Gói thuốc lá - Chương 11
Chương 11: Những Việc Trong Bóng Tối
Nhà
thương Phủ Doãn sáu giờ rưỡi chiều hôm đó, quang cảnh không khác gì một buổi
chiều thường. Những lớp nhà thấp ở các khu yên lặng đợi đêm dưới những hàng cây
cao lớn. Một vài người ốm trong bộ quần áo trắng của nhà thương lác đác đứng ở
gần nhà bệnh, hoặc lững thững đi ở mấy lối gần. Thỉnh thoảng một người khán hộ
vội vàng đi qua. Gió thổi đã bớt nóng và cùng với bóng tối ngày tàn, đưa một
chút dễ chịu đến cho mọi người, sau những giờ nóng bức. Thời khắc bình tĩnh
lặng lẽ trôi. Không ai có thể ngờ rằng trong bầu không khí hiền lành ấy lại có
những tâm trí đang hồi hộp âm thầm để chờ đến những chuyện kịch liệt.
Một thiếu nữ ăn mặc lối nữ khán hộ bước lên khu
Pasteur B. Cô nhanh nhẹn đi tới buồng số 1, đưa mắt trông lại đằng sau, rồi khẽ
gõ vào mặt cửa ba tiếng. Trên cửa, một mảnh giấy lớn dán vào mặt kính mấy chữ
ĐINH VÕ THẠC rõ
rệt như nhãn hiệu của một nhà hàng.
Người thiếu nữ vặn nắm cửa bước vào, rồi khép
lại cẩn thận. Trong buồng này chỉ có hai giường, một giường để không, trên phủ
một chiếc chăn trắng mép chấm gần tới đất. Cô đến ngồi lên đó, lẳng lặng nhìn cái
giường kê đối diện, áp với cái cửa sổ trông ra đầu hiên. Trên giường này, một
người ốm nằm thẳng, đầu chìm trong những gối bông to và mình đắp một tấm khăn
giường nhỏ. Tuy lúc ấy nhá nhem tối và trong phòng không mở đèn, nhưng ai có
nhìn cũng nhận ra người ốm kia chính là Lê Phong. Anh hé mắt nhìn người mới vào
rồi nhắm mắt lại. Một lát im lặng. Hai người cùng có vẻ nghe ngóng. Bỗng thấy
Lê Phong thở một tiếng dài. Anh kéo chăn phủ xuống tới thắt lưng, rồi khẽ hỏi:
- Bảy giờ chưa?
Người thiếu nữ lắc đầu:
- Chưa, còn kém hai mươi.
- Những ai đến rồi?
- Đến đủ cả.
- Đủ? Mai Trung với Kỳ Phương?...
- Họ đợi ở phòng số 3. Họ cùng đến một lúc với
người của ta...
- Họ ăn mặc thường?
- Không. Lúc gặp họ lần sau, em nói họ hiểu ý
ngay, họ cũng ăn mặc lối khán hộ.
Lê Phong mỉm cười:
- Tử tế nhỉ. Nhưng tôi chắc họ vẫn chưa tin
mình. Chúng ta làm việc có vẻ trò quỷ thuật lắm. Nhưng không hề gì. Chỉ mấy giờ
nữa họ không tin cũng không được. Thôi thế là chu đáo. Bây giờ Mai Hương đi ra
đi. Dặn mọi người nhớ lấy các dấu hiệu. Bình, Lịch với Thanh ở bên buồng số 2
đấy chứ?
- Vâng.
- Ngoài cửa sổ, chỗ ẩn có kín hẳn không?
- Kín. Em mượn nhà thương được hai cái thùng
“tôn” có nắp.
- Được. Cô cẩn thận đi soát lại một lượt, đến
bảy rưỡi thì “ngậm tăm”.
Phong đưa tay cho Mai Hương bắt. Cô nắm tay anh
rất chặt, trong cử chỉ đó Phong đoán thấy sự khăng khít của bạn và cả sự lo sợ
thay cho anh.
- Mai Hương đừng ngại gì, nó không biết được tôi
đâu.
- Nhưng anh cũng phải coi chừng... Em sợ lúc
cùng nó đâm liều thì nguy hiểm lắm cơ đấy...
- Mai Hương cứ yên tâm.
Người thiếu nữ kéo tấm chăn tới cằm Phong, đặt
một chiếc khăn ướt lên trán anh, ép hai mép gối vào hai bên má, nhẹ nhàng ý tứ
như một người khán hộ chăm sóc cho một bệnh nhân. Phong nhắm mắt, thấy một sự
êm dịu phủ lên khắp mình, và cả tâm hồn anh như thu nhỏ lại.
Khi Mai Hương ra khỏi, những cảm giác khoan
khoái cũng bắt đầu mất dần. Cả sự im lặng buồn bã ở nhà thương đều như dâng lên
cùng bóng tối im lặng.
Phong nằm yên, nghe quả tim đập, nghe những
tiếng nhỏ của lá cây khẽ động và tưởng đến những bước chân rón rén bước lại gần
phòng anh.
Lần đầu tiên trong cả vụ này, lúc đó Phong mới
biết hồi hộp. Bởi vì anh tự hiến mình làm một thứ mồi để nhử ác thú. Anh nhận
lấy cái việc nguy hiểm, thay cho người sẽ bị giết chết để đón lấy khí giới của
kẻ giết người đêm nay... Phong đợi mãi mà chưa thấy đến bảy giờ. Giây phút đi
chậm lạ thường, hình như cùng với sự bí mật tiến lên bằng những bước dè dặt.
Anh ôn lại các điều dự định, tưởng lại các
trường hợp, trông thấy hiện trong trí các cử chỉ và nghe thấy các lời nói của
các nhân vật trong vụ này. Nguyên nhân vụ án mạng thứ nhất anh đã biết rõ như
đọc trong cuốn sách. Vụ án mạng thứ hai đối với anh là một thứ kết quả dĩ
nhiên, do cái án mạng thứ nhất gây nên. Vậy theo luận lý của anh thế nào cũng
phải có cuộc mưu sát đêm nay. Anh tin một cách rất vững vàng rằng hung thủ có
hết các lẽ quan trọng để phạm tội ác nữa. Trong sự bình tĩnh của tâm trí và của
hoàn cảnh, Phong thấy óc mình sáng suốt và giác quan tinh tường thêm. Bất giác
Phong mỉm cuời. Nụ cười đạo mạo, nghiêm nghị, chỉ nở trên miệng người phóng
viên trong những trường hợp kì dị như những lúc này.
Bỗng Phong chau mày. Một tiếng động vừa chợt
nghe thấy đâu đây. Một tiếng động rất nhỏ, nhưng lúc ấy không thoát khỏi cái tai
người vẫn chú ý.
Anh hé mắt liếc nhìn về phía cửa, thì thấy nắm
cửa trắng dần dần quay. Cửa nhẹ nhàng mở ra và một người mặc âu phục sẫm lách
vào, khắp người trùm một thứ mặt nạ bằng vải đen, chỉ để hở hai con mắt long
lanh sáng.
Phong hiểu ngay, lẳng lặng mỉm cười tự nghĩ:
- Trên sân khấu “bí mật” ai cũng muốn đóng những
vai dị kì...
Người lạ mặt cẩn thận khép cửa lại thong thả đến
bên giường Phong, nhìn người phóng viên lúc đó nằm thẳng dưới làn chăn mỏng
trắng. Hắn thấy Phong có vẻ hoàn toàn như một người bị thương nặng: trên đầu
buộc khăn, hai má khuất vì hai mép gối; cái bộ mặt biến gần hết và đổi khác
hẳn: phải là người biết trước hoặc tinh ý lắm mới nhận được ra là anh. Hắn gật
đầu rồi ghé xuống gần tai Phong, hạ thấy giọng xuống nói:
- Ông đợi tôi có nóng ruột không?
Phong hơi lắc đầu. Hắn lại hỏi:
- Đèn bật hay cứ để tối? Có lẽ để tối hơn.
Phong lắc đầu. Người kia ra ý hiểu:
- Phải cứ bật đèn lên có lẽ tự nhiên hơn. Tôi
bật đèn nhá?
Bấy giờ Phong mới nói:
- Bật đèn nhưng để lát nữa đã. Bây giờ ông nghe
tôi. Lúc vào đây, ông có chắc là nó chưa đến không?
Người đeo mặt nạ đáp, tiếng nói thều thào sau
làn vải che trước miệng:
- Chắc. Tôi đã xem xét rất cẩn thận...
- Người sinh viên gác dẫn ông vào phải không?
- Vâng. Ông ấy lại cho tôi biết tên những người
ra vào nhà thương từ sáu giờ rưỡi đến bây giờ.
- Những người được phép vào?
- Vâng.
- Mấy người?
- Ba người, mà không ai đáng chú ý. Vì toàn là
những người vẫn ra vào đây.
- Việc canh gác nhà thương chu đáo chứ?
- Vâng.
- Được. Ông vào đây, ngoài người sinh viên, có
ai trông thấy nữa không?
Người lạ mặt hơi ngập ngừng:
- Chỉ có một cô nữ khán hộ... nhưng cô ấy không
để ý đến tôi...
- Ông gặp cô ta ở lối vào đây phải không?
- Vâng... sao kia?
- Cô ấy để ý lắm cơ đấy, nhưng không hề gì, vì
đó là cô Mai Hương. Ông không thấy gì khác nữa chứ?... Nghĩa là không có gì
khác có thể để cho nó nghi ngại chứ?
- Không.
- Mấy giờ rồi?
Người lạ mặt xem đồng hồ tay:
- Bảy giờ kém mười hai phút.
- Ông có khí giới gì không?
- Tôi không cần khí giới: chân tay không cũng
đủ.
- Được. Bây giờ ta chỉ có việc đợi. Nửa giờ nữa
hay một, hai giờ nữa cũng không chừng. Thế nào nó cũng đến, để giết Đinh Võ
Thạc mà tôi thay mặt nằm ở đây...
Phong cười nhạt:
- Tôi sẽ dành cho hung thủ nhiều sự ngạc
nhiên... cho hung thủ cũng như cho nhiều người... thí dụ như ông Mai Trung, ông
Kỳ Phương và người bạn thân của tôi và ông Văn Bình. Thực là một món quà đột
ngột mà họ không ngờ tới...
Phong chợt hỏi:
- Các khẩu hiệu ông biết cả rồi chứ?
- Bức thư của ông rành mạch lắm. Ông có điều gì
dặn thêm nữa không?
- Không. Nhưng tôi tưởng nên nhắc lại cho ông
nhớ lần nữa, vả lại có một vài chỗ quan trọng phải sửa đổi. Vậy ông nghe đây:
Từ giờ đến đêm, không kể chuông đồng hồ, thì các chuông nhà thương đều không
bao giờ đánh. Hễ có tiếng chuông đánh thì ta phải hiểu là có sự khác thường. Sự
khác thường ấy có nghĩa là: hung thủ đã qua cổng. Từ lúc hung thủ qua cổng sẽ
còn nhiều cách báo hiệu khác mà ta phải nhớ kĩ lấy thứ tự: một đoạn bài
“Guitare d amour” thổi sáo miệng, tức là hung thủ đang tới đầu khu Pasteur B.
Khi hung thủ qua những buồng cạnh đây thì bài “Guitare d amour” sẽ hát thành
tiếng. Lúc có tiếng văng vẳng rên của một vài người ốm trên gác, thì hung thủ
đã bước tới cửa buồng này. Hung thủ bước vào sẽ ra ngay, vì nó chỉ cần ở có nữa
phút cũng đủ làm xong công việc của nó. Khi ấy tiếng còi của tôi thổi giật lên
ba lượt thì mọi người phải xông vào. Nhưng nếu còi chưa thổi thì không ai được
động cựa. Phần ông thì ông chỉ phải theo những dấu hiệu trên để cầm nhừng. Hiệu
còi chỉ người khác cần nhớ. Còi thổi mà chưa ai kịp xông đến, ông cũng không
ngại, ông cứ làm theo lời tôi dặn trong thư... ông hiểu chưa?
- Hiểu rồi.
- Nhất là không được đánh chết hung thủ. Dù nó
chực đâm chết ông để thoát thân cũng vậy... Ông có thể thắng được nó không?
- Cái đó ông không lo! Tôi không sợ ai hết...
- Được lắm. Ông đưa cái bấm điện đây cho tôi để
lát nữa tôi bật đèn. Bây giờ ông hãy bắc ghế, lấy mảnh giấy ở đầu giường tôi
che ngọn đèn điện đi để tôi khỏi chói mắt... và để hung thủ không nhận được
tôi...
Lúc ấy trong buồng Phong đã tối. Một chút ánh
sángở những đèn điện bên ngoài chỉ lờ mờ đưa qua cái cửa sổ bên giường nằm.
Người đeo mặt nạ chỉ là một cái bóng đen mơ hồ đương cử động theo lời Phong
bảo.
Hắn bắc ghế, với tay vừa tới ngọn đèn điện giữa
phòng, loay hoay để giắt tờ giấy lên chỗ cuống lắp bóng đèn, lựa cho tờ giấy có
thể che khuất mặt Phong khi đèn bật cháy.
Phong lại bảo:
- Ông cất ghế vào chỗ cũ rồi vặn khuy đèn ở trên
tường kia...
Người lạ mặt theo lời, nhưng trong phòng vẫn om
tối. Hắn lại gần hỏi Phong:
- Kìa, sao đèn không cháy?
Phong cắt nghĩa:
- Vì tôi bấm tắt từ trước rồi. Đèn sáng mà ông ở
đây thì người ta có thể trông thấy được. Đó là cách phòng xa. Vậy trước khi tôi
bấm đèn sáng, ông phải ẩn đi đã.
Lúc Phong bật đèn thì trong phòng lại vắng như
trước. Anh đưa mắt nhìn qua tứ phía rồi thở một tiếng dài. Sự chờ đợi bắt đầu,
sự chờ đợi lặng lẽ và nặng nề, trong đó sự tịch mịch như lớn lao thêm, và lòng
người xôn xao những ý nghĩ nghiêm trọng.
Tiếng náo động của thành phố vang tới đây như từ
một nơi xa khuất. Nhà thương hình như là một cõi biệt tịch mà người đời không nhớ
đến. Thời giờ càng về muộn càng làm cho vẻ quạnh vắng rõ rệt hơn lên.
Đủng đỉnh và rõ ràng, đồng hồ nhà thờ điểm hồi
chuông bảy giờ, và Phong ngạc nhiên vì đêm đến quá chậm.
Bảy giờ mười lăm.
Rồi bảy giờ rưỡi.
Chuông đồng hồ xa điểm tiếng sau cùng một cách
đạo mạo khác thường.
- Bảy giờ rưỡi rồi.
Đó là câu giản dị mà Phong nghĩ thầm.
Mai Hương, trong bộ áo nữ khán hộ ở phòng bên,
cũng nghĩ thầm:
- Bảy giờ rưỡi rồi.
Kỳ Phương và Mai Trung ở phòng số 3 thì đưa mắt
ra ý bảo nhau:
- Bảy giờ rưỡi rồi đấy.
Viên thanh tra mật thám vốn là người không để
bụng được lâu một ý nghĩ, toan nói, nhưng Phương đưa tay bảo im. Một lát ông ta
mới gật gù, lẩm bẩm mấy tiếng nhỏ.
Mai Trung thừa dịp nói:
- Ông có chắc hung thủ bị Lê Phong lừa vào trong
phòng?
Phương trầm ngâm rồi lại gật đầu:
- Tôi đã hơi tin rằng Lê Phong có lý.
- Có lý thế nào? Tên Thổ để cho người ta bắt dễ
thế sao?
Phương vẫn một vẻ trầm ngâm:
- Có nhiều khi sự vô lý cũng thành được sự
thực...
- Tôi không hiểu...
Phương mỉm cười nhìn Mai Trung một cách ý tứ để
Trung hiểu câu mà Phương không nói: “Ông thanh tra khéo nhún mình!”
Mai Trung bất đắc dĩ phải làm ra vẻ người thông
minh và khiêm tốn. Cái ý tưởng tên Thổ bị Lê Phong tìm được trước sở liêm phóng
làm ông ta khó chịu, nhưng ông lại tự an ủi bằng một ý tưởng khác: bắt được tên
Thổ, Lê Phong vừa tỏ ra người khôn khéo lại thú nhận sự vụng tính của anh. Vì
Lê Phong đã công bố ngay từ đêm hôm qua rằng tên Thổ không phải thủ phạm... Vậy
sự thành công của anh về công việc lại chính là sự thất bại về lý thuyết: bắt
được tên Thổ, Lê Phong chỉ bênh vực những lý thuyết mà anh phản đối, những lý
thuyết mà Phương và ông ta vẫn theo...
Trung đoán rằng Kỳ Phương cũng nghĩ như mình,
nên không bàn bạc gì thêm nữa.
Ông ta mím miệng lại, vẻ mặt nghiêm nghị, nhưng
đôi mắt tươi cười. Bỗng ông ta cau mày hỏi Phương:
- Còn một điều này nữa, ông nghĩ sao?
Kỳ Phương đưa cao lông mày lên để đợi câu Trung
nói tiếp:
- Còn một điều này nữa: tại sao Lê Phong lại
biết rằng hung thủ vào đây hôm nay?
- Vì Lê Phong đăng báo rằng Thạc chưa chết. Các
báo khác cũng đăng theo tin ấy, cả mọi người trong nhà thương này cũng tưởng
thế, trừ những người trực tiếp coi xác Thạc như ông y sĩ, một, hai người khán
hộ và sinh viên... Những người này, Lê Phong đã xin họ giữ kín sự thực cho đến
khi hung thủ bị bắt.
- Nhưng sao Lê Phong biết là hung thủ cần phải
giết Thạc? Thạc bị đâm tôi tưởng chỉ vì tên Thổ muốn tháo thân... Thoát thân
rồi tên Thổ cần gì phạm tội ác lần nữa? Bảo rằng để Thạc không tiết lộ tên hung
thủ thì thật là vô lý, vì tên Thổ chẳng để cái danh thiếp của nó ở cạnh Thạc
đấy sao?
Kỳ Phương không trả lời, chăm chú lắng tai nghe
động tĩnh.
- Mà còn cái danh thiếp... với những chữ lạ
lùng mà Lê Phong khoe đã hiểu nghĩa?... Tên Thổ để lại cái danh thiếp để làm
gì?...
Phương vẫn ngậm tăm, mắt lơ đãng liếc nhìn về
một góc phòng, đôi mày cau xuống làm cho quầng mắt tối den, hai ngón tay vân vê
điếu thuốc lá mà ông ta chưa châm hút. Phương chợt hỏi:
- Trước khi Thạc bị giết, trước khi đó lâu lắm,
nghĩa là ngay từ lúc ông và tôi còn tra xét trong nhà 44 bis phố Richaud, ông
có thấy Lê Phong hỏi Thạc một câu lạ lùng không?
Mai Trung còn đương cố nhớ lại thì Phương đã
nói, tiếng hạ thấp xuống, và mặt nghiêm trọng hơn.
- Một câu khác thường, vì người ta không hỏi
nhau trong những trường hợp thảm đạm ấy. Phải, một câu vô nghĩa lý mà bây giờ
tôi mới nghĩ đến, nhưng lúc ấy tôi chỉ thấy chướng tai, Phong nhìn xác Đường,
rồi lại gần bắt tay một người, cười nói như giữa một tiệc vui, hỏi Thạc: “Anh
trả tôi gói thuốc lá chứ?” Thạc cũng thấy cử chỉ của Phong là khó chịu, chưa
kịp đáp thì Phong nói luôn: “Gói thuốc lá anh mượn tôi từ lúc còn ngồi trong
nhà chiếu bóng ấy mà!” Thạc trả gói thuốc lá thì Phong nhoẻn miệng cười và nhìn
tôi một cách ngạo nghễ rất khó hiểu. Bây giờ tôi mới nghĩ ra. Phong quả thực là
một tay phi thường nếu không là một anh chàng gặp những cái may hiếm có. Gói
thuốc lá kia hẳn có một liên lạc tối quan trọng trong mấy vụ ám sát này. Cái
liên lạc ấy Lê Phong tìm ngay được, hay ngờ sự tình cờ nào mà trông ngay thấy,
trong lúc chúng ta ít may mắn hơn, còn đương ở trong vòng điều tra? Dù chưa
đoán được rõ ràng, nhưng tôi cũng dám chắc một điều này, xin anh nhớ cho: gói
thuốc lá kia hẳn là một cách... một thứ... một “sự bí mật” mà Lê Phong nắm giữ
được. Phải, tôi vừa chợt nghĩ đến từ lúc nãy, và xin nhắc lại rằng: điều vô lý
nhiều khi cũng có thể tin là sự thực được.
Mai Trung biểu lộ sự hết sức suy nghĩ trong các
đường răn trên trán để hiểu Kỳ Phương. Ông gật đầu, nhưng đôi mắt ông chớp luôn
trước những điều quá rắc rối. Ông hỏi như người đã nhận ra các lẽ tối tăm:
- Vì gói thuốc lá mà Lê Phong tìm thấy tên giết
Đường trước chúng ta?
Phương gật đầu:
- Và sau khi Thạc bị giết, Phong nghĩ cách bắt
được hung thủ đêm hôm nay... Lê Phong biết vụ án mạng thứ hai duyên do ở vụ án
mạng thứ nhất và là nguyên nhân vụ ám sát sắp tới đây... Phải rồi... Ta nên
nhận rằng Lê Phong tính việc này cũng khá... Chỉ còn một điều tôi vẫn ngờ là
tại sao Phong vẫn chưa chịu rằng tên Thổ Nông An Tăng là hung thủ?
Trung cười:
- Cái lầm to lớn của Phong ở đấy. Nếu hung thủ
đến để cho người ta bắt được thì Lê Phong sẽ thấy bại ngay trong lúc thành
công...
Kỳ Phương bỗng đưa tay để ngăn tiếng cười hơi ầm
ĩ của viên mật thám. Hai người lặng im để nghe gnóng thì vừa lúc chuông đồng hồ
xa điểm ba khắc: bảy giờ bốn lăm.
Mai Trung cắn lấy môi, mặt biến hẳn sắc và, lần
thứ nhất, chịu ảnh hưởng của người bạn mà ông ta tín phục. Trung thấy giây phút
đó nghiêm trọng và tin rằng Lê Phong có tài.
Hai phút chưa qua, bỗng Trung đứng vùng lên, đi
lại phía cửa. Một tiếng chuông đồng hồ nhà thương vừa gióng và liền đó một hồi
sáo miệng thổi mấy câu đầu bài “Guitare d amour”.
Bên ngoài, dưới ánh mấy ngọn đèn quạnh hiu ở lối
đi, một người đàn ông đang vừa chậm chạp bước về khu Pasteur B. Vừa nhìn đó
đây, dáng điệu bỡ ngỡ như người tìm tòi: hắn ăn mặc như một tên đầy tớ. Tay hắn
mang một cái đèn cồn, một gói to bọc nhật trình và một chiếc va ly nhỏ. Hắn có
vẻ một tên người nhà đem mấy thức ăn cần dùng vào cho chủ ở nhà thương.
Bài “Guitare d amour” thổi sai cung bậc nhưng
người thổi đứng khuất đâu đó vẫn thích cho người ta nghe.
Rồi cao hứng, người ấy lại cất tiếng hát. Giọng
hát ấy cũng không đúng, nhưng tiếng hát cứ to mãi cho đến lúc tên đầy tớ từ
cuối khu Pasteur B bước tới những căn phòng riêng có số.
Hắn dừng lại trước phòng có số 1, đọc những chữ
dán trên cánh cửa, ngơ ngác nhìn trở lại, vì có tiếng rên của mấy người ốm ở
gần quanh.
Không thấy qua một ai, và tiếng rên mà hắn tưởng
đưa từ phía sau lưng, lúc đó nhận kẽ ra mới biết từ trên gác đưa xuống, hắn
vụng về đưa tay ra vặn nắm cửa rồi bước vào.
Trong phòng, người ốm nằm thẳng dưới lớp chăn,
cả khuôn mặt chìm sâu và khuất dưới những khăn bông và mép gối. Hắn chỉ trông
thấy đôi mắt của người ốm lúc đó nhắm lại. Hắn nghe ngóng một lát, thấy không
có chi đáng lo ngại, liền bỏ hẳn vẻ ngờ nghệch, đặt nhanh những đồ đạc xuống
đất, rồi lẹ làng một cách lạ, hắn rút một con dao nắm gọn trong tay.
Lê Phong, trong trang phục người bị thương vẫn
nằm im, đôi mắt nhắm, hơi thở đều, và hình như không để ý tới hắn. Hắn bình
tĩnh nhưng quả quyết, không vội vã, không sợ hãi, đến bên giường, chọn trước
một chỗ nguy hiểm nhất trên ngực Lê Phong, rồi đâm con dao xuống rất mạnh.
Ngay lúc ấy, một cái chớp bừng lóe lên trong
phòng cùng với một tiếng động khẽ ở giường Phong. Hắn kinh ngạc nhìn lên thì
thấy hai người đã đứng đợi hắn ở sau khung cửa sổ. Một người chĩa về hắn một
cái máy ảnh nhỏ, còn người kia sắp sửa trèo vào. Nhảy lùi lại một bước, hắn
toan mở cửa phòng, nhưng cửa phòng đã bị ai khóa chặt lại. Lê Phong tuy bị con
dao cắm giữa ngực, cũng vừa ngồi dậy. Trúng kế, hắn đánh liều xông đến, định cố
chết vượt qua cửa sổ tháo thân. Nhưng một quả đấm dữ dội của Lê Phong đẩy hắn
về phía sau, hắn ngã ngửa lên chiếc giường bỏ không và tức khắc bị một người, ở
dưới gầm giường chui lên, chẹn lấy cổ.
Đó là người đeo mặt nạ.
Phong lại gần cúi xuống kéo lấy hắn dậy, vừa rút
con dao cắm trên ngực ra vừa cười:
- Trước khi giết người, anh nên xem người đó có
phải là Lê Phong không đã...
Tên thủ phạm kêu lên một tiếng sợ hãi:
- Lê Phong!
Phong ngả đầu:
- Phải, Lê Phong đây. Lê Phong vẫn đợi nhát dao
đây! Nhát dao rất nguy hiểm cho mọi người thường, nhưng Lê Phong thì không thể
chết được. Vậy lại xin hiến anh một lời khuyên nữa: trước khi đâm Lê Phong, anh
nên xem trên ngực hắn có cái gì thì bỏ đi đã rồi hãy đâm.
Phong lấy ra một đệp giấy bản dầy ngót một gang
anh độn trong áo sơ-mi:
- Nếu không có cái này thì trong làng báo An Nam
hẳn đã bớt đi một phóng viên, và trong lương tâm anh có thêm một án mạng nữa.
Kể ra thì tôi không phải dùng cái mưu nguy hiểm ấy mới bắt được anh. Nhưng tôi
muốn báo Thời Thế ngày mai có một bức ảnh khác thường để kèm vào bài tường
thuật. Mấy khi một nhà báo được một thứ tài liệu hiếm có ấy: một bức ảnh chụp
giữa lúc hung thủ đương phạm tội ác! Thực anh là một người đáng cho tôi cám ơn.
Phong ngoảnh lại bảo người đeo mặt nạ trói hắn
lại, lấy khăn bông buộc chặc lấy mặt hắn, chỉ để lộ hai con mắt, rồi rút cái
còi trong túi ra thổi ba tiếng dài:
- Anh chịu khó một chút, buộc thế thì hơi khó
thở thực, nhưng anh không phải khó chịu lâu.
Nói vừa dứt lời thì cửa phòng bật mở, sáu, bảy
người cùng dồn vào. Phong tươi cười đưa mắt nhìn khắp một lượt:
- Không thiếu một ai đấy nhỉ: nhà liêm phóng,
nhà báo, nhà y sĩ, nhà sự chủ và cả nhà nghệ sĩ hát bài “Guitare d amour” bằng
cái giọng khàn khàn. Đến chứng kiến tấn bi kịch này, thực có cả một công chúng
hoàn toàn, đủ mọi hạng người trong xã hội.
Bỗng đổi ra vẻ đạo mạo, lấy giọng một người đăng
đàn diễn thuyết, Phong nói luôn:
- Thưa các ngài, trước hết xin giới thiệu với
các ngài một người rất đáng chú ý trong vụ án mạng vừa xảy ra đêm hôm qua, một
người sở liêm phóng đã giúp tôi tìm ra, một kẻ mang rất nhiều vẻ dị kì mà hai
ông Kỳ Phương và Mai Trung rất muốn gặp; một người bí mật người ta thấy tên họ
ở bên cạnh người bị giết thứ nhất cũng như người bị giết thứ hai; một người...
“xuất quỷ nhập thần” mà tôi hứa sẽ nộp trong tay hai ông bạn của tôi ở sở liêm
phóng. Người ấy, thưa các ngài, hiện đang ở trước mặt các ngài.
Mai Trung mở hết sức mắt nhìn người bị troí ở
cột giường, cau mày hỏi Phong:
- Xin ông nói vắn tắt cho. Nông An Tăng ở trong
phòng này phải không?
- Vâng, Nông An Tăng đang đợi lệnh của ông thanh
tra mật thám đấy ạ.
Trung chỉ người bị trói:
- Mà hắn ăn mặc giả làm tên đày tớ này?
Phong lắc đầu, mỉm cười. Cả Kỳ Phương cũng ngạc
nhiên. Hai người cùng hỏi:
- Thế nào? Ông bảo sao?
Phong đủng đỉnh thưa:
- Tôi không bảo sao hết. Tôi chỉ xin giới thiệu
với các ngài một người đắc lực cộng tác với tôi trong việc bắt hung thủ và cũng
như tôi, có một tật xấu đáng khoan thứ, là ưa làm cho người khác ngạc nhiên.
Người ấy là ông Nông An Tăng đây.
Người đeo mặt nạ liền bỏ cái mũ chùm đi và cúi
đầu mỉm cười.
- Thế nào? Tên Thổ này không phải là hung thủ
sao?
Phong nhã nhặn trả lời:
- Thưa ông Mai Trung, ông Nông An Tăng chưa hề
phạm một tội ác nào hết. Hung thủ là người chính tay Nông An Tăng trói lại để
chờ sự phán đoán của ông Mai Trung.
- Thế ra hung thủ lại là thằng này?
- Vâng. Chính thị.
- Hung thủ giết Đường ở 44 bis Richaud và giết
Thạc ở ngõ Hội Vũ?
- Vâng, hung thủ trong cả hai vụ án mạng, và gần
là hung thủ vụ án mạng thứ ba.
- Ông biết trước nó sẽ vào nhà thương đêm nay?
- Vâng.
- Vậy nó tên là gì?
Phong mỉm cười, thong thả lấy gói thuốc lá ra,
thong thả đánh diêm châm, thở một hơi khói lên trần nhà, rồi thản nhiên như ta
nói một lời bình thường, anh trả lời viên thanh tra mật thám:
- Thưa ông Mai Trung, hung thủ hai vụ án mạng,
người bị trói trước mặt các ngài đây, tên là Đinh Võ Thạc.