở đâu.
Trong lúc chờ nối đường dây, anh nhớ đến Nella chị ta là người nồng nhiệt, mặt tròn vạnh, tóc dài uốn cong lên.
Cuối cùng anh nghe giọng của Nella cất lên:
– A lô. Nella, Eddie Deakin đây.
– Xin chào Eddie, anh ở đâu đấy?
– Tôi đang gọi từ nước Anh. Nella, Steve ở đâu?
– Anh gọi từ nước Anh à? Xa nhỉ Steve, ờ không liên lạc được. - Chị ta có vẻ bồn chồn khi hỏi tiếp:
– Có chuyện gì không ổn hay sao?
– Phải. Chị biết khi nào thì Steve về không?
– Trong sáng nay, có lẽ một hay hai giờ nữa anh ấy sẽ có mặt ở đây. Eddie anh có vẻ bị dao động. Có chuyện gì thế? Anh gặp chuyện khó xử phải không?
– Nếu Steve về trong khoảng thời gian ấy, làm ơn nói anh ấy gọi đến đây cho tôi nhé.
Anh đọc số điện thoại ở Langdawn Lawn cho chị ta.
Chị lặp lại:
– Eddie, anh không nói cho tôi nghe được có chuyện gì xảy ra à?
– Tôi không nói được. Chỉ nhờ chị nói anh ấy gọi cho tôi thôi. Tôi còn ở đây thêm một giờ nữa. Sau đó, tôi phải lên máy bay. Hôm nay chúng tôi bay về New York.
– Tùy anh, - Nella đáp, giọng miễn cưỡng. – Carol-Ann có khỏe không?
– Tôi phải đi có việc bây giờ, - anh đáp. – Chào Nella. - Anh móc máy không đợi chị trả lời. Anh nhận ra mình mất lịch sự, nhưng anh quá bối rối không lưu tâm đến điều đó được.
Không biết làm gì, anh lên lầu, về phòng. Anh để cửa phòng mở rộng để có thể nghe được tiếng chuông điện thoại dưới sảnh reo, anh đến ngồi ở mép giường.
Từ bé đến giờ, bây giờ là lần đầu tiên anh cảm thấy muốn khóc. Anh ôm đầu, nói nhỏ với mình:
– Ta phải làm gì nhỉ? Anh nhớ lại vụ bắt cóc cậu con trai của Lindberg cách đây bảy năm, khi ấy anh đang phục vụ ở Annapolis. Đứa bé bị giết chết. Anh cầu nguyện:
“Ôi lạy Chúa, xin Ngài cho Carol-Ann bình an vô sự”.
Thời gian gần đây, anh thường không cầu nguyện. Cầu nguyện chẳng giúp gì được cho mẹ anh. Tốt hơn hết là nên tự mình giúp mình. Anh lắc đầu. Bây giờ không phải lúc trở về với tôn giáo. Cần suy nghĩ phải làm gì.
Những kẻ bắt cóc Carol-Ann muốn Eddie phải đi trên chiếc thủy phi cơ. Ít ra đây là điều rõ ràng. Có lẽ anh không nên lên phi cơ, nhưng như thế thì anh sẽ không gặp Tom Luther, và sẽ không biết chúng đòi hỏi cái gì. Có lẽ anh nên phá hỏng kế hoạch của chúng, nhưng sợ anh không có cơ may làm chủ được tình hình.
Anh đứng đậy, mở chiếc va li nhỏ ra. Anh cứ nghĩ đến Carol-Ann, nhưng tay anh tự nhiên sắp xếp các thứ cần dùng: dao cạo, pijama, áo quần.
Khi anh ngồi xuống lại, chuông điện thoại reo. Ba chân bốn cẳng anh chạy ra hành lang, xuống cầu thang, nhưng đã có người trả lời điện thoại nói.
Khi đi qua tiền sảnh, anh nghe ông chủ khách sạn nói:
– Mồng 4 tháng 10 à? Để tôi xem thử chúng tôi còn phòng trống không đã.
Bực mình, anh quay bước đi lui. Anh nghĩ là Steve chắc không thể làm gì được. Không ai có thể làm gì được. Có kẻ đã bắt cóc Carol-Ann, và Eddie phải thực hiện những gì bọn chúng ra lệnh, có thể anh mới tìm ra được nàng. Không ai có thể giải quyết được khó khăn anh đang gặp phải.
Lòng nặng trĩu, anh nhớ lại cảnh hai vợ chồng cãi nhau trước khi anh ra đi. Không bao giờ anh tha thứ cho mình được. Anh thề là anh sẽ không bao giờ gây gổ với vợ nữa, chỉ mong sao anh tìm được nàng bình an vô sự. Có tiếng gõ cửa, Mickey bước vào, anh ta mặc đồng phục bay, xách va li trên tay. Anh ta hăng hái hỏi Eddie:
– Chuẩn bị đi rồi chứ?
Eddie hốt hoảng.
– Chưa đến giờ mà!
– Đến rồi!
– Mẹ kiếp...
– Có chuyện gì xảy ra à? Anh thích ở đây luôn sao? Anh muốn ở lại để đánh bọn Đức phải không?
Eddie muốn ở lại vài phút nữa để đợi tin Steve.
Anh đáp:
– Anh đi trước đi, tôi sẽ theo kịp anh sau.
Mickey hơi phật ý. Anh ta nhún vai, nói:
– Hẹn lát nữa gặp nhau, - nói xong, anh ta đi ra.
Steve Appleby, ở đâu nhỉ?
Eddie ngồi xuống lại, nhìn đăm đăm bức tranh treo trên tường suốt mười lăm phút tiếp theo.
Cuối cùng anh xách va li đi xuống cầu thang, nhìn cái điện thoại tiền sảnh như con rắn rung chuông chuẩn bị cắn. Anh dừng lại trong tiền sảnh, chuông reo.
Cơ trưởng Baker đi xuống, ông nhìn Eddie, ngạc nhiên.
– Anh trễ rồi! - Ông nói. - Anh nên đi tacxi với tôi. Cơ trưởng có quyền ưu tiên đi tacxi đến tàu.
– Tôi đợi cuộc điện thoại, - Eddie trả lời...
Vẻ mặt ông Cơ trưởng tỏ ra bất bình.
– Thôi, anh không thể đợi thêm nữa được đâu. Đi cho rồi!
Eddie không nhúc nhích một lát. Rồi anh nghĩ: làm thế là ngốc. Chắc Steve không gọi rồi, và anh phải lên máy bay nếu anh muốn làm cái gì. Anh buộc lòng phải xách va li và đi ra cửa.
Chiếc tắc xi đợi sẵn, hai người lên xe.
Eddie cảm thấy mình có lỗi với thượng cấp, anh nói:
– Xin ông tha lỗi. Tôi đang đợi cuộc điện thoại gọi từ Mỹ.
Ông Cơ trưởng mỉm cười khoan dung, vui vẻ đáp:
– Được rồi, ngày mai là anh có mặt đấy rồi.
– Đúng thế. - Eddie đáp, vẻ buồn rầu.
Anh lại thấy mình cô đơn.