Bàn Cờ Lớn - Chương 07
Chương 7
KẾT LUẬN
Đã đến lúc Mỹ phải thực hiện và tiếp tục một địa chiến lược phức hợp, toàn diện và lâu dài cho toàn lục địa Á-Âu. Vấn đề này phát sinh từ sự xung đột giữa hai thực tại cơ bản: Hoa Kỳ hiện là siêu cường toàn cầu duy nhất, và lục địa Á-Âu là đấu trường trung tâm của toàn cầu. Vì thế, những gì xảy đến cho sự phân bổ quyền lực trên lục địa Á-Âu có vai trò vô cùng quan trọng cho địa vị số một thế giới cùng di sản mang tính lịch sử của Mỹ.
Địa vị đứng đầu thế giới của Mỹ là độc nhất về phạm vi và tính chất của nó. Đó là một loại quyền bá chủ của mới phản ánh nhiều điểm đặc trưng của hệ thống dân chủ Mỹ: đa nguyên, thẩm thấu và linh hoạt. Đạt được trong một quá trình ngắn hơn một thế kỷ, biểu hiện tính địa chính trị chủ yếu của quyền bá chủ đó là vai trò chưa từng có trước đây của Mỹ trên khu vực Á-Âu rộng lớn, kể từ thời điểm ban đầu của mọi đấu thủ đối với quyền lực toàn cầu trước đây. Hoa Kỳ hiện là trọng tài của toàn vùng Á-Âu, và không có vấn đề Á-Âu quan trọng nào có thể được giải quyết mà không có sự tham gia hay chống đối lợi ích của Mỹ.
Việc Hoa Kỳ có thể thao túng và dàn xếp các đấu thủ địa chiến lược chính trên bàn cờ Á-Âu như thế nào và làm cách nào nó quản lý được các trung tâm địa chiến lược Á-Âu chủ chốt rất quan trọng cho sự trường tồn và bền vững của quyền bá chủ toàn cầu của nước này. Ở châu Âu, những đấu thủ chính sẽ tiếp tục là Pháp và Đức, và mục tiêu trung tâm của Mỹ sẽ là củng cố và mở rộng khu vực dân chủ hiện có lên rìa phía tây của lục địa Á-Âu. Ở Viễn Đông của lục địa này, Trung Quốc đang ngày càng trở thành trung tâm, và nước Mỹ sẽ không có chỗ đứng chính trị vững chắc tại khu vực châu Á trừ khi sự đồng thuận địa chiến lược Mỹ-Trung được nuôi dưỡng thành công, ở trung tâm lục địa Á-Âu, khoảng không gian nằm giữa một châu Âu đang mở rộng và một Trung Quốc đang trỗi dậy trong khu vực vẫn sẽ là hố đen địa chiến lược ít nhất cho đến khi Nga giải quyết được các đấu tranh nội bộ về việc tự định nghĩa bản thân thời kỳ hậu đế quốc của chính nó, trong khi khu vực ở phía nam của Nga, vùng Balkan Á-Âu, đe dọa trở thành vùng trũng của xung đột sắc tộc và cạnh tranh siêu cường.
Với bối cảnh như vậy, trong thời gian kéo dài hơn một thế hệ, địa vị thế lực hàng đầu thế giới của nước Mỹ sẽ không thể bị bất kỳ một đối thủ đơn thuần nào tranh đoạt. Không một quốc gia-dân tộc nào có thể tương xứng với Mỹ ở bốn khía cạnh quyền lực quan trọng (quân sự, kinh tế, công nghệ và văn hóa) kết hợp tạo thành quyền lực chính trị toàn cầu. Ngoại trừ việc nước Mỹ bị phế ngôi theo cách không lường trước hay có chủ đích, thứ duy nhất có thể thay thế vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ trong tương lai gần là tình trạng vô chính phủ trên toàn thế giới. Trong trường hợp đó, thật chính xác khi khẳng định rằng Mỹ đã trở thành “quốc gia quan trọng nhất” thế giới, như Tổng thống Clinton đã nói.
Cần phải nhấn mạnh ở cả hai vấn đề là sự không thể thiếu đó và điều kiện thực tế của khả năng xảy ra tình trạng vô chính phủ toàn cầu. Hệ quả sụp đổ từ sự bùng nổ dân số toàn cầu, di dân do nghèo đói, đô thị hóa, mâu thuẫn tôn giáo và dân tộc gia tăng, cùng việc nhanh chóng tăng cường các loại vũ khí có sức hủy diệt lớn đang trở nên mất kiểm soát sẽ xảy ra nếu cơ cấu quốc gia-dân tộc cơ bản và hiện có của sự ổn định địa chính trị sơ khởi bị tan vỡ. Không có sự tham gia hướng dẫn và duy trì của Mỹ, sẽ chẳng mất nhiều thời gian cho các thế lực gây rối loạn toàn cầu chiếm quyền thống trị toàn bộ phông cảnh thế giới. Và nguy cơ phân rã đó luôn gắn liền với các căng thẳng địa chính trị không chỉ ở khu vực Á-Âu hôm nay mà ở trên toàn thế giới nói chung.
Những nguy cơ hệ lụy đối với sự ổn định toàn cầu có thể trở thành nghiêm trọng hơn khi đồng hành cùng viễn cảnh thoái hóa của điều kiện con người. Đặc biệt là ở những quốc gia nghèo hơn trên thế giới, sự bùng nổ nhân khẩu học và đô thị hóa xảy ra cùng một lúc đang nhanh chóng gây ra tình cảnh gia tăng quá mức không chỉ số người bất hạnh mà còn cả hàng trăm triệu người thất nghiệp và giới trẻ ngày càng ít được nghỉ ngơi, vốn là nhóm dân số với mức độ mất phương hướng ngày càng tăng cao, có thể là theo cấp số nhân. Truyền thông hiện đại khiến họ đoạn tuyệt mạnh mẽ hơn với quyền lực truyền thống, đồng thời ngày càng tỉnh táo và không bằng lòng với sự bất bình đẳng toàn cầu, do đó đây cũng là nhóm dễ bị ảnh hưởng hơn từ những huy động cực đoan. Mặt khác, hiện tượng di dân toàn cầu ngày càng tăng, đã đạt đến mức mười triệu, một mặt có thể đóng vai trò như một van an toàn tạm thời, nhưng mặt khác, nó cũng có thể là phương tiện truyền bá xuyên lục địa những mâu thuẫn xã hội và dân tộc.
Trách nhiệm lãnh đạo toàn cầu mà nước Mỹ thừa hưởng có thể đi kèm với việc phải chống chọi với hỗn loạn, căng thẳng, và thỉnh thoảng chí ít cũng là bạo lực. Trật tự thế giới mới và phức tạp, được thiết lập dưới sự lãnh đạo của Mỹ vào lúc “mối đe dọa của chiến tranh đã không còn,” có thể sẽ chỉ giới hạn ở một vài phần của thế giới nơi quyền lực Mỹ được củng cố bằng hệ thống chính trị xã hội dân chủ và các khuôn khổ đối ngoại tinh vi mà Mỹ chi phối.
Địa chiến lược của Hoa Kỳ đối với khu vực Á-Âu do đó sẽ phải cạnh tranh với các thế lực hỗn mang. Ở châu Âu, có các dấu hiệu cho thấy đà hội nhập và mở rộng đang suy yếu và chủ nghĩa dân tộc truyền thống của châu Âu có thể tái thức tỉnh tại thời điểm này. Thất nghiệp quy mô lớn vẫn tồn tại ở chính những quốc gia thành công nhất ở châu Âu, làm sản sinh các phản ứng bài ngoại nhiều khả năng đột ngột gây ra bước ngoặt trong chính trị Pháp hoặc Đức đối với chủ nghĩa cực đoan chính trị đáng chú ý và chủ nghĩa dân tộc cực đoan hướng nội. Thật vậy, tình huống tiền cách mạng thậm chí có thể đang diễn ra. Thời gian biểu lịch sử của châu Âu, được nêu trong Chương 3, sẽ chỉ được đáp ứng nếu những khát vọng về sự thống nhất châu Âu được Hoa Kỳ khuyến khích và thậm chí thúc đẩy.
Sự bất định liên quan đến tương lai nước Nga còn lớn hơn nhiều, viễn cảnh về sự tiến bộ tích cực ngày càng mong manh. Do đó, Mỹ bắt buộc phải định hình bối cảnh địa chính trị phù hợp với việc Nga rồi sẽ nhập vào một bối cảnh hợp tác châu Âu đang phát triển lớn hơn và cũng thúc đẩy sự độc lập tự chủ của các nước láng giềng mới có chủ quyền. Khả năng tồn tại của Ukraine hoặc Uzbekistan (chưa nói đến Kazakstan bị chia rẽ về mặt dân tộc) vẫn không chắc chắn, đặc biệt là nếu sự tập trung của Mỹ bị chuyển hướng với nguyên nhân khởi từ các cuộc khủng hoảng nội bộ tại châu Âu, bởi khoảng cách ngày càng tăng giữa Thổ Nhĩ Kỳ và châu Âu, hay sự gia tăng thù địch trong mối quan hệ Mỹ-Iran.
Khả năng cho một cuộc dàn xếp lớn cuối cùng với Trung Quốc cũng có thể bị bỏ lỡ vì cuộc khủng hoảng trong tương lai liên quan đến Đài Loan; hoặc vì các động lực chính trị trong nội bộ Trung Quốc thúc đẩy sự trỗi dậy của một thiết chế hung hăng và thù nghịch; hoặc đơn giản vì mối quan hệ Mỹ-Trung trở nên tồi tệ đi. Trung Quốc do đó có thể trở thành một thế lực bất ổn cao trên thế giới, làm mối quan hệ Mỹ-Nhật thêm căng thẳng và cũng có thể làm chính Nhật Bản mất phương hướng địa chính trị và bị rối loạn.
Trong bối cảnh đó, sự ổn định của Đông Nam Á chắc chắn rơi vào thế bấp bênh, và bất cứ ai cũng có thể tự đoán ra được sự giao thoa của các sự kiện này có thể tác động lên tình thế và sự liên kết của Ấn Độ, một quốc gia quan trọng đối với sự ổn định của Nam Á.
Những quan sát này đóng vai trò nhắc nhở, rằng dù là các vấn đề toàn cầu mới vượt quá phạm vi quốc gia-dân tộc hay các mối quan ngại địa chính trị mang tính truyền thống hơn, tất cả đều không thể được giải quyết hay thậm chí ngăn chặn nếu cấu trúc địa chính trị cơ bản của quyền lực toàn cầu bắt đầu sụp đổ. Với các dấu hiệu cảnh báo ở tại biên giới trên khắp châu Âu và châu Á, bất kỳ chính sách thành công nào của Mỹ đều phải tập trung vào toàn bộ lục địa Á-Âu và chịu sự dẫn dắt của một kế hoạch mang tính địa chiến lược.
MỘT ĐỊA CHIẾN LƯỢC CHO LỤC ĐỊA Á-ÂU
Điểm khởi đầu cho một chính sách cần thiết là nhận diện rõ ràng ba hoàn cảnh chưa từng có hiện đang định hình tình trạng địa chính trị trong các vấn đề thế giới: lần đầu tiên trong lịch sử, (1) một quốc gia đơn lẻ trở thành một thế lực toàn cầu thực sự, (2) một quốc gia phi châu Âu trở thành quốc gia đứng đầu toàn cầu, và (3) đấu trường trung tâm của thế giới, lục địa Á-Âu, được một thế lực bên ngoài thống trị.
Tuy nhiên, một địa chiến lược toàn diện và hợp nhất cho khu vực Á-Âu phải dựa trên việc nhận diện các giới hạn ảnh hưởng quyền lực và sự tiêu hao phạm vi ảnh hưởng không tránh khỏi theo thời gian của Mỹ. Như đã lưu ý trước đó, quy mô và sự đa dạng của lục địa Á-Âu, cũng như sức mạnh tiềm năng của một vài quốc gia, giới hạn chiều sâu ảnh hưởng của Mỹ và mức độ kiểm soát đối với quá trình diễn ra sự kiện. Tình cảnh này đặt ưu tiên cho cái nhìn sâu hơn về địa chiến lược và vào việc Mỹ triển khai có chọn lọc, có cân nhắc các nguồn lực trên bàn cờ Á-Âu rộng lớn. Và khi quyền lực chưa từng có của Mỹ bị buộc phải suy giảm theo thời gian, ưu tiên phải là quản lý sự trỗi dậy của các siêu cường khu vực khác theo những cách không đe dọa đến quyền lực bá chủ toàn cầu của Mỹ.
Cũng như trên bàn cờ vua, các nhà hoạch định kế hoạch toàn cầu của Mỹ phải tính trước vài nước, phải biết lường trước những nước đi đối lại. Một địa chiến lược bền vững do đó phải phân biệt giữa viễn cảnh ngắn hạn (trong khoảng năm năm tới), giai đoạn tầm trung (lên đến hai mươi năm) và viễn cảnh lâu dài (hơn hai mươi năm). Hơn nữa, các giai đoạn này không những phải được tiến hành chặt chẽ mà còn phải liền mạch. Giai đoạn đầu tiên phải dần dần và kiên quyết dẫn đến giai đoạn thứ hai và tất nhiên, phải hướng đến nó một cách thận trọng, và giai đoạn thứ hai sau đó nhất thiết dẫn đến giai đoạn thứ ba.
Trong thời gian ngắn, việc củng cố và duy trì tính đa nguyên địa chính trị đang trỗi dậy giúp mang lại lợi ích cho nước Mỹ trên bản đồ khu vực Á-Âu. Điều này đặt ra tầm quan trọng đặc biệt cho việc điều động quân sự và vận động để ngăn chặn sự trỗi dậy của một liên minh thù địch có thể tìm cách thách thức quyền bá chủ của Mỹ, và ở đây chưa nói đến khả năng xa xôi là một quốc gia riêng lẻ nào đó muốn tìm cách tự làm việc đó. Ở giai đoạn tầm trung, những gì vừa nêu sẽ dần mang lại một tầm quan trọng lớn lao hơn lên sự trỗi dậy của các quốc gia đối tác ngày càng quan trọng và tương thích về mặt chiến lược; những nước này, vốn được thúc đẩy dưới sự lãnh đạo của Mỹ, có thể giúp hình thành nên một hệ thống an ninh liên lục địa Á-Âu hợp tác hơn. Cuối cùng, vẫn trong một viễn cảnh xa hơn, những gì đã nói trên đây có thể dần phát triển thành một lối chia sẻ trách nhiệm chính trị toàn cầu.
Nhiệm vụ cấp bách nhất là đảm bảo chắc chắn rằng không có quốc gia hoặc liên minh quốc gia nào có khả năng hất cẳng Hoa Kỳ ra khỏi lục địa Á-Âu hay thậm chí làm suy giảm đáng kể vai trò trọng tài quyết định của nước này. Tuy nhiên, sự thống nhất về tính đa nguyên địa chính trị xuyên lục địa không nên được xem là cái kết của chính nó mà chỉ như một phương tiện đạt được mục đích xây dựng sự hợp tác chiến lược trong giai đoạn tầm trung tại các khu vực quan trọng của lục địa Á-Âu. Không chắc là nước Mỹ dân chủ sẽ muốn tham gia thường xuyên vào vấn đề quản lý khu vực Á-Âu vốn đầy khó khăn, tiêu tốn và tốn kém bằng cách dùng các nguồn lực quân sự của Mỹ để không ngừng chống lưng cho các hoạt động vận động và huy động quân sự, nhằm ngăn chặn sự thống trị khu vực của bất kỳ một thế lực nào khác. Do đó, giai đoạn đầu tiên phải dẫn đến giai đoạn thứ hai một cách hợp lý và thận trọng, trong đó sự lãnh đạo ôn hòa của Mỹ sẽ ngăn cản sự thách thức của các nước khác không chỉ bằng cách khiến cho cái giá của việc thách thức thành ra quá cao mà còn bằng cách đe dọa lợi ích sống còn của đối thủ tiềm năng trên lục địa Á-Âu.
Mục tiêu đặc biệt cần thiết cho giai đoạn tầm trung là thiết lập các mối quan hệ đối tác thực sự, chiếm ưu thế xuyên suốt giữa một châu Âu thống nhất hơn, được xác định rõ về mặt chính trị; với một Trung Quốc vượt trội hơn trong khu vực; cũng như với (hy vọng như vậy) một nước Nga hậu đế quốc hướng về châu Âu; và, ở vùng rìa phía nam của lục địa Á-Âu, một Ấn Độ ổn định và dân chủ trong khu vực. Nhưng sự thành bại trong nỗ lực tạo dựng nên các mối quan hệ chiến lược rộng lớn hơn với châu Âu và Trung Quốc tương ứng sẽ định hình nên bối cảnh rõ rệt cho vai trò của Nga, dù là tích cực hay tiêu cực.
Một châu Âu lớn hơn và một NATO mở rộng hơn sẽ giúp ích cho cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong chính sách của Hoa Kỳ. Một châu Âu rộng lớn hơn sẽ mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Mỹ và thông qua việc kết nạp các thành viên Trung Âu mới cũng làm tăng số lượng các quốc gia có khuynh hướng thân Mỹ trong Hội đồng châu Âu mà không đồng thời tạo ra một châu Âu quá hợp nhất về mặt chính trị để có thể sớm thách thức Hoa Kỳ trong các vấn đề địa chính trị quan trọng ở những nơi khác, đặc biệt là ở Trung Đông. Một châu Âu được định hình rõ về mặt chính trị cũng cần thiết để dần dà dẫn dắt nước Nga vào hệ thống hợp tác toàn cầu.
Thực ra, nước Mỹ không thể tự mình tạo ra một châu Âu thống nhất hơn, điều đó phụ thuộc vào chính người châu Âu, đặc biệt là người Pháp và người Đức, nhưng Mỹ có thể làm cản trở sự trỗi dậy của một châu Âu thống nhất hơn. Và điều đó có thể gây thiệt hại cho sự ổn định tại lục địa Á-Âu và do đó cũng cho chính lợi ích của Mỹ. Tất nhiên, trừ khi châu Âu trở nên thống nhất hơn, không thì nó có thể dễ bị chia rẽ một lần nữa. Vì vậy, như đã chỉ ra trước đây, điều quan trọng là nước Mỹ phải làm việc cẩn thận với cả Pháp và Đức nhằm có được một châu Âu tự cường về mặt chính trị, một châu Âu vẫn giữ liên kết với Hoa Kỳ, và một châu Âu sẽ mở rộng phạm vi hệ thống hợp tác dân chủ quốc tế. Việc lựa chọn giữa Pháp và Đức không phải là vấn đề. Không có Pháp hoặc Đức, sẽ không có châu Âu; không có châu Âu, sẽ không có hệ thống Á-Âu xuyên lục địa.
Một cách thiết thực, những gì đã nêu sẽ đòi hỏi sự dàn xếp dần dần việc chia sẻ vai trò lãnh đạo trong NATO, sự chấp nhận lớn hơn cho các mối quan tâm của Pháp về vai trò của châu Âu không chỉ với châu Phi mà còn với Trung Đông, sự hỗ trợ thường xuyên cho việc mở rộng về phía đông của EU, ngay cả khi EU trở thành một đối thủ toàn cầu quyết đoán hơn về mặt chính trị và kinh tế1. Một Hiệp định Thương mại Tự do xuyên Đại Tây Dương, có được sự ủng hộ của một số các lãnh đạo lớn xuyên Đại Tây Dương, cũng có thể làm giảm nhẹ sự đối đầu kinh tế ngày càng gia tăng giữa một EU thống nhất hơn và Hoa Kỳ. Trong trường hợp nào đi nữa, sự thành công cuối cùng của EU trong việc chôn vùi các đối kháng dân tộc chủ nghĩa hàng thế kỷ ở châu Âu, cùng với ảnh hưởng gây rối loạn toàn cầu của chúng, sẽ có giá trị làm giảm dần vai trò quyết định của Mỹ trong tư cách là trọng tài viên hiện tại của khu vực Á-Âu.
Sự mở rộng của NATO và EU có thể truyền thêm sức sống cho khuynh hướng gia tăng năng lực cảnh báo của chính châu Âu, trong khi đối với lợi ích của cả Mỹ và châu Âu là củng cố thêm thành quả dân chủ thu được thông qua việc chấm dứt thành công Chiến tranh Lạnh. Một phần của nỗ lực này không gì có thể quan trọng hơn mối quan hệ lâu dài của Mỹ với chính châu Âu. Một châu Âu mới vẫn đang được định hình, và nếu về mặt địa chính trị, cái châu Âu đó vẫn là một phần của không gian châu Âu-Đại Tây Dương, NATO mở rộng là rất quan trọng. Tương tự, thất bại của sứ mệnh vừa nêu, vào lúc này, khi cam kết đã được thực hiện, sẽ phá vỡ khái niệm về một châu Âu đang mở rộng và làm mất tinh thần của người Trung Âu, thậm chí có thể khơi dậy tham vọng địa chính trị hiện ngấm ngầm hoặc đã chết của Nga đối với miền Trung Âu.
Thật vậy, thất bại trong nỗ lực do Mỹ lãnh đạo để mở rộng NATO có thể làm thức tỉnh trở lại những mong muốn đầy tham vọng của Nga. Chưa có bằng chứng hiện tại, trong khi có rất nhiều ghi nhận lịch sử, cho việc liệu giới lãnh đạo chính trị Nga có cùng chia sẻ mong muốn với châu Âu trong việc Mỹ hiện diện chính trị và quân sự mạnh mẽ và lâu dài ở châu lục này hay không. Do đó, trong khi thúc đẩy mối quan hệ hợp tác ngày càng gia tăng với Nga là đáng mong đợi, thì đối với Mỹ, việc quan trọng là gửi đi một thông điệp rõ ràng về ưu thế toàn cầu của chính mình. Nếu phải đưa ra lựa chọn giữa một hệ thống châu Âu-Đại Tây Dương rộng lớn hơn và một mối quan hệ tốt đẹp hơn với Nga, thì đối tượng đầu phải được Mỹ đặt lên hàng đầu.
Vì lý do đó, bất kỳ dàn xếp nào với Nga về vấn đề mở rộng NATO không được kéo theo một kết quả có tác dụng khiến Nga trên thực tế trở thành thành viên ra quyết định của liên minh, từ đó làm giảm đi đặc tính châu Âu-Đại Tây Dương đặc biệt của NATO, trong khi đồng thời chuyển các thành viên mới gia nhập xuống vị trí thứ hai. Điều đó có thể tạo cơ hội cho Nga tái khởi động không chỉ những nỗ lực giành lại phạm vi ảnh hưởng ở Trung Âu mà còn lợi dụng sự hiện diện của họ trong nội bộ NATO để công kích bất kỳ bất đồng nào giữa Mỹ và châu Âu nhằm làm giảm vai trò của Mỹ trong các vấn đề châu Âu.
Một điều quan trọng nữa là, khi Trung Âu gia nhập NATO, bất kỳ sự đảm bảo an ninh mới nào đối với Nga liên quan đến khu vực phải thực sự có tính tương hỗ lẫn nhau và làm yên lòng đôi bên. Những giới hạn trong việc triển khai quân đội và vũ khí hạt nhân của NATO trên lãnh thổ các thành viên mới có thể là một nhân tố quan trọng làm giảm đi các mối quan ngại hợp pháp của Nga, nhưng những điều này cũng nên đồng hành với một đảm bảo tương tự từ phía Nga về việc phi quân sự hóa những khả năng đe dọa chiến lược tiềm tàng của Kaliningrad và giới hạn việc triển khai quân sự lớn gần biên giới của các thành viên mới của NATO và EU trong tương lai. Trong khi tất cả các nước láng giềng mới độc lập phía tây của Nga cảm thấy lo ngại khi thiết lập quan hệ ổn định và hợp tác với Nga, sự thật là họ vẫn sợ hãi đất nước này vì những lý do lịch sử chính đáng. Do đó, những diễn biến theo sự sắp đặt hợp tình hợp lý của NATO/EU với Nga có thể được tất cả các nước châu Âu chào đón như một dấu hiệu rằng Nga cuối cùng đã đưa ra lựa chọn hậu đế quốc đúng như châu Âu kỳ vọng.
Lựa chọn đó có thể mở đường cho nỗ lực mở rộng hơn để củng cố địa vị và sự kính trọng đối với Nga. Trở thành thành viên chính thức trong nhóm G-7, cũng như việc nâng cao thiết chế thành lập chính sách của OSCE (trong khi một ủy ban an ninh đặc biệt bao gồm Mỹ, Nga và một vài nước châu Âu quan trọng có thể được thành lập), có thể tạo cơ hội cho Nga tham gia xây dựng và định hình trên các mặt chính trị và an ninh ở châu Âu. Đi cùng với những hỗ trợ tài chính hiện tại mà phương Tây dành cho Nga, kèm theo sự phát triển của các kế hoạch đầy tham vọng trong việc đưa nước Nga đến gần với châu Âu hơn thông qua hệ thống đường sắt và xa lộ mới, quá trình trao cho Nga vai trò quan trọng để nước này đưa ra lựa chọn theo mong muốn của châu Âu có thể có những bước tiến đáng kể.
Vai trò lâu dài của Nga tại khu vực Á-Âu sẽ phụ thuộc nhiều vào lựa chọn lịch sử của nước này, có lẽ xảy đến trong thập kỷ này, liên quan đến việc họ tự định nghĩa chính mình. Cho dù cả châu Âu và Trung Quốc đều gia tăng phạm vi ảnh hưởng khu vực tương xứng của họ, Nga vẫn sẽ là quốc gia có lãnh thổ rộng lớn nhất thế giới. Nó trải dài mười múi giờ và lớn gấp đôi so với Hoa Kỳ hay Trung Quốc. Điều đó làm cho châu Âu mở rộng hơn. Do đó, việc hao hụt lãnh thổ không phải vấn đề trung tâm của nước Nga. Nói đúng hơn, nước Nga vĩ đại phải đối mặt trực tiếp và chú tâm vào thực tế là cả châu Âu và Trung Quốc đều hùng mạnh hơn họ về mặt kinh tế, và rằng Trung Quốc cũng đang đe dọa vượt mặt Nga trên con đường hiện đại hóa xã hội.
Trong hoàn cảnh này, giới lãnh đạo Nga nên nhìn nhận rõ ràng rằng ưu tiên hàng đầu của nước họ là hiện đại hóa chính nó thay vì gắn bản thân vào nỗ lực vô ích nhằm lấy lại địa vị siêu cường trước đây. Với kích thước khủng lồ và mức độ đa dạng lớn của đất nước, một hệ thống chính trị phi tập quyền, dựa trên thị trường tự do, có thể có khả năng giải phóng tiềm năng sáng tạo của cả người dân Nga và các nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn của đất nước. Nói cách khác, một nước Nga ít tập quyền hơn cũng sẽ ít chịu ảnh hưởng hơn từ cám dỗ của chủ nghĩa đế quốc. Một liên bang Nga mềm dẻo (bao gồm một nước Nga châu Âu, một nền Cộng hòa Siberia và một nền Cộng hòa ở Viễn Đông) sẽ dễ dàng nuôi dưỡng các mối quan hệ kinh tế gần gũi hơn với châu Âu, với các quốc gia mới ở Trung Á, và với những nước phương Đông; nhờ đó thúc đẩy sự phát triển của chính nước Nga. Mỗi một thực thể liên bang sẽ có nhiều khả năng khai thác tiềm năng sáng tạo địa phương, vốn bị chôn vùi nhiều thế kỷ dưới bàn tay quan liêu nặng nề của Moscow.
Một lựa chọn rõ ràng cho Nga - như những gì châu Âu mong chờ, thay vì trở lại thành đế quốc - sẽ trở nên khả thi hơn nếu Mỹ theo đuổi thành công một thành phần cấp bách thứ nhì trong chiến lược của bản thân đối với Nga: củng cố sự đa nguyên địa chính trị đang trỗi dậy ở không gian hậu Xô Viết. Sự củng cố đó sẽ làm thui chột bất kỳ tham vọng đế quốc nào. Một nước Nga hậu đế quốc và hướng về châu Âu nên thực sự coi nỗ lực Mỹ dành cho kết quả đó như là những trợ giúp nhằm củng cố sự ổn định trong khu vực và làm giảm nguy cơ xung đột dọc theo các biên giới mới phía nam vốn thường bất ổn. Nhưng chính sách củng cố đa nguyên địa chính trị không cần đòi hỏi mối quan hệ tốt đẹp với Nga. Nói đúng hơn, một sự bảo đảm quan trọng trong trường hợp mối quan hệ tốt đẹp đó không phát triển, đó là phải tạo ra trở ngại cho sự tái xuất hiện của bất kỳ chính sách đế quốc nào thực sự gây đe dọa đến từ Nga.
Theo sau đó, sự hỗ trợ chính trị và kinh tế đối với các quốc gia mới độc lập và quan trọng là một phần không thể thiếu của chiến lược rộng lớn hơn ở khu vực Á-Âu. Một Ukraine có chủ quyền vững vàng, trong khi tái định nghĩa chính mình là một quốc gia Trung Âu và tham gia hội nhập chặt chẽ hơn với Trung Âu, là một phần rất quan trọng của chính sách đó, cùng với đó là thiết lập quan hệ gần gũi hơn với các quốc gia chủ chốt về mặt địa chiến lược như Azerbaijan và Uzbekistan, bên cạnh một nỗ lực chung nhằm mở rộng vùng Trung Á (mặc cho sự cản trở của Nga) ra cho kinh tế thế giới.
Đầu tư quốc tế quy mô lớn vào khu vực Biển Caspi-Trung Á tiếp cận được có thể không chỉ giúp củng cố sự độc lập của các quốc gia mới ở đây mà về lâu dài còn mang lại lợi ích cho nước Nga hậu đế quốc và dân chủ. Việc khai thác các nguồn năng lượng và khoáng sản sẵn có sẽ tạo nên sự thịnh vượng, thúc đẩy mong muốn ổn định và an ninh lớn hơn trong khu vực, đồng thời có thể làm giảm những rủi ro xung đột tại Balkan. Lợi ích đến từ việc thúc đẩy sự phát triển khu vực, được hỗ trợ bằng các khoản đầu tư bên ngoài, cũng có thể lan tỏa ra các tỉnh lân cận của Nga, vốn có xu hướng kém phát triển kinh tế hơn. Ngoài ra, một khi giới lãnh đạo mới của khu vực nhận ra rằng Nga bằng lòng hội nhập vào khu vực và thị trường toàn cầu, họ sẽ ít e ngại hơn những hệ quả chính trị mà việc quan hệ kinh tế gần gũi với Nga có thể gây ra. Dần dà, một nước Nga phi đế quốc nhờ đó có thể được chấp thuận như một đối tác kinh tế có ưu thế trong khu vực.
Để thúc đẩy một khu vực Nam Caucasus và Trung Á ổn định và độc lập, nước Mỹ phải cẩn thận, tránh thờ ơ với Thổ Nhĩ Kỳ và nên khám phá xem việc phát triển mối quan hệ Mỹ-Iran có khả thi hay không. Một Thổ Nhĩ Kỳ cảm thấy bị châu Âu “cho ra rìa” trong khi bản thân nó muốn gia nhập sẽ trở thành một Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo hơn, có khả năng chống lại sự mở rộng NATO và ít muốn hợp tác với phương Tây trong việc tìm cách làm ổn định và hội nhập một Trung Á thế tục vào cộng đồng thế giới.
Do vậy, nước Mỹ nên sử dụng ảnh hưởng của mình tại châu Âu để khuyến khích Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập EU, và nên thường xuyên đặc biệt đối xử với Thổ Nhĩ Kỳ như một quốc gia châu Âu, miễn là hoạt động chính trị nội bộ của nước này không nhanh chóng chuyển sang khuynh hướng Hồi giáo. Các cuộc hội đàm thường xuyên với Ankara liên quan đến tương lai của lưu vực Biển Caspi và vùng Trung Á có thể giúp hình thành nơi người Thổ Nhĩ Kỳ cảm nhận về một mối quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ. Mỹ cũng nên ủng hộ mạnh mẽ tham vọng của Thổ Nhĩ Kỳ để có đường ống dẫn dầu từ Baku (Azerbaijan) đến Ceyhan ở ven biển Địa Trung Hải, giúp Thổ Nhĩ Kỳ đóng vai trò một cửa ra chính cho các nguồn năng lượng thuộc vùng Biển Caspi.
Ngoài ra, sẽ không thu được lợi ích nếu Mỹ duy trì sự thù địch với Iran. Bất kỳ nỗ lực hòa giải kết cuộc nào cũng nên dựa trên sự công nhận lợi ích chiến lược song phương đến từ việc duy trì ổn định những gì Mỹ hiện có với Iran, nhất là trong một môi trường khu vực biến động. Phải thừa nhận rằng, bất kỳ một sự hòa giải nào như vậy phải được cả hai bên theo đuổi chứ không phải chỉ là một thiện ý mà bên này thu được từ bên kia. Một Iran không chống đối phương Tây ở mức quá khích, dù họ có động lực tôn giáo mạnh mẽ ra sao, vẫn nằm trong vòng lợi ích của Mỹ. Trong khi đó, lợi ích lâu dài của Hoa Kỳ tại khu vực Á-Âu tốt hơn nên được phụng sự bằng việc từ bỏ những phản đối hiện có của Hoa Kỳ đối với mối hợp tác kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ-Iran ngày càng chặt chẽ hơn, đặc biệt là trong việc xây dựng các đường ống dẫn dầu mới, cũng như đối với việc xây dựng các liên kết khác giữa Iran, Azerbaijan và Turkmenistan. Sự tham gia lâu dài của Mỹ trong việc hỗ trợ những dự án như vậy cũng sẽ mang lại lợi ích cho quốc gia2.
Vai trò tiềm năng của Ấn Độ cũng cần được nhấn mạnh, tuy rằng nước này hiện là một đấu thủ tương đối thụ động trên phông cảnh lục địa Á-Âu. Ấn Độ bị ngăn cản về mặt địa chính trị bởi liên minh Trung Quốc-Pakistan, trong khi một nước Nga suy yếu không thể cho nó những ủng hộ chính trị như Liên Xô đã từng. Tuy nhiên, sự tồn tại của nền dân chủ tại nước này là rất quan trọng ở chỗ nó là sự bác bỏ hiệu quả hơn nhiều so với một mớ tranh luận học thuật việc việc liệu chăng nhân quyền và dân chủ chỉ có thể tồn tại trong phạm vi phương Tây. Ấn Độ chứng minh được rằng các “giá trị châu Á” phi dân chủ, được tuyên truyền bởi các phát ngôn viên từ Singapore cho tới Trung Quốc, chỉ đơn giản là phi dân chủ chứ không nhất thiết phải là đặc tính của châu Á. Sự thất bại của Ấn Độ, với biểu hiện tương tự, có thể thổi bay những viễn cảnh dân chủ và làm cho một cường quốc đóng góp vào sự cân bằng rộng lớn hơn tại châu Á bị loại khỏi bối cảnh chung, đặc biệt là khi Trung Quốc trỗi dậy với ưu thế địa chính trị của mình. Theo đó, quá trình tham gia tăng tiến của Ấn Độ vào các cuộc thảo luận liên quan đến ổn định khu vực, nhất là về tương lai Trung Á, là rất kịp thời, chưa kể đến việc thúc đẩy kết nối song phương trực tiếp hơn giữa các cộng đồng quốc phòng Mỹ và Ấn Độ.
Đa nguyên địa chính trị ở khu vực Á-Âu sẽ không thể đạt được cũng như sẽ không ổn định nếu không có sự am hiểu chiến lược sâu sắc giữa Mỹ và Trung Quốc. Theo sau đó, một chính sách ràng buộc Trung Quốc vào đối thoại chiến lược quan trọng - có lẽ với nỗ lực ba bên bao gồm cả Nhật Bản - là bước đầu tiên cần thiết để nâng cao mối quan tâm của Trung Quốc cho một dàn xếp với Mỹ, trong đó phản ánh một số lợi ích địa chính trị (đặc biệt ở vùng Đông Bắc Á và vùng Trung Á) mà hai quốc gia chia sẻ. Đồng thời, Mỹ cũng có trách nhiệm xóa bỏ bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy chính mình còn chưa chắc chắn đối với chính sách Đại Trung Hoa, nhằm tránh cho vấn đề Đài Loan trở nên tồi tệ hơn, đặc biệt là sau khi Trung Quốc tiếp quản Hồng Kông. Vì lẽ ấy, mối quan tâm của chính Trung Quốc là làm sao cho sự tiếp quản đó thể hiện thành công nguyên tắc: ngay cả một Đại Trung Hoa cũng sẽ khoan dung và bảo vệ sự đa dạng ngày càng tăng trong những dàn xếp chính trị nội bộ của chính mình.
Như đã phản bác trước đó trong các Chương 4 và Chương 6, bất kỳ liên minh Trung Quốc-Nga-Iran nào chống lại Mỹ đều không khả thi hay thi thoảng có gì đó hàm ý nhiều hơn một vài biểu hiện chiến thuật. Quan trọng là Hoa Kỳ phải thỏa thuận với Trung Quốc theo cách không khiến cho Bắc Kinh đi theo con đường đó. Trong bất kỳ liên minh “chống bá quyền” nào như vậy, Trung Quốc sẽ luôn là mấu chốt. Họ là thành phần lãnh đạo, quan trọng nhất và năng động nhất. Một liên minh như vậy chỉ có thể hình thành xoay quanh một Trung Quốc không bằng lòng, phẫn chí và thù nghịch. Cả Nga lẫn Iran đều không đủ điều kiện để trở thành cục nam châm trung tâm cho liên minh đó.
Do đó, một cuộc đối thoại giữa Mỹ và Trung Quốc - liên quan đến các khu vực mà cả hai quốc gia đều mong muốn không bị các nước bá quyền đầy tham vọng thống trị - là rất khẩn thiết. Nhưng để đạt được tiến triển này, đối thoại nên nghiêm túc và được duy trì liên tục. Trong quá trình giao thiệp, các vấn đề gây tranh cãi hơn liên quan đến Đài Loan và thậm chí đến nhân quyền nên được chuyển tải thuyết phục hơn. Thực vậy, có thể chỉ ra thật rõ, một cách đáng tin cậy, rằng việc tự do hóa bên trong Trung Quốc không hoàn toàn là vấn đề nội bộ của riêng họ, vì chỉ có một Trung Quốc thịnh vượng và dân chủ mới có triển vọng quyến dụ Đài Loan trong hòa bình. Bất kỳ nỗ lực tái thống nhất dùng vũ lực nào không chỉ đặt mối quan hệ Mỹ-Trung vào vòng nguy hiểm mà còn chắc chắn tạo ra hệ quả bất lợi cho Trung Quốc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và củng cố sự phát triển của nó. Tham vọng đứng đầu khu vực và địa vị toàn cầu của chính Trung Quốc, theo đó, có thể đổ vỡ.
Mặc dù đang trỗi dậy thành một thế lực thống trị khu vực, Trung Quốc vẫn chưa thể trở thành cường quốc toàn cầu trong thời gian dài sắp đến (vì những lý do đã được trình bày trong Chương 6); đồng thời những nỗi lo sợ hoang tưởng đối với việc Trung Quốc trở thành thế lực toàn cầu đang nuôi dưỡng chứng hoang tưởng tự đại trong chính nước này, và có lẽ dần trở thành lời tiên tri tự ứng nghiệm cho mối thù địch sâu sắc giữa họ và Mỹ. Theo đó, Trung Quốc không nên bị ngăn cản hay xoa dịu. Họ nên được đối xử với sự tôn trọng, ở tư cách một quốc gia đang phát triển lớn nhất thế giới, hoặc ít ra cũng là một quốc gia thành công. Vai trò địa chính trị của Trung Quốc không chỉ gói gọn ở Viễn Đông mà còn có thể mở rộng ra toàn bộ khu vực Á-Âu. Do đó, hoàn toàn hợp lý khi kết nạp Trung Quốc vào hội nghị thường niên G-7 của các quốc gia lãnh đạo thế giới, đặc biệt là từ khi sự tham gia của Nga đã mở rộng trọng tâm của hội nghị từ kinh tế sang chính trị.
Một khi Trung Quốc trở nên hội nhập hơn vào hệ thống thế giới - do đó, về mặt chính trị, ít có khả năng và xu hướng khai thác ưu thế khu vực thật từ từ - thì theo sau đó sự trỗi dậy về mặt ảnh hưởng không chính thức của nước này trong các khu vực có lợi ích lịch sử đối với Trung Quốc có thể trở thành một phần của cấu trúc Á-Âu đang trỗi dậy xét trên phương diện dàn xếp địa chính trị. Dù cho một bán đảo Triều Tiên thống nhất có do dự trước tầm ảnh hưởng như vậy hay không còn phụ thuộc nhiều vào mức độ hòa giải Nhật-Triều (mà nước Mỹ nên chủ động thúc đẩy); nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, tái thống nhất Triều Tiên mà không thông qua dàn xếp với Trung Quốc là không nên.
Một Đại Trung Hoa tại một thời điểm nào đó chắc chắn sẽ chú trọng giải quyết vấn đề Đài Loan, nhưng mức độ mà Trung Quốc tham gia vào một tập hợp các liên kết ngày càng ràng buộc về chính trị và kinh tế quốc tế cũng có một tác động tích cực lên bản chất chính trị nội bộ của nước này. Nếu việc Trung Quốc tiếp quản Hồng Kông chứng minh được nó không có xu hướng đàn áp nào, công thức của Đặng Tiểu Bình cho Đài Loan về “một quốc gia, hai chế độ” có thể được tái định nghĩa thành “một quốc gia, đa chế độ”.
Điều đó có thể khiến cho việc tái sáp nhập dễ chấp nhận hơn đối với những bên quan ngại, vốn một lần nữa củng cố quan điểm rằng nếu không có sự tiến bộ chính trị của chính Trung Quốc, sự tái thống nhất trong hòa bình thành Đại Trung Hoa là bất khả thi.
Trong bất kỳ tình huống nào, vì các lý do lịch sử lẫn địa chính trị, Trung Quốc nên cân nhắc xem nước Mỹ là đồng minh tự nhiên của mình. Không như Nhật Bản và Nga, Mỹ không có bất kỳ ý đồ lãnh thổ nào đối với Trung Quốc, và, không như Vương quốc Anh, người Mỹ chưa bao giờ hạ nhục Trung Quốc. Ngoài ra, nếu không có sự đồng thuận chiến thuật vững vàng với Mỹ, Trung Quốc không thể nào tiếp tục thu hút nguồn đầu tư nước ngoài khổng lồ rất cần thiết cho tăng trưởng kinh tế để mà từ đó nước này đạt được ưu thế khu vực. Vì lý do tương tự, nếu không có sự dàn xếp chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc như một “mỏ neo” phương Đông cho Mỹ can thiệp vào khu vực Á-Âu, Mỹ sẽ không có một địa chiến lược nào cho châu Á đại lục, và nếu không có một địa chiến lược cho châu Á, Mỹ sẽ không có một địa chiến lược cho toàn khu vực Á-Âu. Do đó, đối với Mỹ, thế lực của Trung Quốc trong khu vực, được kết nạp vào một thiết chế hợp tác quốc tế rộng lớn hơn, có thể là một tài sản địa chiến lược vô cùng quan trọng - có thể quan trọng ngang hàng với châu Âu và có sức nặng hơn Nhật Bản trong việc đảm bảo ổn định cho khu vực Á-Âu.
Tuy nhiên, không như tình hình của châu Âu, những vùng dân chủ có được ở phía đông sẽ không phát triển sớm. Điều đó khiến cho nỗ lực của Mỹ trở nên quan trọng hơn đối với việc nuôi dưỡng mối quan hệ chiến thuật sâu rộng với Trung Quốc dựa trên sự thừa nhận rõ ràng rằng một Nhật Bản dân chủ và thành công về mặt kinh tế là đối tác toàn cầu và là đối tác Thái Bình Dương quan trọng nhất của Mỹ. Tuy rằng Nhật Bản không thể trở thành một siêu cường khu vực vượt trội ở châu Á do những ác cảm khu vực mạnh mẽ mà nó gợi nhắc, nước Nhật có thể trở thành cường quốc quốc tế hàng đầu. Tokyo có thể có vai trò có ảnh hưởng toàn cầu bằng cách hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ liên quan đến cái có thể được gọi là những vấn đề trong các mối quan tâm toàn cầu mới, trong khi né tránh bất kỳ nỗ lực tự trở thành một thế lực trong khu vực có thể là vô ích hay thậm chí phản tác dụng. Nhiệm vụ chính trị của Mỹ, do đó, là hướng Nhật Bản đi theo hướng vừa nêu. Một hiệp định thương mại tự do Mỹ-Nhật, giúp tạo ra một không gian kinh tế chung, có thể củng cố liên kết và nâng đỡ mục đích này, và những ích lợi nó mang lại nên được đôi bên cùng kiểm chứng.
Thông qua một mối quan hệ chính trị gần gũi với Nhật Bản, Mỹ có thể thu xếp an toàn hơn các tham vọng khu vực của Trung Quốc, trong khi phản đối những biểu hiện ngày càng chuyên quyền hơn của nước này. Chỉ trên cơ sở đó, một sự dàn xếp ba bên phức tạp, bao gồm thế lực toàn cầu của Mỹ, ưu thế khu vực của Trung Quốc, và vị thế lãnh đạo quốc tế của Nhật Bản, mới có thể được tính đến. Tuy nhiên, dàn xếp địa chiến lược mở rộng đó có thể bị xói mòn với việc mở rộng thiếu khôn ngoan của hợp tác quân sự Mỹ-Nhật. Vai trò trung tâm của Nhật Bản không nên giống như vai trò của một hàng không mẫu hạm không thể chìm của Mỹ ở Viễn Đông, cũng không nên trở thành đối tác quân sự châu Á chủ chốt của Mỹ hay một cường quốc khu vực tiềm năng ở châu Á. Những nỗ lực sai lầm để thúc đẩy bất kỳ những gì nói trên sẽ khiến nước Mỹ bị tống khỏi khu vực châu Á, làm vô hiệu hóa viễn cảnh đạt được sự đồng thuận chiến lược với Trung Quốc, và do đó làm thất bại khả năng củng cố đa nguyên địa chính trị ổn định xuyên lục địa Á-Âu.
HỆ THỐNG AN NINH XUYÊN CHÂU ÂU
Sự ổn định của đa nguyên địa chính trị tại lục địa Á-Âu, vốn có tính ngăn ngừa sự xuất hiện của một thế lực thống trị đơn lẻ, nên được củng cố bằng sự xuất hiện, có lẽ sẽ sớm xảy ra trong thế kỷ tới, của Hệ thống An ninh Xuyên lục địa Á-Âu (TESS). Hiệp định như vậy nên bao gồm một NATO mở rộng, liên kết thông qua một hiến chương hợp tác với Nga và Trung Quốc cũng như Nhật Bản (có thể kết nối với Hoa Kỳ qua một hiệp ước an ninh song phương). Nhưng để đạt được điều đó, NATO trước hết phải mở rộng đồng thời lôi kéo Nga vào một khuôn khổ hợp tác an ninh khu vực lớn hơn. Ngoài ra, người Mỹ và Nhật Bản phải tham khảo, bàn bạc và hợp tác chặt chẽ trong việc thiết lập một đối thoại chính trị-an ninh ba bên ở Viễn Đông có Trung Quốc tham gia. Kết cuộc, đàm phán an ninh ba bên Mỹ-Nhật-Trung có thể có thêm sự tham gia của nhiều thành viên châu Á và sau đó dẫn đến một cuộc đối thoại giữa họ và Tổ chức An ninh và Hợp tác ở châu Âu. Đổi lại, một cuộc đối thoại như vậy có thể mở đường cho một loạt các hội nghị của tất cả các quốc gia châu Âu và châu Á, từ đây khởi động quá trình thiết chế hóa một hệ thống an ninh xuyên lục địa.
Theo thời gian, một cấu trúc chính thức hơn có thể bắt đầu hình thành, thúc đẩy sự xuất hiện lần đầu tiên của Hệ thống An ninh xuyên Á-Âu bao trùm toàn bộ lục địa. Sự định hình của hệ thống này, xác định tính chất của nó và sau đó thiết chế hóa nó, có thể trở thành sáng kiến kiến trúc chính của thập kỷ tới, một khi các chính sách được nêu ra trước đó đã tạo được các điều kiện tiên quyết cần thiết. Một cơ cấu tổ chức bảo mật xuyên lục địa rộng lớn như vậy cũng có khả năng cần đến một ủy ban an ninh thường trực, bao gồm các thực thể Á-Âu quan trọng, nhằm tăng cường khả năng của TESS sao cho có thể thúc đẩy hợp tác hiệu quả trong các vấn đề quan trọng đối với sự ổn định toàn cầu. Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, liên bang Nga và Ấn Độ, cũng như một số quốc gia khác, có thể cùng nhau đóng vai trò là cốt lõi của một hệ thống xuyên lục địa có cấu trúc chặt chẽ hơn như vậy. Sự xuất hiện của TESS cuối cùng có thể dần dần giảm bớt một số gánh nặng của nước Mỹ, ngay cả khi vẫn duy trì vai trò quyết định của mình với tư cách là nước phân xử và trọng tài của lục địa Á-Âu.
NGOÀI PHẠM VI SIÊU CƯỜNG TOÀN CẦU CUỐI CÙNG
Về lâu dài, chính trị toàn cầu chắc chắn sẽ ngày càng trở nên không thích hợp đối với sự tập trung bá quyền trong tay một quốc gia duy nhất. Do đó, Mỹ không chỉ là siêu cường toàn cầu thực sự đầu tiên, cũng như duy nhất, mà còn có khả năng là siêu cường cuối cùng.
Điều đó không chỉ vì mối liên hệ giữa các quốc gia đang dần trở nên xuyên suốt hơn mà còn bởi vì sự hiểu biết về tư cách quyền lực đang ngày càng lan tỏa, được chia sẻ nhiều hơn và ít bị ràng buộc hơn bởi biên giới quốc gia. Sức mạnh kinh tế cũng có khả năng trở nên phân tán hơn. Trong những năm tới, không một cường quốc nào có khả năng chiếm 30% GDP thế giới hoặc hơn mà Mỹ duy trì trong suốt phần lớn thế kỷ này, không nói về đỉnh cao 50% mà nó đạt được vào năm 1945. Ước tính cho thấy đến cuối thập kỷ này, Mỹ vẫn sẽ chiếm khoảng 20% GDP toàn cầu, có lẽ giảm xuống còn khoảng 10-15% vào năm 2020 khi các cường quốc khác như châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản tăng mức chia sẻ liên đới của họ lên ít nhiều bằng mức độ của Mỹ. Nhưng sự đứng đầu nền kinh tế toàn cầu của một thực thể duy nhất, điều mà nước Mỹ đã đạt được trong một khoảng thời gian dài của thế kỷ này, là không thể, và điều đó rõ ràng có ý nghĩa quân sự và chính trị sâu rộng.
Hơn nữa, đặc tính đa quốc gia và đặc biệt của xã hội Mỹ đã giúp Mỹ dễ dàng phổ cập quyền bá chủ của mình hơn mà không để nó có vẻ mang nặng tính dân tộc chủ nghĩa. Ví dụ, nếu Trung Quốc nỗ lực tìm kiếm vị thế đứng đầu toàn cầu, họ chắc chắn sẽ bị xem là muốn áp đặt quyền bá chủ quốc gia. Nói một cách đơn giản, bất kỳ ai cũng có thể trở thành người Mỹ, nhưng chỉ người Trung Quốc mới có thể là người Trung Quốc và điều đó đặt ra một rào cản bổ sung và quan trọng nữa cho bất kỳ quyền bá chủ toàn cầu mang bản chất dân tộc nào.
Theo đó, một khi quyền lãnh đạo của Mỹ bắt đầu lu mờ dần, ưu thế toàn cầu hiện tại của Mỹ không thể được nhân rộng bởi bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào. Vì vậy, câu hỏi quan trọng cho tương lai là nước Mỹ sẽ để lại gì cho thế giới như một di sản lâu dài từ địa vị hàng đầu của nó?
Câu trả lời phụ thuộc một phần vào việc vị thế số một đó kéo dài trong bao lâu và vào việc nước Mỹ tích cực dựng thành một khuôn khổ các mối quan hệ đối tác quyền lực quan trọng đến mức nào, để mà theo thời gian có thể được thiết chế hóa chính thức hơn. Trên thực tế, cửa sổ dẫn đến cơ hội lịch sử cho nước Mỹ khai thác trên tinh thần xây dựng có lẽ chỉ mở ra trong chóng vánh, vì cả lý do trong và ngoài nước. Một nền dân chủ dân túy thực sự chưa bao giờ đạt được uy quyền quốc tế. Việc theo đuổi quyền lực, đặc biệt là chi phí kinh tế và hy sinh con người mà việc thực thi quyền lực như vậy thường đòi hỏi, nói chung không tương thích với các đặc tính dân chủ. Dân chủ hóa đối đầu với những huy động nguồn lực của đế quốc.
Thật vậy, sự không bất định quan trọng liên quan đến tương lai có phải là liệu Mỹ có thể trở thành siêu cường đầu tiên không thể hoặc không muốn sử dụng sức mạnh của mình hay không. Liệu nó sẽ trở thành một cường quốc toàn cầu bất lực?
Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy chỉ một thiểu số nhỏ (13%) người Mỹ ủng hộ đề xuất “với tư cách là siêu cường duy nhất còn lại, Hoa Kỳ nên tiếp tục trở thành nhà lãnh đạo thế giới nắm giữ vị thế ‘chủ sự’ giải quyết các vấn đề quốc tế.” Đa số áp đảo (74%) muốn Mỹ “chia sẻ đều ra cho các quốc gia khác cùng nỗ lực giải quyết các vấn đề quốc tế.”3
Hơn nữa, khi nước Mỹ trở thành một xã hội ngày càng đa văn hóa, nó có thể gặp khó khăn hơn trong việc đạt đến mức độ đồng thuận cao đối với các vấn đề chính sách đối ngoại, ngoại trừ trong trường hợp mối đe dọa trực tiếp ở bên ngoài thực sự lớn và được nhận thức rộng rãi. Một sự đồng thuận như vậy nói chung đã tồn tại trong suốt Thế chiến thứ hai và ngay cả trong Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, nó bắt nguồn không chỉ từ những giá trị dân chủ được chia sẻ sâu sắc, điều mà công chúng cảm thấy đang bị đe dọa, mà còn trong mối quan hệ văn hóa và sắc tộc đối với các nạn nhân châu Âu chủ yếu của chế độ toàn trị thù địch.
Trong trường hợp không có thách thức bên ngoài tương đương, xã hội Mỹ có thể gặp khó khăn nhiều hơn nhằm đạt được thỏa thuận về các chính sách đối ngoại vốn không liên quan trực tiếp đến các đức tin trọng tâm và sự cảm thông văn hóa-dân tộc được chia sẻ rộng rãi và điều đó vẫn đòi hỏi một sự tham gia đế quốc lâu dài và thỉnh thoảng rất tốn kém. Ngược lại, hai quan điểm cực kỳ khác nhau về ý nghĩa chiến thắng lịch sử của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh có thể thu hút hơn về mặt chính trị: một quan điểm cho rằng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh chứng tỏ sự giảm thiểu đáng kể những can thiệp toàn cầu của Mỹ, bất kể hậu quả đối với vị thế toàn cầu của nước này; và quan điểm thứ hai cho rằng đã đến thời điểm của chủ nghĩa đa phương quốc tế đích thực, mà nước Mỹ thậm chí nên mang lại một số chủ quyền cho nó. Cả hai thái cực đòi hỏi sự trung thành của các cử tri Mỹ tận tụy đi bầu cử.
Tổng quát hơn, sự thay đổi văn hóa ở Mỹ có thể vô nghĩa đối với việc áp dụng bền vững quyền lực đế quốc thực sự ở nước ngoài. Để thực thi quyền lực đó, cần phải có động lực học thuyết, kèm theo cam kết trí tuệ và tính ái quốc đều ở mức độ cao. Tuy nhiên, văn hóa thống trị của đất nước đã ngày càng trở nên gắn bó với nền giải trí mang tính đại chúng, vốn bị chi phối mạnh bởi các chủ đề về chủ nghĩa khoái lạc cá nhân và thoát ly xã hội. Ảnh hưởng tích tụ đã làm cho việc huy động sự đồng thuận chính trị cần thiết cho sự lãnh đạo vững chắc và thỉnh thoảng tốn kém của Mỹ ở nước ngoài ngày càng khó khăn hơn. Truyền thông đại chúng đã và đang đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn đề đó, tạo ra một nỗi sợ mạnh mẽ chống lại bất kỳ việc sử dụng vũ lực có chọn lọc nào có thể gây ra thương vong thậm chí chỉ ở mức thấp.
Ngoài ra, cả Mỹ và Tây Âu đều gặp khó khăn trong việc đối phó với hậu quả văn hóa của chủ nghĩa khoái lạc xã hội và sự suy giảm nghiêm trọng tính trung tâm của các giá trị dựa trên tôn giáo trong xã hội. (Những tương đồng với sự suy giảm của các hệ thống đế quốc được tóm tắt trong Chương 1 làm nổi bật vấn đề đó.) Kết quả của cuộc khủng hoảng văn hóa đã được kết hợp cùng sự lây lan của ma túy và, đặc biệt ở Mỹ, mối liên hệ của nó với vấn đề chủng tộc. Cuối cùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn có thể theo kịp những kỳ vọng vật chất ngày càng tăng, vốn được kích thích bởi một nền văn hóa đặt ưu tiên cho tiêu dùng. Thật không ngoa khi nói rằng một nỗi lo ngại mang tính lịch sử, thậm chí có thể là bi quan, đang ngày càng dễ thấy hơn trong mọi khía cạnh của xã hội phương Tây.
Gần nửa thế kỷ trước, một nhà sử học nổi tiếng, Hans Kohn, người đã nghiên cứu trải nghiệm bi thảm của hai cuộc thế chiến và hậu quả gây suy nhược của thử thách toàn trị, lo lắng rằng phương Tây có thể đã trở nên “mệt mỏi và kiệt sức.” Tất nhiên, ông ta lo sợ rằng:
Con người ở thế kỷ 20 đã trở nên kém tự tin hơn so với tiền bối của mình ở thế kỷ 19. Anh ta đã chứng kiến những thế lực đen tối của lịch sử theo trải nghiệm của chính mình, Những thứ dường như thuộc về quá khứ đã xuất hiện trở lại: đức tin cuồng tín, những lãnh đạo không thể sai lầm, nô lệ và tàn sát, sự hủy diệt đến gốc rễ toàn bộ dân số, sự tàn nhẫn và man rợ.4
Sự thiếu tự tin đó đã được tăng cường vì những thất vọng lan rộng dành cho những hệ quả theo sau sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh. Thay vì một “trật tự thế giới mới” dựa trên đồng thuận và hài hòa, “những thứ dường như thuộc về quá khứ” lại bất ngờ trở thành tương lai. Mặc dù các cuộc xung đột sắc tộc-dân tộc có thể không còn gây ra nguy cơ chiến tranh trung tâm, nhưng chúng đe dọa đến hòa bình ở những nơi quan trọng trên toàn cầu. Do đó, chiến tranh khó có thể trở thành dĩ vãng trong một thời gian tới. Với những quốc gia được ưu đãi với năng lực công nghệ cao và nhờ vậy bị hạn chế khỏi nguy cơ tự tàn hoại hay vị kỷ, chiến tranh có thể trở thành một hiện tượng xa xỉ mà chỉ những dân tộc nghèo trên thế giới này mới có thể được “hưởng”. Trong tương lai gần, hai phần ba nhân loại bị bần cùng hóa có thể không có sự thôi thúc nào từ những ràng buộc đặc quyền.
Điều đáng chú ý là những xung đột và hành động khủng bố quốc tế cho đến nay vẫn chưa có việc sử dụng đáng chú ý của bất kỳ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào. Việc tự kiềm chế đó có thể tồn tại trong bao lâu là không thể dự đoán được, nhưng tính sẵn có ngày càng tăng của các phương tiện gây ra thương vong lớn (như sử dụng vũ khí hạt nhân hoặc sinh-hóa) chắc chắn làm tăng xác suất hành động của không chỉ các quốc gia mà còn cả các nhóm có tổ chức.
Nói tóm lại, nước Mỹ với tư cách là cường quốc hàng đầu thế giới phải đối mặt với một cửa sổ cơ hội lịch sử nhỏ hẹp. Khoảnh khắc hiện tại của hòa bình tương đối trên toàn cầu có thể khá ngắn. Viễn cảnh này nhấn mạnh đến nhu cầu cấp thiết là người Mỹ nên tham gia vào một thế giới đang thận trọng tập trung làm tăng cường tính ổn định địa chính trị quốc tế và có khả năng hồi sinh ở phương Tây một ý thức lạc quan lịch sử. Sự lạc quan đó đòi hỏi năng lực thể hiện để đối phó đồng thời với các thách thức xã hội nội tại và địa chính trị bên ngoài.
Tuy nhiên, sự nhen nhóm của tính lạc quan và tính phổ quát của các giá trị phương Tây không chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ và châu Âu. Nhật Bản và Ấn Độ chứng minh rằng các khái niệm về quyền con người và tính trung tâm của thí nghiệm dân chủ cũng có thể có giá trị trong bối cảnh châu Á, cả ở những nước phát triển cao và những nước đang phát triển. Sự thành công dân chủ liên tục của Nhật Bản và Ấn Độ, do đó, cũng có tầm quan trọng to lớn trong việc duy trì quan điểm tự tin hơn về hình dạng chính trị toàn cầu trong tương lai. Thật vậy, kinh nghiệm của những nước này, cũng như của Hàn Quốc và Đài Loan, cho thấy với việc tăng trưởng kinh tế liên tục tăng, đi cùng với áp lực thay đổi từ bên ngoài để nước này ngày càng cởi mở hơn với thế giới, hẳn là rồi sẽ dẫn đến tiến trình dân chủ hóa của hệ thống Trung Quốc.
Đáp ứng những thách thức này là gánh nặng của Mỹ cũng như trách nhiệm duy nhất của nó. Với thực tại của nền dân chủ Mỹ, một phản ứng hiệu quả đòi hỏi nước này phải làm sao cho công chúng thấu hiểu được tầm quan trọng liên dẫn của sức mạnh Mỹ trong việc hình thành một khuôn khổ mở rộng của hợp tác địa chính trị ổn định, thứ sẽ đồng thời ngăn ngừa thành công tình trạng hỗn loạn toàn cầu và sự trỗi dậy của một thách thức quyền lực mới. Hai mục tiêu này, ngăn ngừa tình trạng hỗn loạn toàn cầu và cản trở sự xuất hiện của một đối thủ quyền lực, là không thể tách rời khỏi định nghĩa lâu dài hơn về mục đích Mỹ phải tham gia mọi vấn đề thế giới, đặc biệt là tạo ra một khuôn khổ lâu dài của hợp tác địa chính trị toàn cầu.
Thật không may, cho đến nay, những nỗ lực nhằm làm rõ một mục tiêu trung tâm và toàn cầu mới cho Hoa Kỳ, sau khi chấm dứt Chiến tranh Lạnh, là một chiều. Mỹ thất bại trong việc liên kết nhu cầu cải thiện điều kiện con người với sự bắt buộc phải bảo tồn tính trung tâm của quyền lực Mỹ trong các vấn đề thế giới. Một vài nỗ lực gần đây có thể xác định được. Trong hai năm đầu tiên của chính quyền Clinton, sự vận động của “chủ nghĩa đa phương quyết đoán” là không đủ, xét trên thực tế cơ bản của quyền lực đương đại. Sau đó, một trọng tâm khác nhấn vào quan niệm Mỹ nên tập trung vào việc “mở rộng dân chủ” toàn cầu đã không thỏa đáng tính đến tầm quan trọng liên tục đối với Mỹ trong việc duy trì sự ổn định toàn cầu hoặc thậm chí thúc đẩy một số mối quan hệ quyền lực thiết thực (nhưng đáng tiếc là không “dân chủ”), như với Trung Quốc.
Là ưu tiên trung tâm của Hoa Kỳ, các yêu cầu giúp đỡ tập trung hẹp hơn thậm chí còn ít thỏa đáng hơn, chẳng hạn như những yêu cầu tập trung vào việc xóa bỏ bất công phổ biến trong phân phối thu nhập toàn cầu, việc hình thành “mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” đặc biệt với Nga, hoặc ngăn chặn sự phổ biến vũ khí. Các lựa chọn thay thế khác - theo đó Mỹ nên tập trung bảo vệ môi trường hoặc hẹp hơn là chống lại chiến tranh cục bộ - cũng có xu hướng bỏ qua những thực tại trung tâm của quyền lực toàn cầu. Do đó, không có công thức nào nêu trên giải quyết đầy đủ được nhu cầu tạo ra sự ổn định địa chính trị toàn cầu ở mức tối thiểu như là nền tảng thiết yếu cho sự kéo dài đồng thời quyền bá chủ Mỹ và mối ác cảm rõ ràng đến từ những hỗn loạn quốc tế.
Tóm lại, mục tiêu chính sách của Hoa Kỳ- đáng tiếc là phải có hai mặt: duy trì vị trí thống trị của riêng Mỹ trong vòng ít nhất một thế hệ và tốt nhất là kéo hơn thế; và tạo ra một khuôn khổ địa chính trị có thể hấp thụ những cú sốc và căng thẳng không thể tránh khỏi của sự thay đổi chính trị-xã hội đồng thời phát triển thành cốt lõi địa chính trị của trách nhiệm chung trong quản lý hòa bình thế giới. Một pha hợp tác mở rộng dần dần với các đối tác Á-Âu, cả được Mỹ kích thích và phân xử, diễn ra lâu dài cũng có thể giúp tăng cường điều kiện tiên quyết để cuối cùng nâng cấp các cấu trúc Liên hợp quốc hiện có và ngày càng già cỗi. Một sự phân phối trách nhiệm và đặc quyền mới sau đó có thể tính đến thực tế thay đổi của quyền lực toàn cầu, vốn rất khác so với năm 1945.
Những nỗ lực này sẽ nhận thêm lợi thế lịch sử khi được hưởng lợi từ mạng lưới liên kết toàn cầu mới đang phát triển theo cấp số nhân bên ngoài hệ thống quốc gia-dân tộc vốn truyền thống hơn. Đó là mạng lưới - được dệt bởi các tập đoàn đa quốc gia, NGO (các tổ chức phi chính phủ, với nhiều tổ chức có tính chất xuyên quốc gia) và các cộng đồng khoa học, và có được sự củng cố từ Internet - đã tạo ra một hệ thống toàn cầu không chính thức vốn dĩ phù hợp với sự hợp tác toàn cầu được thiết chế hóa và toàn diện hơn.
Theo đó, trong vài thập kỷ tiếp theo, một cấu trúc vận hành của hợp tác toàn cầu, dựa trên thực tế địa chính trị, có thể xuất hiện và dần dần khoác lên lớp áo “nhiếp chính” của thế giới. Bấy giờ, cấu trúc này sẽ phải gánh trách nhiệm đảm bảo sự ổn định và nền hòa bình toàn cầu. Thành công về mặt địa chiến lược theo hướng đi này cũng chính là di sản của nước Mỹ, di sản tương thích với tư cách siêu cường toàn cầu thực sự đầu tiên, duy nhất và cuối cùng.
* * *
1. Một số đề xuất mang tính mang tính xây dựng cho mục đích này đã được khơi lên tại Hội thảo về Mỹ và châu Âu do CSIS tổ chức tại Brussels, Bỉ, tháng 2-1997. Chúng trải rộng từ những nỗ lực chung trong cải cách cơ cấu, được thiết nhằm giảm bớt những thâm hụt trong chính phủ, đến sự phát triển nền tảng công nghiệp quốc phòng của một châu Âu mạnh mẽ hơn, nhằm tăng cường hợp tác quốc phòng xuyên Đại Tây Dương và một vai trò lớn hơn cho châu Âu trong NATO. Một danh sách hữu ích liệt kê những khởi xướng tương tự, hòng thi triển một vai trò châu Âu lớn hơn, có trong cuốn sách của David C. Gompert và F. Stephen Larrabee có nhan đề America and Europe: A Partnership for a New Era (Mỹ và châu Âu: hợp tác cho một kỷ nguyên mới), Santa Monica, California, RAND, 1997.↩︎
2. Thật thích hợp khi trích dẫn lại lời khuyên khôn ngoan của một đồng nghiệp ở CSIS của tôi, Anthony H. Cordesman, người đã cảnh báo chống lại xu hướng người Mỹ đang làm hỏng nhiều việc, kể cả vấn đề quốc gia. Trong bài viết “The American Threat to the United States” (Mối đe dọa từ người Mỹ đối với Hoa Kỳ, tháng 2-1997, tr. 16, được anh diễn thuyết tại Army War College), anh nêu rõ: “Iran, Iraq và Libya là những tình huống khiến Hoa Kỳ phải nhận lấy những chế độ thù địch thực sự hành động nhưng chỉ tung ra những đe dọa hạn chế, và rồi ‘thủ tiêu’ chúng nhưng lại không đi kèm với việc phát triển bất kỳ kịch bản kết thúc nào hữu hiệu cho chiến lược trung và dài hạn. Các nhà hoạch định Hoa Kỳ không thể hy vọng sẽ hoàn toàn cô lập những nhà nước này, và mọi thứ chỉ là vô nghĩa khi cố cư xử với họ theo hướng gán cho họ cái nhãn ‘phiến loạn’ hay ‘khủng bố’… Hoa Kỳ đang sống trong một thế giới màu xám về đạo đức, chúng ta không thể thành công khi cố tách bạch đen-trắng.”↩︎
3. “An Emerging Consensus - A Study of American Public Attitudes on Americas Role in the World” (Một đồng thuận mới nổi: nghiên cứu về thái độ của công chúng Mỹ về vai trò nước Mỹ trên thế giới), College Park: Center for International and Security Studies (Trung tâm nghiên cứu an ninh và quốc tế) thuộc Đại học Maryland, tháng 7-1996). Đáng lưu ý nhưng lại không nhất quán với những nội dung trước đó, nằm trong những nghiên cứu của chính cơ sở này được tiến hành vào đầu năm 1997 (theo điều tra viên Steven Kull), vốn chỉ ra rằng phần đông người Mỹ đồng tình với việc mở rộng NATO (62% thuận, 27% trong số này đặc biệt tán đồng, so với chỉ 29% chống, với 14% kịch liệt chống).↩︎
4. Hans Kohn, The Twentieth Century (Thế kỷ 20), New York, 1949, tr. 53.↩︎