Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 16 - Phần 2
Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng đang ở nhà tù Third Island. Thật may là Sticky và Kate cũng đã hiểu khá rõ nơi này. Kate có thể mô tả kỹ hơn rất nhiều về những thứ Constance nhìn thấy bên ngoài, và Sticky giải thích rằng nhà tù đặt trên một hòn đảo (hòn đảo thứ ba tính từ vịnh, vậy nên nó mới có tên là Third Island - đảo thứ ba) dọc theo phần rộng nhất của bờ sông Thành phố Đá.
“Cóên quan gì giữa người đàn ông này và những hòn đảo cơ chứ?” Constance đảo mắt nói.
“Nó có ý nghĩa chiến thuật cả đấy,” Reynie nói. “Nhà tù có một vị trí có thể phòng thủ được, và nếu có chuyện gì diễn ra ngoài ý muốn, ông ta có thể cắt điện và dùng chiếc Salamander để trốn bằng đường sông.”
“Cậu có thực sự nghĩ rằng ông ta có thể cắt điện lần nữa không?” Kate hỏi.
“Chẳng có lý do gì để không làm thế cả. Ông ta vẫn có gián điệp trong chính phủ, và ông ta sẽ cho Máy Thì Thầm hoạt động sớm thôi. Tớ cá đó là việc ông ta đang cố gắng tập trung làm.”
“Chắc chắn rồi,” Sticky nói. “Ông ta sẽ muốn chạy lại tất cả những phần mềm máy tính trước để xem ngài Benedict đã thay đổi những gì, và đảm bảo là...”
“Dừng lại, dừng lại!” Constance làu bàu. “Mọi người đang làm đầu em loạn hết lên rồi đấy. Em chỉ cần tập trung vào nơi chúng ta đang ở và những điều chúng ta biết chắc, đúng không?”
“Phải,” Reynie đáp. “Anh nghĩ chúng ta nên làm thế này cho đơn giản. Em nên cố gắng bảo cho ngài ấy những điều bọn mình biết - tập trung vào những chi tiết quan trọng nhất - và để an toàn, có lẽ em nên gợi ra càng nhiều hình ảnh càng tốt. Như một chiếc đèn neon nhấp nháy chữ ‘Third Island’ ấy, có thể là...”
“Và có thể là ba đứa bọn mình đang đứng nhìn ra từ đằng sau song sắt nhà tù nữa,” Kate gợi ý.
“Nhưng chuyện đó có thể gây nhầm lẫn,” Sticky nói. “Tớ chắc chắn là ngài ấy biết các phòng giam ở đây đều đã bị phá hủy rồi.”
“Phải, nhưng như thế dễ hình dung mà,” Kate lập luận.
“Tớ biết như thế dễ hình dung,” Sticky nói. “Ý tớ là để nói rõ, bọn mình nên...
Constance nhíu mày suỵt suỵt rồi nhìn ra cửa. “S.Q. đấy!”
Quả nhiên sau đó ổ khóa xoay, cánh cửa mở toang và S.Q. Pedalian bước vào phòng với một tô nhựa lớn bỏng ngô. Anh ta đóng cửa lại. “Trước khi các em nói điều gì, các em nên biết rằng việc nói chuyện với anh sẽ khiến các em bị trừng phạt. Ngài Curtain đã nói điều đó với anh rất rõ - rất rõ ấy - và trách nhiệm của anh là báo cáo lại nếu các em làm thế. Nên là đừng nói. Cũng không có những chuyện mạo hiểm nữa. Garrotte được giao vị trí ở tiền sảnh và sẽ chạy vào nếu anh kêu lên.”
S.Q. đặt cái tô lớn lên sàn nhà và nhìn nó đầy hối lỗi. “Anh e rằng nó hơi ỉu một chút, và không có bơ. Nhưng ngài Curtain nói dinh dưỡng không phải là điều quan tâm chính của chúng ta lúc này. Ngài chỉ muốn các em không kêu gào vì cái dạ dày trống rỗng của mình thôi.” Lần đầu tiên, S.Q. ngẩng lên và nhìn lũ trẻ. “Các em cũng biết, anh không hề ác cảm với các em vì những điều xảy ra trên hòn đảo này. Từ đó, anh đã nghĩ về chuyện đó rất nhiều, và anh nhận ra lúc ấy các em rất sợ hãi. Nếu anh mà là các em, anh cũng sẽ lừa mình như thế thôi. Không phải là anh có thể tự lừa được mình đâu, tất nhiên rồi - ý anh là, không lừa được nếu không có... thôi cho qua đi. Ý anh muốn nói là anh không cảm thấy nặng nề gì. OK? Đừng trả lời nhé!”
Từ biểu hiện bồn chồn của S.Q. lũ trẻ có thể thấy anh ta nói thật, rằng anh ta sẽ báo cáo lại nếu chúng chỉ nói một từ với mình. Tuy nhiên, anh ta có vẻ lưỡng lự không muốn đi, và cứ đứng bần thần ở đó, bên cạnh tô bỏng ngô, lấy mũi giày đẩy nhẹ vào nó như thể đang động viên cho lũ trẻ ăn đi vậy. Cuối cùng, anh đành lặng lẽ thở dài quay đi.
“Kate,” Reynie nói nhanh, “tớ hy vọng S.Q. nhận ra là bọn mình cũng không có ác cảm gì với anh ấy cả. Ý tớ là, tớ hy vọng anh ấy biết rằng chúng ta hiểu anh ấy chỉ đang cố làm những điều đúng đắn.”
“Chắc chắn rồi, Reynie,” Kate đáp, ngay lập tức hiểu ý. “Bọn mình luôn luôn hòa hợp với anh ấy mà, đúng không?” Cả Sticky và Constance (bằng những giọng khá ngượng nghịu và e dè) vội vàng đồng ý.
S.Q. đang lắng nghe chăm chú liền quay lại với mỉm cười. “Cảm ơn,” anh ấy nói. “Nhân tiện, ta muốn nói các em thật thông minh.”
“Sticky,” Reynie nói (mặc dù cậu đang khẩn nài nhìn về phía S.Q.) “Tớ không biết liệu S.Q. có thể nói cho bọn mình biết chuyện gì đang xảy ra không. Tớ cá là anh ấy có thể hiểu được việc bị giam giữ trong đây và không rõ lý do tại sao nó chán nản đến thế. Như anh ấy đã nói, bọn mình rất sợ hãi.”
S.Q. có vẻ băn khoăn. “Anh không biết... Ý anh là, chủ của anh không nhấn mạnh rằng...”
“Cậu nói đúng đấy, Reynie,” Sticky nói, “anh ấy quả là tốt bụng.”
S.Q. ấn một khớp ngón tay vào môi và liếc ra phía cửa. “Anh nghĩ rằng sẽ không sao nếu chỉ - chà, nói thật là chuyện rất đơn giản. Như các em biết nếu các em không bị những bản báo cáo hiểm độc đánh lừa, ngài Curtain chỉ muốn ổn định lại đất nước. Ngài muốn bảo vệ nó! Nhưng có những người có quyền lực trong chính phủ không quan tâm - họ chỉ muốn nắm giữ quyền lực của mình, không cần biết chuyện đó có hại cho mọi người khác như thế nào.”
“Có phải là lão Curtain chỉ đang cố giúp đỡ hay không?” Constance ngờ vực hỏi. Sau đó, khi thấy vẻ mặt hoảng hốt của các bạn, cô bé nói nhanh, “Em đang hỏi Reynie!” và hơi tuyệt vọng cô bé nói tiếp, “Nào, Reynie? Đó có phải là điều anh nghĩ không? Reynie? Có phải không, Reynie?”
“Anh không biết, Constance ạ,” Reynie đáp. “Có thể là thế.”
S.Q. bình thản nói, “Anh đảm bảo với các em là ông ấy đang làm thế. Và ông ấy có một vài người bạn trong chính phủ hiểu được điều này. Đó là lý do tại sao họ được sắp xếp gặp gỡ những nhà tư vấn giỏi nhất cho chính phủ để có một cuộc họp bí mật với ngài Curtain vào chiều nay. Họ sẽ tìm ra cách để đảm bảo tất cả các thành phố đều có một nguồn năng lượng an toàn và ổn định. Nhờ có sự hiểu biết của ngài Curtain, các tua-bin thủy lực có thể được xây dựng, các mạng lưới điện được nâng cấp và cải thiện rõ rệt, các hệ thống mới được lắp đặt - hãy tin anh, mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp hơn rất, rất nhiều với mọi người. Và một khi những người có chức vụ cao thấy những điều ngài Curtain thực sự muốn làm - những điều trước nay ngài đang cố gắng làm - chà, họ sẽ thay đổi suy nghĩ và ủng hộ cho ngài. Ngài sẽ không còn bị coi là một tên tội phạm nữa.” S.Q. ngừng lại, sau đó nói thêm, “Và cả anh cũng thế.”
Lũ trẻ nhìn nhau băn khoăn. Chúng không ngờ rằng những “người bạn” kia thực ra lại là gián điệp - và rằng ngay chiều nay lão Curtain sẽ sử dụng Máy Thì Thầm để lấy những bí mật có giá trị từ những nhà tư vấn mà gián điệp của ông ta mang đến. Và sau đó ông ta sẽ xóa hết mọi trí nhớ của họ về sự việc không hay ho đó, và không có ai là người khôn ngoan nữa.
“Reynie,” Kate nói, “tớ vẫn không hiểu tại sao lão Curtain lại cần đến bọn mình.”
“Ồ! Điều đó quả là phức tạp,” S.Q. nói. “Thậm chí ngay cả anh cũng thấy điều đó thật khó hiểu. Nhưng nó có nghĩa với những người - những kẻ ngu ngốc và xấu xa - đang cố hủy hoại cơ hội của lão Curtain. Ngài bị ép buộc phải dùng một số biện pháp bất thường để xử lý tình huống này. Thực sự ngài chỉ có một yếu điểm, và ngài Benedict có thông tin mà ngài có thể giải quyết được yếu điểm đó - nhưng ngài Benedict lại rất xấu xa và không muốn giúp đỡ - nên ngài Curtain phải dùng đến các em. Anh không biết tại sao, nhưng điều quan trọng là mọi chuyện sẽ rất tốt đẹp nếu các em làm đúng theo lời ngài nói.”
“Constance,” Reynie nói. “Anh không biết S.Q. có thực sự, hoàn toàn tin vào chuyện đó không?”
Khuôn mặt S.Q. sầm lại trước câu nói đó. Một lúc lâu anh đứng yên, mắt liếc hết bên này sang bên kia như thể đang tìm câu trả lời - hay tìm sự an ủi - ở các góc phòng. “Anh phải đi rồi,” anh đột nhiên nói và đi nhanh ra cửa. “Garrotte hẳn sẽ băn khoăn không biết anh làm gì mà lâu thế!”
Reynie, quên mất, suýt nữa thì gọi tên anh ta. Và sau đó S.Q. ra khỏi cửa, và chúng đều nghe thấy tiếng ổ khóa xoay.
Thời gian trôi đi thật nhanh. Đến chiều, khó ai có cơ nội ngăn cản sức mạnh của Constance nữa.
Lúc này mọi chuyện dường như phụ thuộc vào khả năng truyền ý nghĩ của Constance đến đầu óc của ngài Benedict, rõ ràng và chính xác, qua không biết bao nhiêu dặm. Không ngạc nhiên khi cô bé cảm thấy bị áp lực. Cô bé đã một lần cản trở được Máy Thì Thầm, nhưng cuộc chiến đó yêu cầu cô bé phải ngoan cường cưỡng lại; lòng dũng cảm và quyết tâm đã giúp cô bé. Nhưng lần này thì khác, nhiệm vụ phức tạp hơn rất nhiều.
Chưa bao giờ Constance làm việc cật lực trong một thời gian dài đến thế. Nhiều phút trôi qua, rồi hơn một giờ, cô bé vẫn miệt mài làm việc. Và dường như tất cả những việc cô bé làm là nằm trên sàn nhà, hai mắt nhắm nghiền. Các bạn cô biết là cô đang gửi đi gửi lại suy nghĩ của mình, rồi “nghe” xem có câu trả lời nào không. Reynie, Kate và Sticky vẫn yên lặng tuyệt đối, thở nhẹ hết sức có thể và cố gắng (nhất là với Sticky) để không gãi chỗ ngứa hay duỗi chân. Chúng biết khả năng tập trung của Constance là điều quan trọng hơn cả, rằng số phận của chúng, và thực ra là số phận của tất cả những người thân yêu của chúng, phụ thuộc vào thành công của Constance.
Vì vậy chúng hoang mang tột độ khi thấy Constance bắt đầu ngáy ngủ.
“Constance!” Chúng gào lên hoảng hốt “Constance! Tỉnh dậy!”
Constance ngồi dậy, sau đó nhíu mày và dụi mắt. “Sao thế? Có chuyện gì thế? Có chuyện gì à?” Bỏ hai nắm tay xuống, cô bé để ý thấy vẻ mặt lo lắng của các bạn và nói, “Ồ. Em đoán là em đã ngủ quên...”
“Constance, sao mà em làm thế được?” Kate lắc đầu nói.
“Em không biết. Em không nhận ra là em đã ngủ. Em đã gửi tin nhắn đến hàng trăm lần, và mỗi lần em nghĩ có thể em nghe thấy ngài Benedict nói gì đó với em. Nhưng chuyện rất rối ren và yên lặng, em không nghe được một từ nào, và theo như em biết đó là trí tưởng tượng của em làm chuyện đó. Đúng không? Ý em là, nếu điều mà ta muốn hơn tất cả mọi thứ là nghe thấy tiếng ai đó trong đầu mình...” Cô bé ngáp và duỗi chân tay. “Nhưng em không tin nổi là em đã ngủ quên. Em đã mệt lử cho đến khi - ồ!”
“Ồ gì cơ?” Reynie hỏi.
“Em nhớ ra rồi, Constance nói, nhắm mắt lại và đặt đầu ngón tay lên thái dương. “Em có một hình ảnh trong đầu, và nó dễ chịu đến mức khiến em thấy vô cùng thoải mái...” Cô bé mở mắt ra. “Em nghĩ em đã quá mệt đến mức chỉ cần nghỉ ngơi trong một giây thôi cũng giúp em tỉnh táo.”
“Chuyện đó cũng xảy ra với anh khi anh ở trên xe tải,” Reynie nói. “Hình ảnh đó là gì?”
“Là ngài Benedict và mọi người. Tất cả mọi người trông rất buồn cười, họ mặc những bộ quần áo ngớ ngẩn, và tất cả đều cười thật tươi với em.” Constance mỉm cười. “Nhưng hay hơn là, tất cả đều đang cầm bánh - bánh của anh Moocho Brazos. Thực sự là em có thể ngửi thấy chúng.”
“Nghe như em đang mơ vậy,” Sticky nói.
Constance cân nhắc nói. “Có lẽ vậy. Đó đúng là một hình ảnh ngớ ngẩn hiện lên trong đầu em.”
Tuy nhiên, Reynie lại rất hứng khởi. “Constance,” cậu nói nhanh, “em có nghĩ đó là thông điệp của ngài Benedict không?”
“Ồ! Em không biết... Em nghĩ có thể lắm!” Cô bé bặm môi nghĩ ngợi. “Nếu vậy, em không hiểu được ý ngài ấy là gì. Có lẽ ngài ấy chỉ muốn em cười và cảm thấy tốt hơn... có lẽ đó là cách tốt nhất mà ngài ấy nói với em rằng mọi chuyện sẽ ổn. Dù sao thì đó cũng là cảm giác mà nó mang lại cho em.”
Reynie vặn vẹo hỏi tiếp như thể cậu chưa hề bị thuyết phục. Constance nói “mọi người” nghĩa là những ai? Những bộ quần áo ngớ ngẩn đó là gì? Và làm sao cô bé biết đó là bánh của Moocho Brazos? Constance thản nhiên đáp rằng “mọi người” nghĩa là chú Milligan, Rhonda, Số Hai; rằng những bộ quần áo đó là những bộ ngụy trang buồn cười - ria mép giả lớn, áo khoác dài, và mũ nón; và rằng tất nhiên những cái bánh đó được làm bởi Moocho Brazos vì còn ai làm chúng được nữa chứ?
“Tuy nhiên đúng là hình dáng của chúng rất lạ,” Constance ngẫm nghĩ nói. “Chúng được nướng theo hình chữ s.
“Như chữ S ư?” Sticky hỏi. “Để làm gì?”
“Làm sao mà em biết được? Có lẽ nó tượng trưng cho cái gì đó - có thể là sự an toàn hay sự an ninh (Save or Sacrifire). Như em đã nói, hình ảnh đó làm em cảm thấy tốt hơn. Có lẽ nó dùng để mang lại cho em cảm giác an toàn như ở nhà.”
“Tuy nhiên, giả sử rằng đó không phải chỉ là một giấc mơ,” Kate nói và nhìn Reynie xem cậu nghĩ gì về điều đó.
Reynie xoa cằm. “Em có chắc đó là hình ảnh duy nhất em nhìn thấy không, Constance? Không có từ nào đi cùng với nó à?”
“Ổ chắc chắn là có rồi, có hàng đống ấy chứ, nhưng em không thể nói cho anh biết chúng đến từ ngài Benedict hay là từ em. Tất cả đều rất lộn xộn và đó đều là những từ em tự nghĩ - tất cả những thứ về kế hoạch của lão Curtain, về nhà tù, về những gián điệp đưa những tư vấn viên đến đây, nói chung là tất cả những thứ mà em đã cố gửi đến ngài Benedict, chỉ có điều chúng là các mảnh nhỏ và đoạn ngắn thôi. Đôi khi đó là giọng của em và đôi khi là giọng ngài Benedict. Em không biết nữa - nếu ngài ấy đang cố nói với em điều gì đó thì ngài ấy làm không được tốt lắm.”
Constance đột nhiên thấy mình đói ngấu, và trong khi Reynie và những đứa khác thảo luận xem hình ảnh đó nghĩa là gì, cô bé tống cả nắm bỏng ngô vào miệng.
Sticky và Kate càng nói càng không chắc lắm hình ảnh đó là từ ngài Benedict. Ngược lại, Reynie lại tin rằng nó đúng là từ ngài ấy; cậu cảm thấy hình ảnh đó có ý nghĩa gì đó, nhưng cậu không giải thích được tại sao. Và thậm chí nếu là từ ngài Benedict thật, thì chúng do ngài ấy cố ý gửi hay chỉ là Constance cố lắp ráp lại từ những suy nghĩ của ngài ấy? Thêm vào đó, nếu ngài ấy cố ý gửi nó đi, thì có lẽ nó đã mất đi một số chi tiết phụ trong quá trình di chuyển. Vậy là dù hình ảnh đó rất ám ảnh, nhưng cũng khó có thể giúp bọn trẻ điều gì.
“Có lẽ bọn mình nên nghỉ một lát,” Constance nói khi chúng đã mệt lử vì thảo luận về điều đó (và cô bé đã chén no một bụng bỏng ngô). Mí mắt cô bé đã bắt đầu sụp xuống. “Chỉ nghỉ một tí thôi” - cô bé ngáp - “nghỉ một phút trong lúc chúng ta nghĩ thêm về điều này. Em thấy mọi người đều mệt mỏi rồi...” Và không nói gì thêm nữa, cô bé cuộn người lại và thiếp ngủ ngay tức khắc.
Sticky nhìn cô bé ghen tị. “Ước gì mình làm được như vậy!”
Reynie lắc đầu. “Tớ nghĩ sự căng thẳng đã làm con bé quá mệt. Con bé không quen làm việc quá sức, các cậu biết mà!”
“Đấy là cách nói giảm thôi,” Kate nói và kiểm tra cái tô bỏng ngô đang trống trơn.