Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 12 - Phần 1

LỐI ĐI NGUY HIỂM VÀ TẮC NGHẼN GIAO THÔNG

Reynie và Sticky dừng lại ở cuối đường hầm để lấy hơi, sau đó lấy hơi lần nữa khi chúng đến gần đầu cầu thang tối om, xoắn ốc và dường như dài vô tận. Nhưng khi đã lên đến phòng chờ trên tầng bảy của tòa nhà Thầy Tu thì không được thở hổn hển hay khò khè nữa. Dù biết rõ trong hoàn cảnh này, thật khó để điều hòa hơi thở hay giữ cho nhịp tim bớt đập thình thịch, nhưng Reynie vẫn tiếp tục. Cậu nhẩm đếm thời gian suốt mười lăm phút, đúng hơn là gần mười lăm phút qua. Những Gã Số Mười chắc là chưa đến, điều đó có nghĩa là Kate sẽ có cơ hội tìm kiếm trong văn phòng. Vậy thì tại sao các cậu không gặp cô bé chạy xuống lối đi? Cậu sợ là mình biết câu trả lời, và một phút sau Kate đã xác nhận câu trả lời đó.

“Tớ đã đi lòng vòng để kiểm tra,” cô bé thì thầm khi hai cậu xuất hiện ở đầu cầu thang. Cô quỳ sát bức tường phía bên kia phòng chờ để nhòm vào lỗ nhìn trộm. Cô cũng không quên úp đầu sáng của chiếc đèn pin xuống đất, chỉ để một làn ánh sáng mờ bao quanh viền của nó. Kate túm lấy chiếc đèn pin. “Đừng lo, tớ chỉ bật nó lên để soi cho hai cậu thôi. Tớ sẽ tắt nó đi khi chúng đế

“Khi chúng đến ư?” Sticky thở ra. “Cậu có mất trí không đấy? Cậu đã tìm trong văn phòng chưa?”

“Chẳng có gì ở đó hết. Chẳng có gì cả. Các tủ đựng tài liệu trống trơn, ngăn kéo bàn làm việc trống trơn. Hoặc là chúng để đấy để tượng trưng thôi. Hoặc là những Gã Số Mười đã đến đây từ trước và lấy đi mọi thứ, nhưng nơi này không có vẻ như vừa bị càn quét - chỉ là trống trơn thôi. Tớ muốn nghe điều chúng nói khi chúng phát hiện ra chuyện đó.”

“Nhưng... nhưng…,” Sticky lắp bắp, cố tìm cách để thuyết phục Kate. Những Gã Số Mười có lẽ đã ở trong tòa nhà rồi! Có lẽ chúng đang đi bằng cầu thang chính lên đây rồi! “Bức tường đó không dày lắm,” cuối cùng cậu cũng nói ra. “Cậu nhận thấy điều đó mà, đúng không? Nếu chúng biết chúng ta ở đây, chúng sẽ phá vỡ bức tường ra đấy.”

“Ồ, chắc chắn rồi,” Kate tán thành. “Vậy thì cậu nên bình tĩnh lại. Chúng sẽ đến đây bất cứ lúc nào.”

Reynie nhanh chóng liếc nhìn xung quanh để xác định phương hướng trước khi Kate tắt đèn pin. Miễn là cậu tránh được cầu thang, cậu sẽ không bị vấp hay lao bổ vào thứ gì cả vì sàn nhà trống trơn. Cả phòng chờ cũng thế, trừ các loại quần áo, tóc giả và mũ nón treo trên tường (đây là những đồ để cải trang khi người lớn ra ngoài trong những ngày làm việc vặt) và một cái đòn bẩy gần chỗ Kate đứng dùng để mở lối đi bí mật ra văn phòng.

“Đừng va vào đó,” Reynie tự nhắc mình khi cậu quỳ xuống cạnh một trong những lỗ nhìn trộm. “Dù có làm gì thì cũng không được va vào đó!”

Sticky chắc cũng đang nghĩ y như vậy; cậu xoay người quanh cái đòn bẩy như thể nó là một con rắn mang bành vậy, rồi chọn lỗ nhìn trộm cuối cùng để quan sát. Đột nhiên, Kate tắt đèn pin, và mọi thứ bỗng tối đen như mực.

Trong bóng tối, âm thanh của những bước chân vang lên.

Theo sau tiếng bước chân là một tiếng càu nhàu, rồi giọng thì thầm của một người đàn ông. “Phòng này không được đánh số đâu. Nhưng có lẽ nó là 7-B.”

“Mở ra đi,” một tên khác nói, giọng trầm hơn.

Hé mắt nhìn qua cái lỗ bé tí, Reynie nhìn thấy một làn ánh sáng màu đỏ trong bóng tối, như một cục sắt nóng trong lò nướng vậy. Cậu nhận ra đó chính là ô khóa. Một Gã Số Mười đã chiếu tia laser vào đó. Ánh sáng mờ đi nhanh y như khi nó sáng lên vậy, Reynie nghe thấy tiếng nắm đấm xoay, và với một cú đấm, cánh cửa văn phòng mở ra. Ánh đèn pin quét xung quanh căn phòng. Theo bản năng, Reynie lùi lại, ghé mắt vào cái lỗ theo dõi lần nữa và thấy hai người đàn ông. Một trong số chúng chắc hẳn là McCracken - thủ lĩnh của những Gã Số Mười, và là kẻ khủng khiếp nhất với dáng người khổng lồ và mái tóc cắt tỉa bóng lộn màu nâu.

McCracken điều chỉnh lại đèn pin và đặt nó lên chiếc bàn trống không. Chiếc đèn tỏa sáng y như một cái đèn lồng vậy. Nheo đôi mắt tinh ranh lại, hắn chầm chậm xoay cổ hết phải sang trái để quan sát căn phòng. Bên cạnh hắn, một Gã Số Mười khác - một gã đeo kính quen thuộc tên là Sharpe - cũng hành động như vậy, với vẻ mặt và cử chỉ giống hệt. Hai gã đàn ông đó trông giống những con robot mà bạn thường thấy trên các chuyến xe trong công viên giải trí một cách lạ lùng.

Tiếp đến, hai gã lại đặt vali xuống cùng lúc.

“Không hứa hẹn nhiều lắm,” Sharpe nhận định.

“Dù sao thì tao cũng chẳng bao giờ tin những lời hứa hẹn,” McCracken nói với giọng điệu vô cảm quen thuộc.

“Rõ ràng là nó không được sử dụng. Tại sao ngài Benedict lại giữ nó nhỉ?”

“Có lẽ ông ta chưa tìm được ai giúp đỡ mình. Với những kẻ làm việc không công thì thời gian rất khó khăn, Sharpe thân mến ạ. Thực ra, trước đây Benedict đã từng có một vài văn phòng ở đây, nhưng bây giờ ông ta rút xuống chỉ còn một phòng này thôi. Dù sao thì việc đó cũng giúp chúng ta đỡ tốn công tìm kiếm - và nếu có tìm thì cũng chỉ là hình thức thôi.”

Nói “chúng ta” nghĩa là McCracken ám chỉ Sharpe - kẻ đang hồ hởi giật mạnh những ngăn kéo đựng hồ sơ ra. Khi hắn làm thế, Reynie cũng tranh thủ quan sát văn phòng và băn khoăn không biết Kate có để lỡ thứ gì không. Tất nhiên là cậu không lạ gì căn phòng vì 7-B đã từng là phòng thử nghiệm của ngài Benedict. Cậu vẫn còn nhớ như in hồi cậu và Sticky cùng nhìn trộm qua những cái lỗ này - hồi đấy hai đứa mới gặp nhau thôi - vì Kate cũng vừa mới vượt qua một thử thách giống hai cậu trước đó. Hồi đó sàn nhà được sơn hình kẻ ca rô, và lối vào bí mật trước đây là một cánh cửa thông thường. Giờ đây 7-B trông giống hệt như những văn phòng đơn điệu trong tòa nhà Thầy Tu, với một cái bàn, các tủ tài liệu, giá sách, một thùng đựng giấy lộn và một cây bonsai trồng trong chậu - song trước đây nó tươi tốt hơn rất nhiều. Reynie thấy trong chẳng có gì quan trọng cả.

Sharpe cũng thấy thế, tuy nhiên trông hắn có vẻ thích thú với trò tìm kiếm. Hắn vui vẻ dựng cái bàn lên, tung các ngăn kéo khắp nơi, xé toạc các bức tranh trên tường và đâm thủng chúng. Hắn nhấc bổng cây bonsai lên khiến những chiếc lá cuối cùng của nó rơi lả tả xuống sàn nhà như những bông hoa giấy thảm thương. Sau đó hắn lấy một mảnh vải trong vali ra và đánh đôi giày đen bóng lộn của mình. “Khi nào những đứa khác mới đến?” Hắn nói và thở mạnh.

McCracken nhìn chiếc đồng hồ lớn bằng bạc của mình. Sau đó hắn xem một cái khác. “Crawlings và Garrotte sẽ đến trong hai phút nữa. Những đứa khác tất nhiên là đang ở sẵn các vị trí rồi.”

“Tao ghét phải chờ đợi,” Sharpe nói. “Chúng ta có thể làm theo chỉ dẫn ngay bây giờ được không? Làm thế sẽ tiết kiệm thời gian hơn chứ!”

McCracken cười to. “Sharpe, mày đúng là một thằng đầu đất! Cả lũ phải có mặt ở đây, nếu không con số sẽ không xuất hiện chính xác. Mày có muốn làm theo chỉ dẫn sai không? Mày có nghĩ, ông chủ Curtain sẽ hài lòng không?”

Sharpe gõ gõ ngón tay vào thái dương như thể đang suy tính lại. “Đại ca nói đúng lắm, nếu đại ca đã nói thế thì em nghĩ là chúng ta nên chờ.”

Hai phút rưỡi sau, Crawlings và Garrotte lao vào phòng.

“Chúng mày đến muộn,” McCracken nói.

“Xin lỗi đại ca,” Crawlings đáp. “Bọn em cứ nghĩ bọn em sẽ nhìn thấy một đứa, nhưng không có ai

“Nhìn từ mái nhà cũng không có dấu hiệu gì à?”

“Không anh ạ.”

“Tốt lắm,” McCracken nói. “Đọc số của bọn mình thôi, bắt đầu với Crawlings trước nào.”

Mỗi Gã Số Mười đọc một số lên. McCracken gật đầu. “Tổng lẻ. Nghĩa là mày đấy, Garrotte.”

Garrotte thò tay vào túi áo khoác, lấy ra một phong bì dán kín đưa cho McCracken. Gã liền rút ra một con dao rọc thư trông rất lạ rồi cắt phong bì, rút lá thư ra và vứt phong bì đi. Nghĩ thế nào, hắn lại nhặt cái phong bì từ sàn nhà lên và cắt nó ra làm hai - thậm chí hắn còn chẳng thèm nhìn nó viết cái gì nữa.

“Đọc to lên đi,” Reynie van nài trong đầu. “Đọc to lên đi!”

Nhưng McCracken chỉ nói, “À,” rồi đưa lá thư cho những Gã Số Mười khác đọc.

“Tuyệt vời!” Crawlings - kẻ cuối cùng được đọc nói lớn. Hắn vò vụn lá thư và ném nó vào thùng giấy lộn. “Vậy là chúng ta sẽ có dư thời gian để uống cà phê và ăn bánh nướng. Không biết bọn mày thế nào chứ tao đói rã họng ra rồi.”

“Gác cái đó lại đi,” McCracken nói. “Phải tìm con ranh ấy thêm lần nữa đã. Phấn chấn lên anh bạn - nếu lần này chúng ta không tìm được nó, chúng ta sẽ dàn dựng một vụ theo dõi trong khu này, và lúc đó chúng mày sẽ tha hồ mà ngồi ăn.”

Sharpe tràn trề hy vọng nói: “Mày có nghĩ con bé sẽ xuất hiện trước khi bọn mình phải đi không? Tao rất thích tiền thưởng thêm! Nhưng tất nhiên là chúng ta không thể để lỡ cuộc hẹn rồi.”

“Nếu may mắn con bé sẽ khóc lóc chạy về nhà Benedict trước lúc đó,” McCracken nói.

“Nếu thực sự may mắn, chúng ta sẽ lần ra nó ngay bây giờ!” Crawlings vừa hài hước nói, vừa giả vờ làm điệu bộ uống một cốc cà phê rồi xoa bụng. Trong khi những tên còn lại cười khùng khục.

“Về chuyện đó,” McCracken nói, “tao có mấy ý tưởng mới. Ra hiệu cho những thằng khác và đi thôi.”

Những Gã Số Mười nối đuôi nhau đi ra, để lại văn phòng chìm trong bóng tối. Các điệp viên nhí không dám thì thào nửa câu, chỉ lắng tai nghe tiếng bước chân của chúng xa dần rồi tắt hẳn. Mãi một lúc lâu sau Reynie vẫn căng tai ra nghe, và khi cậu đang định bật đèn pin của mình lên thì Kate đã bật đèn của cô ấy.

“Các cậu có thấy không?” Reynie hứng khởi thì thào.

“Crawlings để lời hướng dẫn lại!”

“Tớ thấy rồi,” Sticky nói. “Đi...” Cậu ngừng lại, phân tâm trước cảnh Kate cầm theo mảnh giấy rúm ró chạy xuống cầu thang. “Đợi đã, cậu đã lấy được nó rồi ư?”

Reynie cũng đang nhìn chằm chằm. “Tớ còn chẳng nghe thấy cậu đi cơ!”

“Tớ tập nhiều rồi,” Kate thì thầm trong lúc chạy xuống cầu thang. “Giờ thì đi thôi. Bọn mình sắp bị muộn rồi đấy!”

Cả bọn thống nhất là Kate sẽ chạy trước để đưa lá thư cho chú Milligan hoặc ngài Benedict càng sớm càng tốt. Và đây là lần đầu tiên trong nhiều năm, Reynie thực sự tin tưởng vào sự nhanh nhẹn của Kate. Theo như lời thảo luận của bọn Gã Số Mười thì một thời gian nữa chúng mới gặp lại nhau, và Reynie cảm thấy chắc chắn rằng dù lời chỉ dẫn của em trai cậu có là gì chăng nữa, ngài Benedict cũng sẽ giải mã thành công để kịp thời hành động. Những suy nghĩ đó khiến Reynie vô cùng phấn chấn và cậu không thể không cảm thấy tự hào vì mình đã góp công trong đó. Và không phải chỉ có mình cậu cảm thấy như vậy: Kate cũng chạy nhanh như bay, và Sticky - người vừa nãy còn thở phù phù bên cậu trong lối đi bí mật - giờ cứ cười toe toét một mình.

Tuy nhiên, ngay khi chạy khỏi tầng hầm, tinh thần phấn chấn của hai cậu đã bị giảm đi đáng kể khi thấy Kate tội nghiệp đang bị cô Plugg túm lấy khuỷu tay. Một chiếc Limousine đen được bật đèn sẵn chờ trên đường - hẳn đây là chiếc xe chống đạn - và từ ngôi nhà của ngài Benedict vọng lên những tiếng gọi lũ trẻ đầy hoảng hốt.

“Chúng ở đây!” Cô Plugg hét lớn và một vài gương mặt nhẹ nhõm hiện ra sau khung cửa sổ.

Cô bảo vệ không ngừng xổ ra một tràng cáo buộc: “… tìm các cháu, và dường như không ai biết về những mệnh lệnh mà Milligan đã đưa cho ta! Và ta phải làm gì? Mặc dù ta đã bắt đầu nghi ngờ lời nói của các cháu, nhưng nhỡ đâu ta nhầm thì sao? Không! Ta phải im lặng! Ta phải nhún vai và giả vờ tỏ ra bối rối! Trong khi đó nhà Washington hết sức hoảng loạn! Cô Perumal lo đến phát ốm! Mẹ cô ấy thậm chí còn phải uống thuốc. Các cháu có hiểu nổi cảm giác ta phải đứng đây mà không biết nói gì để an ủi họ không? Các cháu có nhận thấy…”

“Cháu đã nói là cháu thực lòng xin lỗi mà, cô Plugg!” Kate khóc lóc. “Cháu không thể giải thích chuyện đó quan trọng thế nào được, hay tại sao chúng cháu phải làm thế, nhưng...”

Tuy nhiên, cô Plugg vẫn chưa nguôi tức giận. “Milligan ra lệnh đó phải không? Có đúng là các cháu phải tìm thứ gì đó rất quan trọng trong tầng hầm đó không?”

Kate biết nói ra sự thật lúc này là cách tốt nhất để tránh khỏi những lời quở trách, nên cô bé giơ tờ giấy nhăn nhúm lên và nói: “Cháu phải đưa cái này cho bố Milligan hoặc ngài Benedict - rất khẩn cấp, cô Plugg ạ!”

Cô Plugg khịt mũi như một con trâu, liếc nhìn lá thư trong tay Kate. “Cái gì thế? Không, để cô đoán, các cháu không được nói.”

Đến lúc này Reynie đã lấy lại hơi để chạy đến giúp Kate. “Chúng cháu xin lỗi, cô Plugg, nhưng điều đó là thật đấy ạ - chúng cháu không thể nói với cô được. Nhưng nó cực kỳ quan trọng.”

Đôi mắt nghiêm khắc màu xám của cô Plugg nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác. Cả ba đứa trẻ đều cố tỏ ra khúm núm van nài. Cuối cùng, cô gật đầu. “Milligan chưa về. Các cháu có thể nói chuyện với ngài Benedict trong xe. Quân của Milligan vừa mới đi đón ông ấy. Họ về rồi đấy.”

Qu đúng như vậy, chạy ra khỏi ngôi nhà không chỉ có ngài Benedict và mấy người lính (hai người đàn ông mặc thường phục đang không ngừng liếc mắt quan sát xung quanh) mà còn có nhà Washington, nhà Perumal, Rhonda, cô Số Hai, và cuối cùng là anh Moocho Brazos đang mang theo bốn cái túi nhỏ màu vàng. Cuối cùng lũ trẻ cũng phát hiện ra rằng những túi đó chứa đồ ăn nhẹ để mang đến sở cảnh sát, nhưng trước tiên chúng phải hứng chịu những lời quở trách nặng nề chưa từng có - những tiếng rầy la lớn tiếng, phẫn nộ từ khắp phía.

“Ở bên đường kia…”

“... mà không được ai cho phép...”

“… mà không nói với bất kỳ ai! Và trong tầng hầm đó! Tại làm sao mà…?”

“… tìm lộn hết cả nhà lên! Cháu có hiểu gì không hả cậu bé...?”

Mọi câu hỏi được đưa ra với tốc độ kinh hoàng và âm thanh khủng khiếp trong khoảng hai mươi giây, rồi được kết thúc cùng một lúc. Ngay sau đó cả ba đứa bị ôm lấy, túm chặt, vỗ về, được phủi bụi trên quần áo khi nước mắt còn ướt đẫm, tóc bị vò tả tơi (Reynie và Kate) và cả người dính toàn mạng nhện và bọ cánh, và bà Washington đã bối rối tuyên bố rằng Sticky đã khỏe lên rất nhiều - và sau đó là những lời dặn dò thiết tha và hứa hẹn sẽ gặp chúng ở sở cảnh sát, lũ trẻ bị đẩy lên ghế sau chiếc xe chống đạn với ngài Benedict.

Trong suốt vụ om sòm ấy, lũ trẻ không nói gì như để bảo vệ chính mình. Một phần là vì chúng không có cơ hội, một phần nữa là vì ông Bane đã lén đứng lên chú ý quan sát cả nhóm. Reynie cắm mặt nhìn xuống trong lúc miệng lầm bầm lời xin lỗi, và tự trấn an mình rằng chúng sẽ sớm được nói chuyện riêng với ngài Benedict.

Nhưng chính ngài Benedict mới là người có nhiều điều muốn nói. Ngay khi cửa xe đóng lại, ngài nói, “Ta nhận thấy các cháu có điều muốn nói với ta. Ta thấy điều đó trên vẻ mặt các cháu, và hiển nhiên là các cháu có lý do để rời khỏi ngôi nhà đó. Ta cũng có mấy việc cần nói càng sớm càng tốt với các cháu. Vấn đề của các cháu có khẩn cấp lắm không? Chúng ta phải bàn bạc ở đây hay chờ thêm mấy phút nữa?”

Lũ trẻ đưa mắt nhìn nhau. Chúng rất muốn được đưa cho ngài ấy xem lá thư - và cũng muốn tự mình xem nó - nhưng chúng đều cảm thấy mình có thể chờ thêm vài phút.

“Tốt lắm,” ngài Benedict nói. “Chúng ta có thể bắt đầu ngay khi dừng lại thật nhanh ở tòa nhà tiếp theo. Không nên tự làm gián đoạn cuộc nói chuyện của chúng ta.” Nhận được tín hiệu, người lái xe điều khiển chiếc xe ra khỏi lề đường. (Reynie nhận ra là chúng đã để quên túi và áo khoác, nhưng chuyện đó lúc này không quan trọng nữa.) “Nhân tiện, ta cũng giới thiệu đây là chú Hardy, và ở ghế hành khách là chú Gristle.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3