Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 05 - Phần 1

ĐIỀU CÓ THỂ LĨNH HỘI ĐƯỢC

Ngay sau khi lũ trẻ học xong (riêng Constance thì lảng tránh chúng), bọn chúng liền chạy lên lầu. Suốt cả buổi chiều, cuộn giấy đáng khiêu khích đó cứ thập thò trong túi áo cô Số Hai, nhưng cuối cùng thì lũ trẻ cũng được sở hữu nó. Chúng có cả tiếng đồng hồ để xử lý câu đố trước khi bữa ăn đêm bắt đầu.

Treo áo khoác vào móc, Kate mở cửa sổ (phòng của cô bé ở trên tầng ba nóng và rất bí), sau đó thu dọn hết đống áo khoác của đám bạn và treo chúng vào tủ quần áo. Đây là căn phòng gọn gàng nhất trong ngôi nhà - chẳng khó để biết ai ở trong căn phòng đó - ngay cả Constance luộm thuộm là thế cũng phải tuân theo tính cẩn thận của cô bạn cùng phòng. Kate không bao giờ để giày dép lộn xộn hay quên không đậy nắp lọ keo con voi. Vì vậy, căn phòng của cô bé - với tấm thảm sạch sẽ không tì vết - luôn luôn là nơi diễn ra cuộc họp của Hội.

Thấy Kate đã ngồi sụp xuống, Constance thúc giục. “Nhanh nhanh lên, Kate. Lúc nào chị cũng bắt bọn em phải chờ thế!”

“Chị biết rồi, đừng có nhặng xị lên thế,” Kate hờ hững đáp lời, cô bé làm một cú lộn nhào lên tấm thảm bên cạnh Constance khi Reynie và Sticky đã ngồi phía bên kia.

Reynie mở cuộn giấy ra. “Ok,” cậu nói trong lúc liếc mắt nhìn lũ bạn, và sau một thoáng chần chừ đầy căng thẳng, cậu bắt đầu đọc to:

Câu trả lời cho câu đố này có một cái hố ở giữa

Và có một số người đã ngã

Trong trò tennis, nó không là gì cả, nhưng nó có thể được nhận,

Và đôi khi một người có thể giành được nó.

Mặc dù ta không nhìn hay nghe được nó nhưng ta có thể hiểu nó,

Nó sống an nhàn như hoàng tử hay những chú ong.

Câu trả lời cho câu đố này có một cái hố ở giữa,

Và nếu không có nó, người ta không thể bắt đầu.

“Đó là một cái bẫy,” Sticky gào lên đầy hứng khởi đến nỗi Reynie giật hết cả mình, một phần chúng sợ sẽ gặp phải một trong số những Gã Số Mười đang liếc mắt nhìn vào từ lối đi, còn Kate túm lấy cái giỏ và phi ra cửa sổ.

Sticky e dè nhìn ngó xung quanh, tim đập thình thịch. “Sao thế? Có chuyện gì thế?”

Kate vẫn nhìn chăm chú xuống sân, nơi ông Bane đang ngồi trên chiếc ghế dài cắn hạt hướng dương. “Theo như tớ nắm bắt được thì bên ngoài an toàn. Constance, có ai ở sảnh không?”

“Không, em nghĩ là không,” Constance đáp, giọng run run.

“Sao cậu lại nghĩ đó là một cái bẫy?” Kate vừa đi vòng quanh hỏi vừa nhìn Sticky đầy nghiêm trọng. “Bẫy kiểu như thế nào?”

Sticky chớp mắt bối rối. Cậu quay sang Reynie, người vừa mới lấy tay che mặt. Lúc đầu Sticky nghĩ Reynie đang khóc - hai vai cậu rung lên - nhưng sau đó Reynie ngả ra phía sau cười khoái trí mãi không dứt.

“Có gì buồn cười thế?” Sticky hỏi. Sau đó hai mắt cậu mở to. “Hượm đã, các cậu nghĩ rằng tớ muốn nói đến… một cái...”

Quai hàm Kate hạ xuống. “Và cậu nghĩ rằng chúng tớ... ý cậu là cậu không nhận ra...”

Trong phút chốc cả lũ đã lăn lộn trên sàn nhà, chỉ trừ Constance chẳng thấy gì buồn cười về việc sợ quá đến nỗi mất đi sự nhanh trí cả. “Sticky ạ, về việc hét lên điều gì đó ấy mà,” cô bé phàn nàn trong lúc những người còn lại đang rên rỉ và cười như nắc nẻ, “anh không thể hét lên những chuyện như thế được! Chúng ta đã chứng kiến quá nhiều bẫy thật rồi!” Nhưng mấy đứa kia mải cười quá đến nỗi chẳng thèm để ý. (Và chúng cứ cười như thế mãi, vì sau cơn hoảng sợ đó, tiếng cười có tác dụng làm giảm căng thẳng.)

Tuy nhiên, cuối cùng cũng xuất hiện những tiếng thở dài run run và những tiếng cười khúc khích sau trận cười sặc sụa chứng tỏ chúng đã dần lấy lại tinh thần. Kate buộc lại bím tóc đuôi ngựa, Sticky chỉnh lại kính, và Reynie vuốt lại cuộn giấy nhàu nát trong tay. Phớt lờ ánh mắt hằm hằm của Constance, chúng quay trở lại câu đố.

Kate nói, “tớ không nghĩ ‘bẫy’ là đáp án, Sticky ạ. Nó chỉ phù hợp với một số dữ kiện ở đây chứ không phải là tất cả.”

“Không, giờ thì tớ hiểu rồi,” Sticky thừa nhận. “Tớ chỉ hào hứng khi nó đột nhiên nảy ra thôi, bởi vì cậu có thể sa đà vào đó, cậu biết đấy, và phần nói về cỏ ba lá nhắc cho tớ nhớ đến những cái bẫy rèm cửa làm bằng cỏ dại ở Học viện.”

“Vậy cậu nghĩ điều đó có nghĩa là gì?” Kate hỏi. “Mối quan hệ giữa hoàng tử và cỏ ba lá ý?”

“Đó là nói một cách hình tượng,” Sticky nói. “Ý nói “trong cỏ ba lá” có nghĩa là sống sung túc - như một hoàng tử ấy. Cậu có nghĩ là đáp án có liên quan đến tiền bạc không?”

Kate bật các ngón tay tanh tách. “Có lẽ S.Q. có một kho báu bí mật! Hay tài sản thừa kế hoặc một kiểu kho báu nào đó mà lão Curtain muốn được sờ vào. Điều đó giải thích tại sao ông ta lại giữ S.Q. bên mình, đúng không? Lại còn cho anh ta thêm thời gian làm việc với Máy Thì Thầm nữa?

“Cậu có thể nói một người “kiếm chác” được tiền nếu món tiền đó đến với họ đột ngột,” Sticky mơ màng, “trong trường hợp đó thì nó được ‘nhận’…”

“Và ta có thể giành được nó!” Constance buột miệng (trong lúc hào hứng cô bé đã quên mất rằng mình phải tỏ ra hờn dỗi.)

“Này, lão Curtain còn phải cần tiền để bắt đầu!” Kate nói. “Sau khi trở thành kẻ chạy trốn, ông ta nhất định phải tìm ra cách kiếm tiền, chuẩn chưa? Đó là lý do tại sao ông ta cùng Pressius thực hiện mưu đồ đen tối cướp kim cương.”

Trong một thoáng, sự hào hứng của lũ trẻ tụt hẳn xuống khi nghĩ đến Pressius, một doanh nhân giàu có với những hành động lừa đảo gần đây đã tiếp tay làm giàu cho lão Curtain - tuy nhiên ông ta biết cách luồn lách pháp luật để tránh những rắc rối do việc làm sai trái của mình gây ra. Tuy chưa bao giờ thực sự tiếp xúc với Pressius, nhưng chúng đã phải chịu đựng ông ta khá nhiều và chẳng mấy thiện cảm với ông ta cả.

Sticky đưa tay lên đẩy gọng kính, rồi lại đan tay ra sau đầu. “Có một vấn đề với ‘tiền bạc’,” cậu nói tỏ vẻ bí ẩn. “Ta có thể nhìn thấy nó, đúng không? Và đôi khi nghe thấy nó nữa - một hộp vàng có thể kêu leng keng.”

“Chuẩn, nhưng nếu như đáp án không phải là ‘tiền’ mà là ‘sự sung túc’ thì sao?” Constance gợi ý. “Ta có thể hiểu được sự sung túc là như thế nào nếu một người có xe và nhà đắt đỏ, mà không thực sự nhìn và nghe thấy nó.”

“Này, tớ nghĩ cái đó đúng đấy!” Kate nói. “Bây giờ bọn mình chỉ còn phải giải thích chỗ ‘có hố ở giữa’.” Cô bé quay qua Reynie, thường thì đến lúc này cậu đã đưa ra một gợi ý nào rồi - hoặc là một đáp án - nhưng Reynie chỉ làm ra vẻ trầm ngâm và chẳng nói gì.

“Cái hố không phải là thứ duy nhất,” Sticky nói. “Còn cả đoạn nói về tennis nữa. Và tớ cho rằng chúng ta nên cân nhắc tại sao lại có bầy ong sống sung túc chứ không phải chỉ có hoàng tử.”

Kate khịt mũi. “Nhiều lúc cậu làm tớ Sticky ạ! Cậu biết đủ thứ trên đời mà lại không biết tại sao ong thích cỏ ba lá à?”

“Tớ nghĩ điều Sticky muốn nói,” Reynie xen vào, “là phải có lý do nào đấy thì ong mới được nói đến ở đây.” Với sự lưỡng lự gây tò mò, như thể là cậu đang chờ những người còn lại lên tiếng, cậu nói thêm, “Phán đoán của tớ là điều đó nói lên rằng có nhiều hơn một cách để sống sung túc.”

“Có những cách nào khác mới được chứ?” Kate hỏi, nhưng Reynie chỉ nhún vai, và chờ tới khi không ai xung phong trả lời nữa, cô bé mới nói, “Chà, ít ra thì ong không tự động ngăn cản sự giàu có. Và tớ cũng không nghĩ tennis có thể làm thế.”

“Chúng ta bỏ qua phần đó đi không được sao?” Constance hỏi đầy hy vọng. “ ‘Trong tennis nó không là gì cả’, đúng không nào? Em cá rằng nó có mặt ở đó là để cho vần vè thôi, và tạo cơ sở cho đoạn nói về ‘nhận được’ và ‘giành được’ nữa. Em là một thi nhân mà, em có kinh nghiệm mấy chuyện này lắm!”

“Từ từ đã,” Sticky nói, mắt sáng lên. “Trong trò tennis có sử dụng lưới - và lưới thì có lỗ.”

“Ta cũng có thể rơi vào một cái lưới nữa,” Kate suy tư. “Hồi còn ở rạp xiếc tớ bị thế suốt... nhưng phần còn lại thì có vẻ như không được phù hợp cho lắm thì phải. Thế còn về ‘dịch vụ’ thì sao nhỉ? Trong trò tennis ta nhận được một cú giao bóng - và bạn có thể giành được nó nữa! Có lẽ lão Curtain giữ S.Q. bên mình vì ông ta muốn có một người phục vụ. Đó là vai trò thực sự của S.Q., các cậu biết đấy - anh ta luôn có mặt bất cứ khi nào lão Curtain cần.”

Mấy đứa còn lại ngẫm nghĩ. Lúc đầu đáp án có vẻ hoàn hảo, nhưng một vấn đề thường xảy ra với các câu đố là những đáp án sai bao giờ cũng có vẻ hợp lý ngay từ đầu, chỉ đến khi rà soát lại thật kỹ thì chúng ta mới nhận ra chúng không khớp. Ý kiến của Sticky và Kate đều mắc lỗi như vậy. “Dịch vụ” nghe có vẻ hợp lý, nhưng cuối cùng chúng đều nhận ra đó không phải đáp án đúng. Và chúng cứ lặp đi lặp lại như thế một lúc lâu, thử hết phương án này sang phương án khác mà chẳng thấy cái nào phù hợp.

“Em bỏ cuộc,” cuối cùng Constance lên tiếng. “Em nghĩ đó phải là ‘sự sung túc’. Có thể chúng ta không hiểu tại sao ong lại xuất hiện ở đây, hay cái hố ở giữa là hố gì, nhưng mà ‘sự sung túc’ vẫn có vẻ là đáp án đúng nhất.”

Kate thở dài và duỗi chân, “Ừm, bọn mình cứ quanh quẩn như thế này gần một tiếng đồng hồ rồi. Ít ra thì bọn mình có thể bàn về chuyện khác rồi quay lại câu đố sau.”

“Chúng ta không phải quay trở lại câu đố nữa,” Constance tức tối phản đối. “ ‘Sung túc’ hẳn là đáp án rồi!”

Kate quay qua Reynie. “Nào, Reynie, cậu nói gì đi chứ? Tớ không nghĩ là mình đã từng nhìn thấy cậu yên lặng như thế khi chúng ta thảo luận về vấn đề nào đó.”

“Ê, đúng rồi đấy,” Sticky nói, cậu vẫn còn đang mải mê tập trung cao độ vào câu đố đến nỗi không để ý thấy sự yên lặng của Reynie. “Đúng ra là tớ hơi ngạc nhiên khi thấy đến bây giờ cậu còn chưa giải được nó đấy.”

Reynie tỏ vẻ ngạc nhiên. “Nhưng tớ giải được nó rồi mà.”

Những đứa còn lại nhìn cậu chằm chằm.

“Tha lỗi cho tớ nếu tớ để lỡ điều gì đó,” Kate nói sau một thoáng ngừng lại, “nhưng, ừm, cậu có định nói cho chúng tớ không thế?”

“Cậu đang đùa à?” Reynie đáp. “Các cậu đã bảo tớ không được nói mà!”

“Tớ bảo ư?”

Reynie ngẩng đầu lên. “Chà, Constance bảo thế, cậu và Sticky cũng không tranh luận gì thêm, nên tớ cho là hai người đã đồng ý rồi.”

“Tất cả những chuyện này xảy ra hồi nào vậy?” Sticky vừa hỏi vừa lo lắng nhìn sang Kate.

“Khi tớ mở tờ giấy ra ấy!” Reynie than vãn. “Constance nói, ‘Em biết anh có thể giải được câu đố này, Reynie ạ, nhưng em muốn bọn em tự giải quyết nó một lần.’ Thế là tớ nói, ‘OK,’ và sau đó tớ đọc to câu đố lên, nhớ không?”

“Cậu có nói ‘OK’,” Sticky nhớ lại. “Tớ nghĩ là bọn tớ không nghe thấy Constance nói.”

“Vì em có nói gì đâu,” Constance đáp.

Kate đảo mắt. “Chà, hoặc là em nói dối hoặc là Reynie, và nếu chị phải...”

“Em đã nghĩ thế,” Constance nói, có vẻ bối rối.

“Em... em sao cơ?”

“Em không nói ra điều mà Reynie nói là em nói… Em chỉ nghĩ trong đầu thôi.”

Trong lúc yên lặng, Reynie ngả người ra đằng sau và ngẩng mặt lên nhìn trần nhà.

Sau đó Kate thì thầm, “Ôi giời ạ.”

“Vậy là bây giờ Reynie có thể đọc được suy nghĩ nữa à?” Sticky hỏi.

“Tớ không đọc được suy nghĩ của ai ngoại trừ tớ ra cả,” Reynie nói. “Constance chỉ truyền ý nghĩ của mình vào đó thôi.”

“Xin lỗi,” Constance lầm bầm. “Em không có ý đó, anh biết mà.” Rõ ràng là cô bé đang nói thật, nhưng lời nói của cô còn có chút dấu hiệu tinh quái, như thể đây là lần đầu tiên cô bé đã nhận ra năng lực của mình có thể làm được những gì.

Sau đó lại thêm một khoảng lặng thật lâu nữa, và rồi khá lưỡng lự, Kate nói, “Ok, tớ nhận thấy chuyện đọc được suy nghĩ này, hay các cậu muốn gọi việc mà Constance làm là...”

“Thần giao cách cảm,” Sticky nói bằng giọng tôn kính.

“Đúng rồi, thần giao cách cảm,” Kate nhắc nhận ra rằng đó là một vấn đề lớn. Nhưng, ừm, có ai thấy phiền nếu tớ dành vài giây để hỏi Reynie, rất nhanh thôi... Ý tớ là, tớ xin lỗi, nhưng nếu tớ mà không biết thì tớ sẽ phát điên lên mất...”

“Tình yêu,” Reynie nói trong lúc xoay mắt sang nhìn cô bé. “Đáp án cho câu đố chính là ‘tình yêu’.”

Kate thở dài nhẹ nhõm. ‘“Tình yêu,” cô bé nhắc lại, ngoác miệng cười. “Chà, thế thì sao nhỉ! Tớ băn khoăn không biết…” Kate ngừng lại, chợt nhớ ra. “Chúng ta có thể bàn về nó sau, tất nhiên rồi. Ơ, dù sao thì, cảm ơn cậu, Reynie.”

“Không có gì,” Reynie vừa nói vừa tiếp tục nhìn chằm chằm lên mái nhà.

“Trong này nóng nhỉ?” Constance hỏi vào ngày hôm sau. Cô bé đang ngồi bên bàn ăn cùng những đứa trẻ khác, hai trong số chúng đang ăn bánh nướng và kem với sự thỏa mãn tột độ.

“Thế à? Anh không để ý,” Sticky cáu kỉnh đáp. Cậu quay lưng về phía Reynie và Kate, hai người này mỉm cười với nhau rồi tiếp tục ăn. “Hãy tập trung giải quyết chuyện này đi, được chứ? Càng xong sớm, em càng sớm được thưởng.”

“Và Sticky cũng được thưởng nữa,” Kate rì rầm, giống như Reynie, cô bé đã hút một ống nước đầy và không để thừa tí nào.

Lúc đó là ngay sau bữa trưa, trong khi người lớn đã giải tán, thì lũ trẻ vẫn đang hứng thú tham gia vào một bài thử thách mà những đứa lớn hơn chỉ lưỡng lự xung phong. Trong động thái nhằm kích thích Constance, ngài Benedict đã nhờ Milligan mang về nhà gần năm lít kem và nhờ anh Moocho Brazos nướng một loại bánh trứ danh của mình. Không những vậy (đây chính là phần khiến bọn trẻ ngần ngại), ngài còn bắt những đứa lớn hơn phải nghĩ đến một kỷ niệm đáng xấu hổ nào đó - một kỷ niệm mà Constance rất thích thú phát hiện ra - và cho cô bé con một cơ hội để moi móc được bí mật đó.

Việc Constance hào hứng tham gia thử thách khiến những đứa khác run bắn cả người - chẳng cần nói cũng biết chúng sẽ xấu hổ như thế nào khi sớm bị đưa vào những bài thơ vần vè, mà có lẽ đến đời con cháu sau này vẫn còn cười mãi. Nhưng chúng còn thấy đáng sợ hơn khi nhận ra khả năng đó đang ngày một phát triển ở Constance (dựa trên những gì xảy ra với Reynie hôm qua), nên chúng cam tâm tình nguyện, cố gắng nghĩ đến những chuyện chỉ hơi xí hổ một tí chứ không đến nỗi bẽ mặt lắm.

“Nói thật đi, anh không nghĩ là trời nóng à?” Constance nói, lần này to tiếng hơn với cái liếc mắt về phía Reynie. “Có lẽ chỉ em mới thấy thế. Em nghĩ em mà không hạ nhiệt thì chắc em ngất ra đây mất.”

Reynie vẫy vẫy cái thìa. “Bỏ đi, Constance. Em không được ăn kem của anh đâu.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3