Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 01 - Phần 2
Reynie cười tủm tỉm. Cậu nhớ như in ngày đầu tiên cả lũ đến ngôi nhà này, cách đây cũng gần một năm rưỡi rồi. Hồi đó Kate cũng trườn qua một đường ống dẫn nhiệt. Cậu nhớ cô bé có kể cho cậu cách cô buộc cái giỏ vào chân và kéo nó đằng sau mình như thế nào. Cậu đã rất ngạc nhiên trước sự nhanh nhẹn của Kate cùng việc đi đâu cô cũng mang theo cái giỏ đỏ của mình. Nhưng giờ thì Reynie đã quá quen với những điều như thế; với cậu lúc này, chúng hết sức bình thường.
Ví dụ như cậu không hề giật mình khi thấy Kate trở về từ cuộc hành trình nhanh hơn cả thời gian nhiều người đi xuống tiền sảnh. Cô bé thò đầu qua đường ống với một cục nam châm hình móng ngựa - một trong số những món đồ hữu ích mà Kate luôn giữ trong chiếc giỏ của mình - và nhanh như cắt, nó được dựng đứng lên để chống vào khung cửa sổ.
“Nó sẽ đứng vững thôi,” Kate nói đầy vẻ hài lòng khi không khí mát lành tuyệt diệu ùa vào căn phòng, “nhưng để chắc chắn hơn...” cô bé lấy từ chiếc giỏ ra một sợi dây câu dài với một đầu được buộc vào nam châm, đầu còn lại cô buộc vào cổ tay mình. “Làm thế này để nếu nam châm có trượt ra, tớ sẽ không phải mất thời gian đi tìm nó nữa.’
Kate làm tất cả những việc này không đầy hai mươi giây. Ngay sau khi cô bé hoàn thành, cả lũ liền ngồi quây thành một vòng tròn. Bất cứ khi nào bốn đứa ở riêng với nhau, chúng lại có thói quen ngồi họp bàn như vậy. Lũ trẻ tự nhận mình là những thành viên Hội Benedict Thần bí, và cứ như vậy chúng đã tổ chức biết bao nhiêu cuộc họp - đôi khi diễn ra ngay trong những tình huống vô cùng khốc liệt.
“Vậy tên của đội cậu là gì?” Kate hỏi trong lúc vặn hai chân lại như bánh quy xoắn. “Sticky và tớ là đội Những bạn tù thắng cuộc!” Lời tuyên bố vừa đưa ra đã vấp phải những ánh mắt chằm chằm phản đối, cô bé nhăn mặt khó chịu. “Các cậu không hiểu à? Đó là trò chơi chữ mà - ngón chân cái của một người đàn ông béo tốt hay là... Chúng ta gọi đó là gì nhỉ, Sticky? Khi mà hai từ được ghép lại với nhau ấy?”
“Một từ ghép,” Sticky nói.
“Đúng vậy! Một từ ghép! Thấy chưa, đội chúng tớ có tên là Những bạn tù thắng cuộc bởi vì chúng tớ là bạn tù - giống như kiểu bạn ở chung trong tù ấy, hiểu không? - và chúng tớ thắng cuộc.” Kate nhìn tới nhìn lui vào Reynie và Constance để xem gương mặt họ có biểu cảm vui sướng nào không.
“Bọn chị tự đặt tên cho mình à?” Constance hỏi.
Bây giờ đến lượt Kate khó chịu. “Thế hai người không đặt tên à? Làm sao mà thành một đội được khi đội đó không có tên cơ chứ?”
Reynie lén đưa ánh mắt ngạc nhiên về phía Sticky, nhưng cậu chỉ biết nhún vai. Chẳng cần hỏi cũng biết vụ đặt tên này xuất phát từ ai rồi.
“Dù sao thì,” Kate nói, ném ánh mặt nghiêm nghị về phía Constance, “tất cả chúng ta đều có thể chiến thắng, các cậu biết đấy. Đơn giản là các cậu chỉ cần chọn đáp án A, và bọn tớ cũng thế.”
“Được rồi, được rồi,” Constance nói và buông ra một hơi thở rõ dài. “Quay trở lại phòng và giải quyết việc này cho dứt điểm đi.”
Sticky nheo mắt lại. “Và các cậu sẽ chọn phương án Achứ?”
Constance giả vờ nhìn ra cửa sổ.
“Tớ đã nghĩ đến điều đó rồi,” Sticky nói. “Nói xem nào, Constance, làm thế có ích gì cơ chứ? Nếu em cứ khăng khăng đòi làm theo cách đó, bọn anh cũng chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài phương án B. Và nhờ đó, tất cả tụi mình sẽ có thêm việc để làm đấy.”
“Nói với Constance chẳng ích gì đâu,” Reynie nói thẳng. “Kiểu gì thì con bé cũng sẽ sáng tác những bài thơ cáu bẳn thay vì làm bếp. Con bé có bao giờ lau dọn gì đâu.”
Constance gắt lên đầy tức tối, vì Reynie nói quá đúng.
Kate nhìn chằm chằm qua cửa sổ. “Tớ ước chúng mình là những tù nhân thực thụ. Nếu vậy, tụi mình có thể thôi tranh cãi đi và cố gắng thoát ra ngoài.
“Bọn mình là tù nhân thật còn gì,” Sticky nói bằng giọng ủ rũ, và một loạt âm thanh hưởng ứng hùa theo.
Lũ trẻ đều hiểu rằng không phải Sticky đang nói đến cuộc thử thách mà là tình cảnh chung của bọn chúng. Nhiều tháng nay, bọn trẻ và gia đình chúng đã trở thành khách của ngài Benedict - người đã tập hợp chúng lại với nhau, đồng thời là chủ nhân của ngôi nhà này. Mặc dù có lẽ hơi kỳ lạ một chút là việc trở thành khách của ngài Benedict - một người thông minh, tốt bụng - đáng lẽ phải thoải mái lắm, nhưng sự thật là họ chẳng được lựa chọn gì hết.
Ngài Benedict là người giám hộ cho một phát minh cực kỳ vĩ đại có tên là Máy Thì Thầm - cỗ máy nguy hiểm được một nhà phát minh cũng nguy hiểm không kém thèm muốn - Ledroptha Curtain - em trai song sinh của ngài Benedict. Và bởi vì lũ trẻ có mối quan hệ mật thiết với ngài Benedict nên người ta cho rằng chúng đang gặp nguy hiểm. Vì vậy, chính quyền đã yêu cầu lũ trẻ và gia đình chúng phải được canh phòng cẩn mật. (Thực ra, lệnh ban ra lúc đầu yêu cầu lũ trẻ phải tách nhau ra và được đưa đến những địa điểm bí mật - điều khiến chúng nản lòng nhất - nhưng ngài Benedict không cho phép chuyện đó xảy ra. Ông khẳng định ngôi nhà của ông sẽ được canh phòng cẩn mật và tất cả mọi người tới đó đều có chỗ ở đàng hoàng. Cuối cùng, chính quyền cũng phải miễn cưỡng nhượng bộ; khi cần, ngài Benedict quả là rất giỏi thuyết phục.)
Lũ trẻ hiểu rằng mọi phòng ngừa đó đều có lý do chính đáng. Lão Curtain rất xảo quyệt và tàn ác, ông ta có cả đám tay chân nguy hiểm phục vụ, vì thế, hiển nhiên là lũ trẻ và gia đình sẽ trở thành mục tiêu của chúng. Họ sẽ bị tóm cổ và trở thành con tin nếu không được bảo vệ nghiêm ngặt, vì lão Curtain sẽ không từ một thủ đoạn nào để giành lại quyền sở hữu Máy Thì Thầm của mình. (Chỉ cần nghĩ đến đó thôi mọi người đã kinh hoàng lắm rồi và lũ trẻ cũng không phải là ngoại lệ.) Tuy nhiên, sau nhiều tháng bị cấm đoán không được chơi bên ngoài một mình, hoặc không được phép đi bất kỳ đâu trong thị trấn, những thành viên trẻ tuổi của Hội đã bắt đầu cảm thấy bí bách.
“Tuy nhiên, nếu bọn mình đúng là tù nhân thực thụ,” Kate nói, “tớ có thể giúp cả lũ trốn khỏi đây trong tích tắc.”
“Qua cửa sổ á?” Reynie hỏi, đưa mắt nhìn theo ánh nhìn chằm chằm của cô bé. “Dây của cậu có đủ dài không
“Ừm, đoạn cuối sẽ phải nhảy một chút,” cô thừa nhận, và mấy đứa nhìn nhau đầy lo âu. Có thể Kate là người phán đoán khoảng cách khá chuẩn, nhưng định nghĩa về cái gọi là “nhảy một chút” của cô bạn khác xa so với định nghĩa của chúng.
“Tưởng tượng xem tớ sẽ bầm dập thế nào nếu bọn mình làm thế,” Sticky nói, “thế làm thế này được không?” Cậu chỉ tay ra phía cửa, nó bị khóa bên ngoài bằng một ổ khóa vân tay - nhưng bản lề lại ở bên trong. “Cậu có thể gỡ bản lề ra, đúng không? Dùng lực đòn bẩy, bọn mình có thể kéo cho phần cửa đó hé ra đủ để chui ra ngoài.”
“Đợi đã,” Constance thốt lên đầy kinh ngạc. “Ý anh là mấy tên Điều hành viên đã trốn khỏi đây dễ dàng đến thế sao? Chỉ cần tháo bản lề ra thôi á?”
Cô bé đang nói đến Jackson, Jillson, và Martina Crowe, ba kẻ độc ác đã từng ngược đãi bọn trẻ ngày trước (tất cả bọn chúng đều từng là cựu Điều hành viên của lão Curtain) và chắc chắn là chúng chưa có biểu hiện gì đáng tin cậy kể từ lúc bị bắt. Trong quá trình điều tra vụ việc liên quan đến lão Curtain, có đôi lần chúng được đưa đến ngôi nhà này để thẩm vấn. Bản thân bọn chúng không bộc lộ mối đe dọa rõ rệt nào - trông chúng chẳng giống những Gã Số Mười nham hiểm của lão Curtain chút nào - nhưng nhà cầm quyền, với ý thức cảnh giác cao độ đã khăng khăng yêu cầu phải lắp khóa vân tay ở cả hai phòng và mang hết tất cả mọi thứ có thể giúp chúng bỏ trốn ra ngoài.
“Hãy nhớ là những kẻ đó không giống Kate” Sticky đáp. “Chúng không mang theo công cụ bên mình - chúng không được phép làm thế, các cậu biết mà, thậm chí chúng có muốn cũng không được. Thêm nữa, ngay cả khi chúng tháo được bản lề ra, chúng cũng không thể qua mặt bảo vệ được.”
“Chà, em mong là chúng sẽ không bao giờ đến nữa,” Constance nói. “Em phát bệnh khi phải nhìn những khuôn mặt ngu ngốc và ác độc của chúng.”
Kate khịt mũi. “Em sẽ không gặp lại chúng nữa đâu, nếu em tránh mặt chúng theo đúng yêu cầu. Nhưng lúc nào em chẳng cố để lách luật, đúng không? Để xem em có thè lưỡi ra trước mặt chúng nữa
“Nếu chúng không ở đây,” Constance kiêu căng đáp, “em sẽ chẳng có hứng làm chuyện đó đâu.”
“Dù sao thì,” Kate vừa nói vừa đảo mắt láo liên, “quay trở lại câu hỏi của Simon, bọn mình có thể trèo qua cửa sổ, nhưng không được yên ắng lắm đâu - Rhonda chắc chắn sẽ nghe thấy chúng ta.” Cô bé vỗ mấy ngón tay vẻ đầy cân nhắc lên chiếc giỏ của mình. “Chị ấy không nói là mình có được trang bị vũ khí hay không à? Khi chị ấy giải thích bài thử thách ấy?”
“Không, nhưng Rhonda có nói chị ấy là người canh gác duy nhất,” Sticky nói. “Nhớ chưa? Constance đòi được nói chuyện với người canh gác khác - người có thể cho chúng ta những lựa chọn tốt hơn - Rhonda thở dài và nói rằng vì mục đích của bài thử thách này, chúng ta nên hiểu rằng chị ấy là người duy nhất.”
“Đó là một yêu cầu hoàn toàn hợp lý mà,” Constance phản đối khi thấy những người còn lại cười khúc khích nhớ lại vẻ bực tức của Rhonda.
“Tớ không nghĩ rằng chị ấy cần những người canh gác khác,” Reynie nói trong lúc vẫn đang cố nén cười. “Cuối cùng thì chúng mình cũng chẳng trốn được đâu mà. Ý tớ là, việc này không giống như kiểu chúng ta đang chuẩn bị tấn công chị Rhonda, đúng chưa? Và bọn mình thậm chí còn không thể bước chân ra khỏi ngôi nhà khi chưa được phép.”
Đúng lúc đó Constance nghển cổ lên, ngoái qua vai Reynie nhìn ra. “Ố ồ!” Cô bé làm động tác ra hiệu im lặng. “Chị ấy đến rồi kìa!”
Cả bọn nín thở. Khi Constance thông báo kiểu này, lúc nào cô bé cũng đúng. Quả không sai, chẳng bao lâu sau đã có tiếng bước chân vang lên bên ngoài cửa, sau đó là tiếng gõ cửa. “Constance? Reynie? Mọi chuyện trong đó ổn chứ? Các em đã quyết định chưa?”
“Bọn em cần thêm thời gian ạ!” Reynie nói vọng ra.
“Chắc chứ?” Trong giọng nói kiềm chế của Rhonda có dấu hiệu âu lo. Bọn trẻ nghe thấy tiếng khóa cửa xoay. “Các em có cần uống nước hay gì không?”
“Bọn em ổn cả mà!” Reynie kêu lên thật nhanh. “Thêm mấy phút nữa thôi ạ!”
“Tốt rồi, nhưng nhanh lên nhé,” Rhonda đáp và khóa cửa lại mà không bước vào. “Các em biết đấy, chúng ta còn có nhiều thử thách phải vượt qua mà.”
“Hú hồn hú vía,” Kate thì thào khi tiếng bước chân Rhonda nhỏ dần. “Tớ đã kịp nghĩ đến việc trốn đằng sau cánh cửa rồi đấy, nhưng cục nam châm của tớ sẽ làm bọn mình lộ tẩy mất.”
“Trừ tớ ra nhé, thậm chí tớ sẽ chẳng kịp đứng lên ấy chứ, nói gì đến chuyện trốn sau cánh cửa.” Sticky nói.
“Chắc chắn là cậu làm được,” Kate đáp lại. “Vì tớ sẽ giúp cậu mà.”
Sticky nhìn cô bạn chằm chằm vái ánh mắt hãi hùng. Hình ảnh cánh tay bị giật mạnh ra khỏi khuỷu tay vẫn còn hiện lên rõ mồn một trong tâm trí cậu.
“Và tớ đã định dùng sợi dây để giật cục nam châm về phía mình,” Kate thản nhiên nói (như thể hoàn thành tất cả những việc này trong khoảng thời gian một giây là điều mà ai cũng làm được vậy), “nhưng, tất nhiên, cửa sổ sẽ sập xuống, và điều đó chắc chắn không qua khỏi mắt của Rhonda. Vậy nên làm thế cũng chẳng ích gì.”
“Dù sao thì tất cả cũng đều vô ích,” Sticky nói rồi ấn cằm xuống lòng bàn tay. “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể thay đổi suy nghĩ của Constance được đâu. Tớ nghĩ là chúng ta chỉ cần phản bội nhau và chấp nhận hậu quả thôi.”
“Tớ nghĩ cậu nói đúng,” Kate đáp. “Chà, tớ cũng không ngại rửa bát lắm nếu hội con trai các cậu chịu khó lau khô...” Cô bé kéo dài từ cuối khi thấy Reynie nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ, lông mày nhíu lại. “Reynie, có chuyện gì thế?”
Lông mày Constance cũng nhíu lại. Nhưng là cô bé đang nhìn dò xét Reynie. “Không biết anh ấy đang nghĩ điều gì nhỉ?” Cô bé nói, khuôn mặt sáng bừ
Reynie lơ đãng liếc nhìn cô bé rồi lại nhìn ra phía cửa sổ. Cậu thường lơ đãng như vậy khi đang mải mê suy nghĩ điều gì đó. Cả Sticky và Kate cũng thế. Lúc này hai người họ đang nghiêng người về phía cậu đầy hứng khởi.
“Sao rồi?” Kate hỏi. “Có chuyện gì thế, Reynie? Cậu đang nghĩ gì vậy?”
“Phương án C,” Reynie đáp, và tặng cho họ một nụ cười ranh mãnh.
Vài phút sau, Rhonda Kazembe gõ cửa phòng, nhưng không thấy ai trả lời. Trong phòng có tiếng chuyển động ầm ĩ thật đáng ngờ. Cô gõ cửa lần nữa, và lần này nghe thấy một giọng thì thào vang lên “Nhanh lên!” và (thậm chí còn khó hiểu hơn) “Đừng nhìn xuống!” Những từ đó đủ khiến cô lật đật mở khóa cửa, nhất là khi giọng nói đó nghe giống giọng Kate. Làm thế nào mà Kate ở trong phòng này được cơ chứ? Khi mở khóa, Rhonda nghe thấy tiếng cửa sổ đóng sập xuống, và với sự cảnh giác cao độ, cô lao vào phòng. Miệng cô há hốc khi thấy căn phòng trống trơn.
Rhonda, cô gái duyên dáng với làn da màu ngăm đen và mái tóc thắt bím bóng mượt, vừa thông minh vừa hết sức xinh đẹp, ngay lập tức hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ở bức tường đối diện hiện ra miệng đường ống dẫn há toác, công tơ đã bị tháo ra. Điều đó cho thấy cách Kate đã đột nhập vào căn phòng này (và tất nhiên là cả Sticky nữa). “Ồ, phải rồi!” Cô mếu máo, lao ngay ra chỗ cửa sổ. “Không phải chúng đã làm thế đấy chứ!”
Cô đập mạnh vào cửa sổ để mở nó ra rồi ngó qua bậu cửa nhìn xuống. Không thấy tăm hơi lũ trẻ đâu. Cô ngước lên nhìn mái hiên nhưng cũng không thấy gì.
Vừa cảm thấy nhẹ nhõm bao nhiêu thì giờ lại băn khoăn bấy nhiêu, Rhonda cau mày khi hạ cửa sổ xuống. Vậy chẳng lẽ chúng chui qua đường ống dẫn nhiệt ư? Nhưng cụm từ cảnh báo (“Đừng nhìn xuống!”) và tiếng cửa sổ sập xuống đã khiến cô tin rằng...
Rhonda nhắm mắt lại. Cánh cửa. Chúng đã nấp sau cánh cửa.
Thậm chí trước cả khi quay người lại, Rhonda đã biết cô sắp sửa nhìn thấy điều gì. Hẳn rồi, chúng ở sau khi đã bò ra khỏi phòng và bây giờ đang đứng ở sảnh. Reynie và Sticky đang cười ngoác miệng và vẫy vẫy tay; Constance, như một cô công chúa nhỏ mũm mĩm, vênh mặt lên thể hiện sự tự mãn; và Kate đang đứng tựa lưng vào ô cửa, một tay đặt trên núm xoay, một tay nắm chặt chiếc nam châm hình móng ngựa với một nhúm dây nhợ nhằng nhịt. Với một cái nháy mắt và nụ cười nửa như hối lỗi, cô bé kéo cánh cửa đóng lại. Ổ khóa vang lên một tiếng tách.
Rhonda nhìn chằm chằm vào ổ khóa mất một lúc, rồi chầm chậm lắc đầu, sau đó, bắt đầu vỗ tay và bật cười.