Bàn Cờ Lớn - Chương 06
Chương 6
CHIẾC NEO VIỄN ĐÔNG
Một chính sách hiệu quả của Mỹ đối với khu vực Á-Âu phải có một “mỏ neo” Viễn Đông. Nhu cầu đó sẽ không được đáp ứng nếu Mỹ bị loại trừ hoặc tự loại trừ chính nó khỏi châu Á. Mối quan hệ chặt chẽ với hàng hải Nhật Bản là điều cần thiết cho chính sách toàn cầu của Mỹ, nhưng mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc đại lục cũng là bắt buộc đối với địa chiến lược Á-Âu của Mỹ. Những tác động của thực tế đó cần phải được đối mặt, với những tương tác đang diễn ra ở Viễn Đông giữa ba cường quốc chính là Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ tạo ra một vấn đề khu vực chứa những nguy cơ tiềm tàng và gần như chắc chắn sẽ dẫn đến dịch chuyển kiến tạo địa chính trị.
Đối với Trung Quốc, Mỹ trên khắp Thái Bình Dương nên là một đồng minh tự nhiên vì Mỹ không có toan tính ở châu Á, thậm chí trong lịch sử đã từng phản đối cả Nhật Bản và Nga xâm lấn một Trung Quốc yếu hơn. Trong cách nghĩ của người Trung Quốc, Nhật Bản là kẻ thù chính trong thế kỷ qua; Nga, “vùng đất đói khát” trong tiếng Trung Quốc, từ lâu đã không đáng tin tưởng; và Ấn Độ cũng vậy, đang lờ mờ hiện lên ở tư cách một đối thủ tiềm năng. Theo đó, nguyên tắc “người hàng xóm của hàng xóm là đồng minh” phù hợp với mối quan hệ địa chính trị và lịch sử giữa Trung Quốc và Mỹ.
Tuy nhiên, Mỹ không còn là đối thủ của Nhật Bản trên khắp đại dương mà giờ đây hai bên là đồng minh thân cận. Mỹ cũng có những quan hệ chặt chẽ với Đài Loan và với một số quốc gia Đông Nam Á. Người Trung Quốc cũng nhạy cảm với các giới hạn học thuyết của Mỹ liên quan đến tính chất bên trong của chế độ Trung Quốc hiện tại. Dưới giác độ này, Mỹ cũng được coi là trở ngại chính cho tham vọng của Trung Quốc vốn không chỉ trong việc chiếm thế thượng đẳng trên toàn cầu mà thậm chí còn phải ở phạm vi khu vực. Vậy thì, liệu có thể tránh được một sự va chạm giữa Mỹ và Trung Quốc?
Còn với Nhật Bản, Mỹ là chiếc ô mà núp dưới nó đất nước này có thể phục hồi trong an toàn sau thất bại tàn khốc, lấy lại động lực kinh tế và trên cơ sở đó dần dần đạt được vị trí là một trong những cường quốc hàng đầu thế giới. Nhưng chính thực tế của chiếc ô đó đã đặt ra giới hạn cho quyền tự do hành động của Nhật Bản, tạo ra tình huống nghịch lý: Nhật vừa là một cường quốc thế giới lại vừa là một nước được bảo hộ. Đối với họ, Mỹ tiếp tục là đối tác quan trọng để họ trở thành nước lãnh đạo quốc tế. Nhưng Mỹ cũng là lý do chính khiến Nhật Bản tiếp tục thiếu đi khả năng tự chủ quốc gia trong an ninh quốc phòng. Liệu tình trạng này có thể tồn tại được bao lâu?
Nói cách khác, trong tương lai có thể dự đoán được, hai vấn đề địa chính trị trung tâm quan trọng và liên hệ trực tiếp với nhau sẽ xác định vai trò của Mỹ trong vùng Á-Âu Viễn Đông:
Định nghĩa thực tế và phạm vi chấp nhận được, theo quan điểm của Mỹ, sẽ ra sao đối với sự trỗi dậy tiềm năng của Trung Quốc để trở thành một cường quốc khu vực và tham vọng ngày càng tăng của nó đối với vị thế của một cường quốc toàn cầu?
Khi Nhật Bản tìm cách xác định vai trò toàn cầu cho chính mình, Mỹ nên quản lý các hậu quả khu vực như thế nào về sự suy giảm không thể tránh khỏi trong mức độ bằng lòng của Nhật Bản với vị thế là một nước được Mỹ bảo hộ?
Bối cảnh địa chính trị Đông Á hiện đang được đặc trưng hóa qua các mối quan hệ quyền lực nửa bền vững. Sự lưng chừng này thể hiện một tình trạng cứng rắn bề ngoài nhưng độ linh hoạt lại ở mức tương đối thấp, dễ làm liên tưởng đến sắt hơn là thép. Nó dễ bị tổn thương trước một phản ứng phá hủy dây chuyền do một cú đánh mạnh mẽ gây ra. Ngày nay, Viễn Đông đang trải nghiệm sự vận động kinh tế năng động ở mức phi thường song song với những bất ổn chính trị gia tăng. Tăng trưởng kinh tế châu Á trên thực tế thậm chí có khi còn dự phần vào sự không chắc chắn đó, bởi sự thịnh vượng che khuất các lỗ hổng chính trị của khu vực ngay cả khi nó tăng cường tham vọng quốc gia và nâng cao kỳ vọng xã hội.
Thành tích kinh tế của châu Á không song song với phát triển cá nhân. Chỉ cần một vài thống kê cơ bản là đủ thấy rõ thực tế đó. Chưa đầy bốn thập kỷ trước, Đông Á (bao gồm cả Nhật Bản) chỉ chiếm khoảng 4% trong tổng số GNP của thế giới, trong khi Bắc Mỹ dẫn đầu với khoảng 35-40%; vào giữa những năm 1990, hai khu vực gần bằng nhau (trong khi khu vực lân bang chiếm 25%). Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng của châu Á là chưa từng có trong lịch sử. Các nhà kinh tế đã lưu ý rằng trong giai đoạn công nghiệp hóa cất cánh, Vương quốc Anh mất hơn năm mươi năm và Mỹ chỉ mất chưa đầy năm mươi năm để tăng gấp đôi sản lượng tương ứng trên mỗi đầu người, trong khi cả Trung Quốc và Hàn Quốc đều đạt được mức tăng tương tự trong khoảng mười năm. Trừ ra một số sự gián đoạn lớn trong khu vực, trong vòng một phần tư thế kỷ, châu Á có khả năng vượt xa cả Bắc Mỹ và châu Âu về tổng GNP.
Tuy nhiên, ngoài việc trở thành trung tâm kinh tế thế giới hấp dẫn, châu Á còn là ngọn núi lửa chính trị tiềm tàng. Mặc dù vượt qua châu Âu trong phát triển kinh tế, châu Á vẫn thiếu sót về phát triển chính trị khu vực. Nó thiếu các cấu trúc đa phương hợp tác vốn giữ vai trò chủ đạo trong bối cảnh chính trị châu Âu, giúp làm loãng, hấp thụ và tạo sức chứa cho những xung đột truyền thống về quốc gia, dân tộc và lãnh thổ. Không tổ chức nào ở châu Á có thể so sánh được với Liên minh châu Âu hoặc NATO. Không tổ chức nào trong số ba hiệp hội khu vực là ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), ARE (Diễn đàn Khu vực châu Á, nền tảng đối thoại an ninh chính trị của ASEAN) và APEC (Nhóm hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương) có thể sánh bằng hệ thống mạng lưới đa phương và quan hệ hợp tác khu vực đã gắn kết các thành tố châu Âu với nhau.
Trái lại, châu Á ngày nay là nơi tụ hội lớn nhất thế giới một khối chủ nghĩa dân tộc khổng lồ đang trỗi dậy và thức tỉnh gần đây, được châm thêm dầu nhờ sự tiếp cận đột ngột với truyền thông đại chúng, bị kích động bởi sự mở rộng kỳ vọng xã hội vốn được tạo ra từ nền tảng thịnh vượng kinh tế ngày càng gia tăng cũng như chênh lệch tài sản xã hội ngày càng mở rộng, và dễ huy động chính trị hơn nhờ gia tăng cả về dân số và đô thị hóa ở mức bùng nổ. Tình trạng này thậm chí đã trở nên đáng ngại hơn nếu dựa vào quy mô tích tụ vũ khí của châu Á. Năm 1995, theo Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, khu vực này đã trở thành nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới, vượt xa châu Âu và Trung Đông.
Nói tóm lại, Đông Á đang sôi nổi với các hoạt động năng động, mà cho đến nay đã được điều chỉnh theo hướng hòa bình bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của khu vực. Nhưng cái van an toàn này đến một lúc nào đó có thể phát nổ vì những tham vọng chính trị được phóng thích một khi những điểm chớp cháy được châm ngòi (kể cả với mức độ không đáng kể). Khả năng này có thể xảy ra trong khá nhiều vấn đề gây tranh cãi, mỗi vấn đề đều dễ bị lợi dụng để khai thác và do đó có nguy cơ bùng nổ:
Phản ứng của Trung Quốc đối với địa vị tách biệt của Đài Loan đang gia tăng khi một Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh và khi một Đài Loan ngày càng thịnh vượng nhen nhúm mong muốn có một vị thế riêng biệt chính thức như một quốc gia.
Khu vực Biển Đông có nguy cơ trở thành nơi xảy ra đụng độ giữa Trung Quốc và một số quốc gia trong khu vực.
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư Đài bị nhiều bên tranh chấp.
Tình thế phân đôi bán đảo Triều Tiên và sự bất ổn vốn có của Bắc Triều Tiên - mục tiêu năng lực hạt nhân của chính phủ Bắc Triều Tiên làm mọi sự ở thế nguy hiểm hơn - đặt ra nguy cơ về một sự bùng nổ bất ngờ có thể nhấn chìm bán đảo trong chiến tranh, từ đó lôi kéo Hoa Kỳ can dự và, một cách gián tiếp, cả Nhật Bản.
Vấn đề quần đảo Kuril ở cực nam - bị Liên Xô đơn phương chiếm giữ vào năm 1945 - tiếp tục làm tê liệt và đầu độc mối quan hệ Nga-Nhật.
Các xung đột lãnh thổ-dân tộc tiềm tàng khác liên quan đến các vấn đề biên giới giữa các nước trong khu vực; tình trạng bất ổn ở Tân Cương; tranh chấp Trung Quốc-Indonesia với nhiều nước về ranh giới đại dương. (Tham khảo bản đồ ở trang 249.)
Sự phân phối quyền lực trong khu vực cũng mất cân bằng. Trung Quốc, với kho vũ khí hạt nhân và lực lượng vũ trang lớn của mình, rõ ràng là thế lực thống trị về mặt quân sự. Hải quân Trung Quốc đã áp dụng một học thuyết chiến lược về “phòng thủ tích cực ngoài khơi,” tìm kiếm trong vòng mười lăm năm tới khả năng đi biển để “kiểm soát hiệu quả các vùng biển trong chuỗi đảo đầu tiên,” nghĩa là eo biển Đài Loan và Biển Đông. Và chắc chắn là khả năng quân sự của Nhật Bản cũng đang tăng lên, nó không có đối thủ trong khu vực về chất lượng. Tuy nhiên, hiện nay, các lực lượng vũ trang Nhật Bản không phải là một công cụ trong chính sách đối ngoại của nước này, phần lớn chỉ được xem như là mở rộng sự hiện diện của quân đội Mỹ trong khu vực.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã khiến các nước láng giềng phía đông nam ngày càng dè chừng trước những mối quan tâm của cường quốc này. Đáng chú ý là thời kỳ đầu năm 1996 liên quan đến Đài Loan (khi đó Trung Quốc có một số cuộc diễn tập quân sự để đe dọa và cấm các nước tiếp cận không phận và hải phận một khu vực gần Đài Loan, buộc Hoa Kỳ nhanh chóng thực hiện một cuộc triển khai hải quân thị uy), ngoại trưởng Thái Lan đã vội vàng tuyên bố rằng lệnh cấm như vậy là bình thường, người đồng cấp Indonesia cũng hành động tương tự, cho rằng đây hoàn toàn là vấn đề của Trung Quốc, còn Philippines và Malaysia tuyên bố chính sách trung lập trong vấn đề này.
Sự vắng mặt của cán cân quyền lực trong khu vực trong những năm gần đây đã thúc đẩy cả Australia và Indonesia, vốn trước đây khá cảnh giác với nhau, bắt đầu tăng cường phối hợp quân sự. Cả hai nước đều có chút lo lắng kín đáo về viễn cảnh Trung Quốc thống trị quân sự trong khu vực, cũng như về sức mạnh của Hoa Kỳ với tư cách người bảo đảm an ninh khu vực. Mối quan tâm này cũng đã khiến Singapore mở rộng hợp tác an ninh chặt chẽ hơn với các quốc gia này. Trên thực tế, khắp khu vực, câu hỏi trung tâm nhưng chưa được trả lời được các chiến lược gia đặt ra là: “Hòa bình trong khu vực đông dân nhất và ngày càng được vũ trang nhất thế giới có thể được một trăm ngàn lính Mỹ đảm bảo trong bao lâu, và trong mọi hoàn cảnh liệu họ có thể ở lại trong bao lâu nữa?”
Chính trong bối cảnh đầy biến động của việc chủ nghĩa dân tộc mạnh lên, dân số gia tăng, đời sống thịnh vượng hơn, kỳ vọng bùng nổ và khát vọng quyền lực chồng chéo nhau đã diễn ra sự dịch chuyển kiến tạo thực sự trên bức phông nền địa chính trị Đông Á:
Trung Quốc, dù triển vọng cụ thể của nó là gì, vẫn là một cường quốc đang trỗi dậy và có khả năng thống trị.
Vai trò an ninh của Mỹ ngày càng phụ thuộc vào hợp tác với Nhật Bản.
Nhật Bản đang tìm kiếm một vai trò chính trị tự chủ và rõ ràng hơn.
Vai trò của Nga đã giảm đi rất nhiều, trong khi Trung Á trước đây do Nga thống trị, nay đã trở thành một đối tượng cho cạnh tranh quốc tế.
Sự phân chia Triều Tiên ngày càng ít có khả năng trụ vững, khiến định hướng tương lai của bán đảo này trở thành vấn đề làm các nước láng giềng lớn thêm lưu tâm về mặt địa chiến lược.
Những thay đổi kiến tạo này làm tăng thêm sự nổi bật cho hai vấn đề trung tâm được đặt ra ngay từ đầu của chương này.
TRUNG QUỐC: KHÔNG PHẢI TOÀN CẦU MÀ LÀ KHU VỰC
Lịch sử quốc gia là một trong những gì làm nên sự vĩ đại của Trung Quốc. Ở người dân Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc mãnh liệt hiện nay hẵng còn mới ở mức độ phổ biến xã hội, vì nó gắn kết sự tự nhận thức và cảm xúc của một số lượng lớn chưa từng có giữa những người Trung Quốc với nhau. Nó không còn là một hiện tượng bị giới hạn phần lớn trong giới sinh viên mà trong những năm đầu của thế kỷ 20 đã trở thành tiên nhân của cả Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc bây giờ là một hiện tượng phủ khắp, khẳng định tư duy của nhà nước đông dân nhất thế giới.
Tư duy đó có nguồn gốc lịch sử rất xa xưa. Lịch sử đã khiến giới cai trị phong kiến nơi đây cho rằng Trung Quốc là trung tâm tự nhiên của thế giới. Trên thực tế, cái tên Trung Quốc - Chung-kuo hay “Đế quốc Trung tâm” - truyền đạt khái niệm về tính chất trung tâm của Trung Quốc trong các vấn đề thế giới, khẳng định tầm quan trọng của sự thống nhất quốc gia. Viễn cảnh đó cũng bao hàm sự lan tỏa ảnh hưởng phân cấp từ trung tâm đến các vùng ngoại vi, và do đó Trung Quốc là trung tâm mong đợi sự kính trọng từ những nước khác.
Chưa kể, từ thời xa xưa, Trung Quốc, với dân số đông đảo, đã là một nền văn minh đặc sắc và đáng tự hào. Nền văn minh đó tiên tiến trong tất cả các lĩnh vực: triết học, văn hóa, nghệ thuật, kỹ năng xã hội, phát minh kỹ thuật và quyền lực chính trị. Người Trung Quốc nhớ lại rằng cho đến khoảng năm 1600, nước họ dẫn đầu thế giới về năng suất nông nghiệp, đổi mới công nghiệp và mức sống. Nhưng không giống như các nền văn minh châu Âu và Hồi giáo, nơi đã sinh ra đến bảy mươi lăm quốc gia, Trung Quốc trong phần lớn lịch sử của mình vẫn được duy trì dưới một quốc gia duy nhất, và tại thời điểm Mỹ tuyên bố độc lập, Trung Quốc đã có hơn 200 triệu người và cũng là cường quốc sản xuất hàng đầu thế giới.
Từ triển vọng đó, Trung Quốc lao dốc khỏi sự vĩ đại, 150 năm hổ nhục vừa qua là một sự lầm đường, báng bổ phẩm chất đặc biệt của nước này và cũng là xúc phạm mỗi cá nhân Trung Quốc. Nó phải bị xóa bỏ, và thủ phạm đáng bị trừng phạt. Những thủ phạm này, ở các mức độ khác nhau, chủ yếu là bốn nước: Anh, Nhật Bản, Nga và Mỹ. Vương quốc Anh, vì cuộc Chiến tranh nha phiến kéo theo hậu quả là hạ nhục Trung Quốc; Nhật Bản, vì các cuộc chiến tranh áp bức kéo dài từ thế kỷ 19 đã gây ra những đau khổ mất mát khủng khiếp lên người dân Trung Quốc; Nga, vì những xâm lấn kéo dài vào lãnh thổ Trung Quốc ở miền Bắc; cuối cùng là Mỹ, thông qua việc hiện diện ở châu Á và sự hỗ trợ của Nhật Bản, làm cản trở tham vọng vươn ra bên ngoài của “Đế quốc Trung tâm”.
Theo quan điểm của Trung Quốc, có thể nói hai trong số bốn cường quốc này đã bị trừng phạt, xét trên phương diện lịch sử. Vương quốc Anh không còn là một đế quốc, việc lá cờ khối của Liên hiệp Anh bị hạ xuống ở Hồng Kông đã mãi mãi khép lại một chương đặc biệt đau đớn. Nga vẫn ở bên cạnh, tuy đã suy giảm nhiều về tầm vóc, uy tín và lãnh thổ. Chính Mỹ và Nhật Bản mới đặt ra những vấn đề nghiêm trọng nhất đối với Trung Quốc, và chính trong mối quan hệ tương tác với họ, vai trò khu vực và toàn cầu của Trung Quốc sẽ được xác định rõ ràng.
Tuy nhiên, định nghĩa đó trước tiên phụ thuộc vào chính cách Trung Quốc phát triển, vào mức độ sức mạnh kinh tế và quân sự mà nó thực sự đạt được. Về điểm này, tiên lượng cho Trung Quốc nói chung đầy hứa hẹn, mặc dù không phải không có một số bất trắc lớn kèm bằng chứng. Cả tốc độ tăng trưởng kinh tế và quy mô đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc, mỗi thứ đều cao nhất thế giới, cung cấp cơ sở thống kê cho dự đoán tiêu chuẩn rằng trong vòng hai thập kỷ, Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc toàn cầu, ngang tầm với Hoa Kỳ và châu Âu (giả sử rằng cả hai sau đó hợp nhất và mở rộng hơn nữa). Sau đó, Trung Quốc có thể có GDP vượt xa đáng kể so với Nhật Bản, và nó đã vượt qua Nga một mức lớn. Động lực kinh tế đó sẽ cho phép Trung Quốc có được sức mạnh quân sự ở quy mô gây đe dọa tất cả các nước láng giềng, thậm chí ngay cả đối thủ xa hơn về mặt địa lý của tham vọng Trung Quốc. Được củng cố hơn nữa bởi sự hợp nhất với Hồng Kông và Macao, và có lẽ cuối cùng là sự phụ thuộc chính trị của Đài Loan, một Đại Trung Hoa sẽ nổi lên không chỉ là quốc gia thống trị ở Viễn Đông mà còn là một cường quốc thế giới hàng đầu.
Dẫu vậy, có những cạm bẫy trong bất kỳ dự đoán nào đối với sự hồi sinh không thể tránh khỏi của “Đế quốc Trung tâm” như một thế lực trung tâm toàn cầu, trong đó rõ ràng nhất liên quan đến sự phụ thuộc máy móc vào dự báo thống kê. Đó là lỗi rất lớn đã xảy ra cách đây không lâu bởi những người tiên tri rằng Nhật Bản sẽ thay thế Hoa Kỳ trở thành nền kinh tế hàng đầu thế giới và Nhật Bản được định sẵn là siêu cường mới. Viễn cảnh đó đã không tính đến cả yếu tố nhược điểm kinh tế của Nhật Bản và vấn đề gián đoạn chính trị, và một lỗi tương tự đang được lặp lại bởi lẽ những người tuyên bố hẳn thấy lo sợ sự nổi lên không thể tránh khỏi của Trung Quốc thành một cường quốc thế giới.
Trước hết, không chắc chắn rằng tốc độ tăng trưởng bùng nổ của Trung Quốc có thể được duy trì trong hai thập kỷ tới. Suy thoái kinh tế không thể được loại trừ, và chính điều đó sẽ làm mất độ tin cậy của việc tiên đoán quy ước. Trên thực tế, để các tỷ lệ này duy trì được trong một thời gian dài trong lịch sử sẽ đòi hỏi một sự kết hợp hoàn hảo bất thường giữa việc lãnh đạo quốc gia hiệu quả, ổn định chính trị, kỷ luật xã hội trong nước, tỷ lệ tiết kiệm cao, dòng đầu tư nước ngoài liên tục cao và sự ổn định khu vực. Làm được như vậy là cả một vấn đề.
Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng nhanh của Trung Quốc có khả năng làm phát sinh tác dụng phụ chính trị gây nguy cơ hạn chế quyền tự do hành động của nó. Tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc tăng lên ở mức vượt xa tốc độ sản xuất trong nước. Khoảng cách này sẽ càng rộng thêm trong mọi trường hợp, đặc biệt là nếu tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc vẫn ở mức rất cao. Tương tự là trường hợp thực phẩm. Ngay cả khi mức độ tăng đã chậm lại, thì xét về mặt số tuyệt đối, tốc độ tăng dân số ở Trung Quốc vẫn bị xem là cao, kèm theo đó là tăng nhu cầu nhập khẩu thực phẩm vốn dĩ thiết yếu hơn đối với sức khỏe và sự ổn định chính trị nội bộ. Phụ thuộc vào nhập khẩu sẽ không chỉ áp thêm căng thẳng lên các nguồn lực kinh tế Trung Quốc vì chi phí cao hơn, mà còn khiến Trung Quốc dễ bị ảnh hưởng hơn trước áp lực bên ngoài.
Về mặt quân sự, Trung Quốc phần nào đó có thể hội đủ điều kiện trở thành cường quốc toàn cầu, vì chính quy mô nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng cao của nó sẽ cho phép các nhà lãnh đạo chuyển hướng một tỷ lệ đáng kể GDP của đất nước vào việc duy trì mở rộng và hiện đại hóa lực lượng vũ trang, bao gồm cả tiếp tục xây dựng kho vũ khí hạt nhân chiến lược của riêng mình. Tuy nhiên, nếu nỗ lực đó là quá mức (và theo một số ước tính của phương Tây, vào giữa những năm 1990, nó đã tiêu thụ khoảng 20% GDP của Trung Quốc), nó có thể có tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế dài hạn của Trung Quốc tương tự như nỗ lực cạnh tranh thất bại của Liên Xô trong cuộc chạy đua vũ trang với Hoa Kỳ đã tác động lên nền kinh tế Liên Xô. Hơn nữa, một nỗ lực lớn của Trung Quốc trong lĩnh vực này có thể sẽ tăng cường việc xây dựng lực lượng vũ trang đối kháng của Nhật Bản, từ đó gây hại đến một số lợi ích chính trị cho sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc. Và người ta không được bỏ qua thực tế là ngoài lực lượng hạt nhân của mình, Trung Quốc, trong thời gian tới, có khả năng sẽ thiếu phương tiện để dự phóng sức mạnh quân sự vượt ra ngoài phạm vi khu vực.
Căng thẳng tại Trung Quốc cũng có thể gia tăng, do sự không đồng đều không thể tránh khỏi của tăng trưởng kinh tế đang ngày càng tăng tốc với động lực thúc đẩy mạnh mẽ là hoạt động khai các vùng đất lợi thế cận biên giới chưa có người ở. Vùng duyên hải phía nam và phía đông cũng như các trung tâm đô thị chính, dễ dàng tiếp cận với đầu tư bên ngoài và thương mại nước ngoài hơn, cho đến nay vẫn là những vùng hưởng lợi chính từ sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng của Trung Quốc. Ngược lại, khu vực nông thôn nội địa nói chung và một số khu vực xa xôi hẻo lánh bị tụt lại phía sau.
Những phẫn nộ trước mức độ chênh lệch giữa các khu vực có thể sẽ tác động đến sự bức bối sẵn có nhắm vào bất bình đẳng xã hội. Tăng trưởng nhanh chóng làm gia tăng khoảng cách xã hội trong phân phối của cải tại Trung Quốc. Tại một số điểm, dù cho vì chính phủ muốn tìm cách hạn chế sự khác biệt đó, hoặc do sự phẫn nộ của xã hội từ bên dưới, sự chênh lệch khu vực và khoảng cách giàu nghèo có thể lần lượt ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của đất nước.
Lý do thứ hai cho sự hoài nghi thận trọng liên quan đến lời tiên đoán lan truyền về việc Trung Quốc sẽ nổi lên trong một phần tư thế kỷ tới thành cường quốc thống trị trong các vấn đề toàn cầu, tất nhiên là về tương lai của nền chính trị Trung Quốc. Đặc tính năng động của sự chuyển đổi kinh tế phi chủ nghĩa Trung Quốc, bao gồm cởi mở xã hội với phần còn lại của thế giới, về lâu về dài không tương thích với thiết chế chính trị tương đối khép kín và quan liêu. Giới lãnh đạo chính trị Trung Quốc vẫn được tổ chức như một hệ thống phân cấp cứng nhắc, kỷ luật và độc tài, về hình thức vẫn tuyên bố trung thành vào một thứ giáo điều được xem như sự biện minh cho quyền lực của mình, nhưng cũng đồng thời không còn thực hiện thứ giáo điều này trong xã hội nữa. Vào một lúc nào đó, hai xu hướng đối nghịch này có thể va chạm trực diện với nhau, trừ khi chính trị Trung Quốc bắt đầu thích nghi dần với những đòi hỏi về mặt xã hội mà nền kinh tế Trung Quốc đặt ra.
Do đó, vấn đề dân chủ hóa không thể né tránh vô thời hạn, trừ khi Trung Quốc đột nhiên đưa ra quyết định tương tự vào năm 1474: cô lập chính mình khỏi thế giới. Để làm được vậy, Trung Quốc sẽ phải gọi về hơn bảy mươi ngàn sinh viên hiện đang học tập tại Mỹ, trục xuất các doanh nhân nước ngoài, tắt máy tính và đập phá hết các đĩa truyền hình vệ tinh ở hàng triệu ngôi nhà. Đó sẽ là một hành động điên rồ, gợi nhớ Cách mạng Văn hóa.
Trong mọi trường hợp, tự cô lập nghĩa là chấm dứt mọi khát vọng nghiêm túc của Trung Quốc cho không chỉ quyền lực toàn cầu mà còn đối với tính ưu việt trong khu vực. Hơn nữa, đất nước này hiện tiếp cận quá sâu rộng với thế giới bên ngoài, một thế giới đơn giản là đã xâm nhập quá sâu nên không thể bị loại trừ dễ dàng và dứt khoát khỏi đời sống nội tại ở Trung Quốc như những gì xảy ra tại thời điểm năm 1474. Vì lẽ đó, không có sự thay thế thực tiễn nào ngoài việc Trung Quốc phải tiếp tục mở ra với thế giới, xét trên phương diện hiệu quả kinh tế lẫn tính khả thi về chính trị.
Dân chủ hóa vì thế sẽ ngày càng ám ảnh Trung Quốc. Cả vấn đề này lẫn câu hỏi liên quan về quyền con người đều không thể trốn tránh quá lâu. Sự tiến bộ trong tương lai của Trung Quốc, cũng như sự nổi lên của nó như một cường quốc, do đó sẽ phụ thuộc một mức độ lớn vào việc giới lãnh đạo Trung Quốc xử lý khéo léo hai vấn đề liên quan đến quyền lực, từ thế hệ cầm quyền đến thế hệ trẻ hơn, và đối phó với căng thẳng ngày càng tăng giữa các hệ thống kinh tế và chính trị của đất nước.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có lẽ đã thành công trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi chậm chạp và có biến chuyển sang chế độ độc tài bầu cử rất hạn chế, trong đó một số lựa chọn chính trị cấp thấp được khoan nhượng, và từ đó chuyển sang chủ nghĩa đa nguyên chính trị thực sự hơn, bao gồm bước đầu nhấn mạnh hơn vào sự cai trị bằng hiến pháp. Một quá trình chuyển đổi có kiểm soát như vậy sẽ tương thích với sự khẩn thiết của động lực kinh tế ngày càng mở rộng của đất nước hơn là kiên trì duy trì sự chuyên quyền hoàn toàn của Đảng đối với quyền lực chính trị.
Để thực hiện dân chủ hóa một cách có kiểm soát như vậy, giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải được lãnh đạo với kỹ năng phi thường, được dẫn dắt bởi ý thức thông thường thực dụng, phải tương đối đoàn kết và sẵn sàng giành lấy một số độc quyền về quyền lực trong khi dân số đông đảo sẽ phải đồng thời kiên nhẫn và dễ thấy thỏa mãn. Đó là tình huống khéo léo được chứng minh khó có thể đạt được. Kinh nghiệm dạy rằng áp lực của sự dân chủ hóa đến từ bên dưới, từ những người cảm thấy bị đàn áp về chính trị (trí thức và sinh viên) hoặc bị bóc lột về kinh tế (tầng lớp lao động thành thị mới và người nghèo ở nông thôn), thường có xu hướng bỏ qua những bằng lòng mà giới cai trị trao cho. Tại một số điểm, sự bất mãn về mặt chính trị và xã hội ở Trung Quốc có khả năng kết hợp thành lực lượng để đòi hỏi dân chủ, tự do ngôn luận và tôn trọng quyền con người hơn. Điều đó đã không xảy ra ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, nhưng nó có thể sẽ xảy ra trong tương lai.
Theo đó, sẽ khó có khả năng Trung Quốc tránh khỏi một giai đoạn bất ổn chính trị. Điều này, ngay cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như cũng đoán trước được1. Một số chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc thậm chí còn tiên đoán rằng nước này có thể quay trở về một chu kỳ lịch sử phân chia nội bộ của chính nó, do đó ngăn cản Trung Quốc tiến đến sự vĩ đại hoàn toàn. Nhưng xác suất của một tình huống cực đoan như vậy bị giảm đi do tác động song sinh của chủ nghĩa dân tộc đại chúng và truyền thông hiện đại, cả hai đều hoạt động có lợi cho một nhà nước Trung Quốc thống nhất.
Cuối cùng, có một lý do thứ ba nữa cho sự hoài nghi về triển vọng nổi lên của Trung Quốc trong vòng hai mươi năm tới như một cường quốc, hay đối với một số người Mỹ, một thế lực đe dọa toàn cầu. Ngay cả nếu Trung Quốc tránh được những gián đoạn chính trị nghiêm trọng và ngay cả nếu bằng cách nào đó, họ vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cực kỳ cao trong một phần tư thế kỷ tới, cả hai đều là những chữ “nếu” khá lớn, thì Trung Quốc vẫn sẽ rất nghèo. Ngay cả khi GDP tăng gấp ba lần, dân số Trung Quốc vẫn bị xếp hạng thấp hơn các quốc gia khác trên thế giới về thu nhập bình quân đầu người, chưa kể đến mức nghèo đói thực sự của một bộ phận đáng kể người dân2. So sánh với số lượng bình quân đầu người được tiếp cận với điện thoại, ô tô và máy tính, chưa nói đến hàng tiêu dùng, sẽ vẫn còn rất thấp.
Tóm lại, ngay cả vào năm 2020, ngay cả trong hoàn cảnh tốt nhất, rất khó có khả năng Trung Quốc trở thành đối thủ cạnh tranh thực sự trong các khía cạnh quan trọng của sức mạnh toàn cầu. Tuy nhiên, mặc dù vậy, Trung Quốc đang trên đường trở thành cường quốc khu vực tiên phong ở Đông Á. Nó vốn đã chiếm ưu thế về mặt địa chính trị trên đại lục. Sức mạnh quân sự và kinh tế của nó lấn át các nước láng giềng kề cận, ngoại trừ Ấn Độ. Do đó, hoàn toàn tự nhiên là Trung Quốc sẽ ngày càng khẳng định chính mình trong khu vực, phù hợp với các yêu cầu của lịch sử, địa lý và kinh tế của nó.
Trong lịch sử đất nước, vào năm 1840, con đường đế quốc của Trung Quốc đã lan rộng khắp Đông Nam Á, đến tận eo biển Malacca, bao gồm Miến Điện, vài phần của Bangladesh ngày nay cũng như Nepal, một phần của Kazakstan ngày nay, toàn bộ Mông Cổ, và khu vực mà ngày nay được gọi là tỉnh Viễn Đông của Nga, ở phía bắc nơi sông Amur chảy ra biển. Những khu vực này hoặc nằm dưới một số hình thức kiểm soát của Trung Quốc hoặc phải cống nạp cho Trung Quốc. Sự bành trướng thuộc địa của Pháp-Anh đã đẩy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc khỏi Đông Nam Á trong giai đoạn 1885-1895, trong khi hai hiệp ước do Nga áp đặt vào năm 1858 và năm 1864 dẫn đến tổn thất lãnh thổ ở Đông Bắc và Tây Bắc. Năm 1895, sau Chiến tranh Trung Quốc-Nhật Bản, Trung Quốc cũng mất luôn Đài Loan.
Gần như chắc chắn rằng lịch sử và địa lý sẽ khiến người Trung Quốc ngày càng khăng khăng, thậm chí còn đòi hỏi mạnh mẽ về sự cần thiết phải thống nhất Đài Loan với đại lục. Cũng có thể, một khi sức mạnh Trung Quốc tăng lên, mục tiêu đó rồi sẽ thành mục tiêu chính của cường quốc này trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ tiếp theo, sau khi hấp thụ nền kinh tế và tiếp quản chính trị Hồng Kông. Có lẽ một cuộc thống nhất hòa bình, theo công thức “một quốc gia, đa chế độ” (một biến thể của khẩu hiệu 1984 của Đặng Tiểu Bình, “một quốc gia, hai chế độ”) có thể trở nên hấp dẫn đối với Đài Loan và sẽ không bị Mỹ chống lại, nhưng chỉ khi Trung Quốc thành công trong việc duy trì tiến bộ kinh tế và áp dụng các cải cách dân chủ hóa đáng kể. Mặt khác, ngay cả một Trung Quốc thống trị trong khu vực vẫn có khả năng thiếu các biện pháp quân sự để áp đặt ý chí của mình, đặc biệt là đối mặt với sự phản đối của Mỹ, trong trường hợp vấn đề này buộc phải tiếp tục củng cố chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc trong khi làm xấu đi quan hệ Mỹ-Trung.
Địa lý cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy mối quan tâm của Trung Quốc trong việc liên minh với Pakistan và thiết lập sự hiện diện quân sự ở Miến Điện. Trong cả hai trường hợp, Ấn Độ là mục tiêu địa chiến lược. Hợp tác chặt chẽ về quân sự với Pakistan gián tiếp đặt Ấn Độ vào thế phải đối mặt với thêm nhiều vấn đề nan giải, hạn chế nguy cơ Ấn Độ làm bá chủ khu vực ở Nam Á và trở thành đối thủ địa chính trị của Trung Quốc. Hợp tác quân sự với Miến Điện giúp Trung Quốc tiếp cận các cơ sở hải quân trên một số đảo ngoài khơi nước này ở Ấn Độ Dương, nhờ đó cũng có được một số đòn bẩy chiến lược hơn nữa ở Đông Nam Á nói chung và đặc biệt là ở eo biển Malacca. Và nếu Trung Quốc kiểm soát eo biển Malacca và điểm yết hầu địa chiến lược tại Singapore, thì Trung Quốc sẽ kiểm soát khả năng Nhật Bản tiếp cận với dầu mỏ ở Trung Đông và thị trường châu Âu.
Địa lý, được củng cố bởi lịch sử, cũng cho thấy sự quan tâm của Trung Quốc đối với Triều Tiên. Từng một thời là nước chư hầu, một bán đảo Triều Tiên thống nhất như một sự mở rộng ảnh hưởng của Mỹ (và cũng gián tiếp của Nhật Bản) sẽ là không thể dung thứ đối với Trung Quốc, ở mức tối thiểu, Trung Quốc sẽ khẳng định rằng một Triều Tiên thống nhất là vùng đệm không liên kết giữa Trung Quốc và Nhật Bản và cũng hy vọng rằng sự thù địch của bán đảo này đối với Nhật Bản xét từ căn nguyên lịch sử sẽ khiến nó rơi vào phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện tại, một bán đảo Triều Tiên bị chia rẽ là phù hợp với Trung Quốc nhất, và do đó Trung Quốc có thể ủng hộ sự tồn tại liên tục của chế độ Bắc Triều Tiên.
Những cân nhắc về kinh tế cũng bị ràng buộc để ảnh hưởng đến lực đẩy tham vọng khu vực của Trung Quốc. Về vấn đề này, nhu cầu ngày càng tăng nhanh đối với các nguồn dự trữ năng lượng mới đã khiến Trung Quốc khăng khăng giữ vai trò chi phối trong bất kỳ hoạt động khai thác khu vực nào dưới đáy biển của Biển Đông. Vì lý do tương tự, Trung Quốc đang bắt đầu thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng đối với sự độc lập của các quốc gia Trung Á giàu nguồn năng lượng. Vào tháng 4 năm 1996, Trung Quốc, Nga, Kazakstan, Kyrgyzstan và Tajikistan đã ký một thỏa thuận chung về biên giới và an ninh; và trong chuyến thăm của Chủ tịch Giang Trạch Dân tới Kazakstan vào tháng 7 cùng năm, phía Trung Quốc được trích dẫn là đã đảm bảo sự ủng hộ của Trung Quốc đối với “những nỗ lực của Kazakstan nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.” Những điều trên báo hiệu rõ ràng sự can dự ngày càng tăng của Trung Quốc vào địa chính trị của Trung Á.
Lịch sử và kinh tế cũng âm thầm làm gia tăng sự quan tâm của một Trung Quốc hùng mạnh hơn trong khu vực ở vùng Viễn Đông của Nga. Lần đầu tiên kể từ khi Trung Quốc và Nga cùng thống nhất chia sẻ một đường biên giới chính thức, Trung Quốc là bên năng động hơn về kinh tế và mạnh hơn về chính trị. Sự xâm nhập vào khu vực Nga của những người nhập cư và thương nhân Trung Quốc đã chiếm tỷ lệ đáng kể và Trung Quốc đang trở nên tích cực hơn trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế Đông Bắc Á có sự tham gia của Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong sự hợp tác đó, Nga hiện nắm giữ một vai trò yếu hơn nhiều, trong khi vùng Viễn Đông của Nga ngày càng trở nên phụ thuộc về kinh tế vào các liên kết chặt chẽ hơn với vùng Mãn Châu của Trung Quốc. Các thế lực kinh tế tương tự cũng đang gây áp lực lên mối quan hệ giữa Trung Quốc với Mông Cổ - vốn không còn là quốc gia vệ tinh của Nga và đã có nền độc lập chính thức mà Trung Quốc miễn cưỡng công nhận.
Do đó, phạm vi ảnh hưởng khu vực của Trung Quốc đang hình thành. Tuy nhiên, phạm vi ảnh hưởng không nên bị nhầm lẫn với một khu vực thống trị chính trị độc quyền, như Liên Xô đã từng thực hiện ở Đông Âu. Nó xốp hơn về mặt kinh tế-xã hội và ít độc quyền về chính trị hơn. Tuy nhiên, nó đòi hỏi một không gian địa lý trong đó các quốc gia khác nhau, khi xây dựng các chính sách của riêng họ, phải đặc biệt tôn trọng lợi ích, quan điểm và phản ứng dự đoán của quyền lực chiếm ưu thế trong khu vực. Nói tóm lại, phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc, có lẽ phạm vi của sự kính trọng sẽ là một cách nói chính xác hơn, có thể được định nghĩa như một phạm vi mà trong đó câu hỏi đầu tiên được hỏi giữa các thủ đô khác nhau về bất kỳ vấn đề nào được đưa ra là “Quan điểm của Bắc Kinh về vấn đề này là gì?”
Bản đồ ở trang 269 dõi theo phạm vi tiềm năng trong một phần tư thế kỷ tiếp theo của một Trung Quốc thống trị khu vực và của cả một Trung Quốc với tư cách là cường quốc toàn cầu, trong trường hợp mà Trung Quốc có thể đạt đến mức độ này, bất chấp những trở ngại bên trong và bên ngoài đã được ghi nhận. Một Đại Trung Hoa chiếm ưu thế trong khu vực, sẽ huy động sự hỗ trợ chính trị của cộng đồng người Hoa di cư cực kỳ giàu có và hùng mạnh về kinh tế ở Singapore, Bangkok, Kuala Lumpur, Manila và Jakarta - đó là chưa kể đến Đài Loan và Hồng Kông (xem chú thích bên dưới để biết một số dữ liệu gây sửng sốt)3 - và sẽ thâm nhập vào cả Trung Á và vùng Viễn Đông của Nga, do đó sẽ xấp xỉ lên đến phạm vi bán kính của Đế chế Trung Quốc trước khi bắt đầu suy tàn khoảng 150 năm trước, thậm chí mở rộng phạm vi địa chính trị thông qua liên minh với Pakistan. Khi Trung Quốc vươn lên về quyền lực và uy tín, người Hoa giàu có ở nước ngoài có khả năng tự đồng nhất ngày càng nhiều hơn với khát vọng của Trung Quốc và do đó sẽ trở thành một lực lượng tiên phong mạnh mẽ của Trung Quốc. Các quốc gia Đông Nam Á có thể thấy khôn ngoan khi trì hoãn sự nhạy cảm chính trị và lợi ích kinh tế của Trung Quốc và họ đang ngày càng làm như vậy4. Tương tự, các quốc gia Trung Á mới ngày càng coi Trung Quốc là một cường quốc hưởng lợi từ nền độc lập và vai trò vùng đệm của họ ở giữa Trung Quốc và Nga.
Phạm vi của Trung Quốc với tư cách là một cường quốc toàn cầu có lẽ sẽ liên quan đến sự bành trướng đáng kể xuống phía nam, buộc cả Indonesia và Philippines phải thích ứng theo thực tế rằng Hải quân Trung Quốc rồi sẽ là lực lượng thống trị ở Biển Đông. Một Trung Quốc như vậy có thể bị cám dỗ giải quyết vấn đề Đài Loan bằng vũ lực nhiều hơn, bất kể thái độ của Mỹ. Ở phía tây, Uzbekistan, nhà nước Trung Á quyết tâm nhất trong việc chống lại sự xâm lấn của Nga vào lãnh thổ đế quốc trước đây, có thể ủng hộ một liên minh đối kháng với Trung Quốc, cũng như Turkmenistan; và Trung Quốc cũng có thể trở nên quyết đoán hơn với một Kazakstan bị chia rẽ về mặt dân tộc và do đó dễ bị tổn thương về tính quốc gia. Dự đoán rằng, một Trung Quốc thực sự trở thành gã người khổng lồ chính trị và kinh tế cũng sẽ có ảnh hưởng chính trị rõ ràng hơn đến vùng Viễn Đông của Nga, cũng như hỗ trợ cho sự thống nhất của một Triều Tiên nằm dưới sự bảo hộ của họ (xem bản đồ ở trang 269).
Nhưng một Trung Quốc cồng kềnh như vậy cũng sẽ dễ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ bên ngoài. Bản đồ trước đó cho thấy rõ rằng ở phương Tây, cả Nga và Ấn Độ sẽ có những lý do địa chính trị tốt để liên minh nhằm tìm cách đẩy lùi thử thách Trung Quốc. Hợp tác giữa họ có thể sẽ tập trung mạnh vào Trung Á và Pakistan, nơi Trung Quốc sẽ đe dọa lợi ích của họ nhiều nhất, ở phía nam, sự phản đối mạnh mẽ nhất sẽ đến từ Việt Nam và Indonesia (có thể được Australia hậu thuẫn). Ở phía đông, Mỹ, có thể được Nhật Bản hậu thuẫn, sẽ phản ứng bất lợi đối với bất kỳ nỗ lực nào của Trung Quốc nhằm chiếm ưu thế ở Hàn Quốc hay thống nhất Đài Loan bằng vũ lực, đều là những hành động có thể làm giảm sự hiện diện chính trị của Mỹ ở Viễn Đông đối với con cá rô có khả năng bất ổn và đơn độc Nhật Bản.
Cuối cùng, xác suất của một trong hai kịch bản được phác thảo trên bản đồ sẽ xảy đến không chỉ phụ thuộc vào cách Trung Quốc phát triển mà còn phụ thuộc rất nhiều vào cách ứng phó và sự hiện diện của Mỹ. Một nước Mỹ thảnh thơi sẽ khiến kịch bản thứ hai có nhiều khả năng xảy ra hơn, nhưng ngay cả sự trỗi dậy toàn diện của kịch bản đầu tiên cũng cần đến một vài cử chỉ điều tiết và tự kiềm chế của Mỹ. Người Trung Quốc biết điều này, và do đó chính sách của Trung Quốc phải tập trung chủ yếu đến việc ảnh hưởng lên cả cách cư xử của Mỹ và đặc biệt là mối liên hệ quan trọng giữa Mỹ và Nhật Bản; mối lưu tâm chiến lược dự đồ này sẽ luôn chi phối các mối quan hệ khác của Trung Quốc ở khía cạnh chiến thuật.
Sự phản đối chính của Trung Quốc đối với Mỹ ít liên quan đến những gì nước Mỹ thực sự làm mà chủ yếu đến nước Mỹ hiện đang là gì và nó ở đâu. Mỹ được Trung Quốc coi là bá chủ thế giới hiện tại, có sự hiện diện rất lớn trong khu vực, nhờ vào vị trí trọng yếu của nó tại Nhật Bản, có tác dụng ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc. Theo lời một nhà phân tích thuộc bộ phận nghiên cứu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc: “Mục đích chiến lược của Hoa Kỳ là truy cầu quyền bá chủ trên toàn thế giới và nó không thể chịu đựng được sự xuất hiện của bất kỳ cường quốc nào trên lục địa châu Âu và châu Á có thể trở thành một mối đe dọa cho vị trí dẫn đầu của nó.”5 Do đó, chỉ việc Mỹ là gì và nằm ở đâu đã khiến nó vô tình trở thành đối thủ của Trung Quốc thay vì là đồng minh tự nhiên.
Theo đó, mục tiêu của chính sách Trung Quốc, tuân theo Tôn Tử binh pháp, là sử dụng sức mạnh của Mỹ để đánh bại trong hòa bình quyền bá chủ của Mỹ, nhưng không giải phóng bất kỳ tham vọng khu vực ngấm ngầm nào của Nhật Bản. Để đạt được điều đó, địa chiến lược của Trung Quốc phải theo đuổi hai mục tiêu cùng một lúc, đã được Đặng Tiểu Bình xác định rõ ràng vào tháng 8 năm 1994: “Thứ nhất, chống lại chủ nghĩa bá quyền và quyền lực chính trị và bảo vệ nền hòa bình thế giới; thứ hai, xây dựng một trật tự chính trị và kinh tế quốc tế mới.” Điều thứ nhất rõ ràng nhắm vào Hoa Kỳ và nhằm mục đích giảm bớt ưu thế Mỹ, đồng thời tránh một cuộc va chạm quân sự sẽ chấm dứt sức mạnh kinh tế của Trung Quốc. Điều thứ hai tìm cách sửa đổi sự phân phối quyền lực toàn cầu, tận dụng sự phẫn nộ ở một số quốc gia quan trọng chống lại trật tự toàn cầu hiện nay, trong đó Hoa Kỳ đứng ở vị trí cao nhất, được châu Âu (hoặc Đức) hỗ trợ ở cực tây của lục địa Á-Âu và được Nhật Bản hỗ trợ ở cực đông.
Mục tiêu thứ hai của Trung Quốc thúc đẩy Bắc Kinh theo đuổi một địa chiến lược khu vực nhằm tìm cách tránh mọi xung đột nghiêm trọng với các nước láng giềng kề sát bên nó, ngay cả khi tiếp tục hành trình tìm kiếm ưu thế trong khu vực. Sự cải thiện chiến thuật trong quan hệ Trung-Nga là đặc biệt kịp thời, nhất là khi nước Nga hiện yếu hơn Trung Quốc. Theo đó, vào tháng 4 năm 1997, cả hai nước cùng tham gia bài bác “chủ nghĩa bá quyền” và tuyên bố sự bành trướng của NATO là “không thể chấp nhận được.” Tuy nhiên, không có khả năng Trung Quốc sẽ xem xét nghiêm túc bất kỳ liên minh Trung-Nga dài hạn và toàn diện nào chống lại Mỹ. Điều đó sẽ chỉ làm tăng cường và mở rộng phạm vi của liên minh Mỹ-Nhật, thứ mà Trung Quốc muốn làm loãng từ từ, và nó cũng sẽ cách ly Trung Quốc khỏi các nguồn vốn và công nghệ hiện đại quan trọng.
Như trong quan hệ Trung-Nga, sẽ phù hợp với Trung Quốc khi tránh mọi va chạm trực tiếp với Ấn Độ, ngay cả khi tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ với Pakistan và Miến Điện. Một chính sách đối kháng công khai sẽ có tác động tiêu cực làm phức tạp sự dàn xếp thích hợp của Trung Quốc về mặt chiến thuật với Nga, đồng thời đẩy Ấn Độ tới mối quan hệ hợp tác hơn với Mỹ. Trong phạm vi mà Ấn Độ cũng chia sẻ một khuynh hướng cơ bản và có phần chống phương Tây đối với “quyền bá chủ” toàn cầu hiện tại, thì việc giảm căng thẳng Trung-Ấn cũng phù hợp với trọng tâm địa chiến lược rộng lớn của Trung Quốc.
Những cân nhắc tương tự thường được áp dụng cho mối quan hệ hiện có giữa Trung Quốc với Đông Nam Á. Ngay cả khi đơn phương khẳng định yêu sách của mình đối với Biển Đông, Trung Quốc đồng thời nuôi dưỡng một số nhà lãnh đạo Đông Nam Á (ngoại trừ người Việt Nam vốn luôn thù địch trong lịch sử), khai thác các quan điểm chống phương Tây thẳng thắn hơn (đặc biệt là về vấn đề giá trị phương Tây và nhân quyền) mà trong những năm gần đây các nhà lãnh đạo Malaysia và Singapore đã lên tiếng cổ xúy. Họ đặc biệt hoan nghênh lời hùng biện chống Mỹ có phần gay gắt của Thủ tướng Malaysia Datuk Mahathir, trong một diễn đàn tháng 5 năm 1996 tại Tokyo thậm chí còn công khai đặt câu hỏi về sự cần thiết của Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản, yêu cầu phải biết danh tính của kẻ thù mà liên minh được cho là sẽ bảo vệ chống lại và khẳng định rằng Malaysia không cần đồng minh. Người Trung Quốc tính toán rõ ràng rằng ảnh hưởng của họ trong khu vực sẽ được tự động tăng cường bởi bất kỳ sự suy giảm địa vị nào của nước Mỹ.
Sự dàn xếp đang diễn ra trong mối quan hệ của Trung Quốc với Hàn Quốc cũng là một phần không thể thiếu trong chính sách Trung Quốc củng cố mạn sườn của mình để có thể tập trung hiệu quả hơn vào mục tiêu trung tâm. Với lịch sử và cảm xúc chung của Triều Tiên, một sự dàn xếp Trung-Triều góp phần làm giảm vai trò tiềm năng trong khu vực của Nhật Bản và chuẩn bị nền tảng cho sự tái hợp mối quan hệ truyền thống giữa Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên (chia rẽ hoặc thống nhất).
Quan trọng nhất, Trung Quốc tăng cường hòa bình với vị thế đứng đầu khu vực sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nước này theo đuổi mục tiêu trung tâm mà chiến lược gia cổ đại của Trung Quốc Tôn Tử đã đưa ra: làm loãng sức mạnh khu vực của Mỹ đến mức một nước Mỹ bị thu hẹp phải cần một Trung Quốc chiếm ưu thế khu vực với tư cách đồng minh và cuối cùng trở thành một Trung Quốc hùng mạnh toàn cầu với tư cách đối tác của Mỹ. Mục tiêu này được theo đuổi và hoàn thành theo cách không làm giảm sự mở rộng phòng thủ trong phạm vi liên minh Mỹ-Nhật hoặc thay thế quyền lực khu vực của Mỹ bằng quyền lực của Nhật Bản.
Để đạt được mục tiêu trung tâm, trong ngắn hạn, Trung Quốc tìm cách ngăn chặn sự hợp nhất và mở rộng hợp tác an ninh Mỹ-Nhật. Đầu năm 1996, Trung Quốc đặc biệt hoảng hốt trước hàm ý nhấn mạnh vào phạm vi hợp tác an ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản, chuyển từ “Viễn Đông” sang một khu vực “châu Á-Thái Bình Dương rộng lớn hơn,” đối với họ đó không chỉ là mối đe dọa tức thì đối với lợi ích của Trung Quốc mà còn là điểm khởi đầu cho một hệ thống an ninh châu Á do Mỹ thống trị nhằm mục đích giam hãm Trung Quốc (trong đó Nhật Bản sẽ là mấu chốt quan trọng6, như Đức ở NATO trong Chiến tranh Lạnh). Thỏa thuận nhìn chung được Bắc Kinh nhìn nhận theo hướng tạo điều kiện cho Nhật Bản nổi lên như một cường quốc quân sự, thậm chí có khả năng dựa vào quân đội để tự mình giải quyết các tranh chấp kinh tế hoặc hàng hải quan trọng. Do đó, Trung Quốc có khả năng ra sức “tiếp thêm dầu” vào nỗi sợ hãi vẫn còn mạnh mẽ của châu Á về bất kỳ vai trò quân sự quan trọng nào của Nhật Bản trong khu vực, nhằm kiềm chế Mỹ và đe dọa Nhật Bản.
Tuy nhiên, về lâu dài, theo tính toán chiến lược của Trung Quốc, quyền bá chủ của Mỹ không thể kéo dài. Mặc dù một số người Trung Quốc, đặc biệt là trong quân đội, có xu hướng coi Mỹ là kẻ thù không thể tránh khỏi, nhưng kỳ vọng chủ yếu ở Bắc Kinh là Mỹ sẽ trở nên cô lập hơn trong khu vực vì sự phụ thuộc quá mức vào Nhật Bản và do đó sự phụ thuộc của Mỹ vào Nhật Bản sẽ còn phát triển hơn nữa, nhưng mâu thuẫn Mỹ-Nhật và nỗi sợ hãi của Mỹ đối với chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản cũng sẽ tăng theo. Điều này sẽ giúp Trung Quốc có thể khiến Mỹ và Nhật Bản đối đầu với nhau, như Trung Quốc đã làm trước đó trong trường hợp của Hoa Kỳ và Liên Xô. Theo quan điểm của Bắc Kinh, thời điểm sẽ đến khi Mỹ nhận ra rằng, để duy trì ảnh hưởng quyền lực ở châu Á-Thái Bình Dương, họ không còn cách nào khác là phải chuyển sang đối tác tự nhiên trên lục địa châu Á.
NHẬT BẢN: KHÔNG PHẢI KHU VỰC MÀ LÀ QUỐC TẾ
Do đó, mối quan hệ Mỹ-Nhật phát triển ra sao là một khía cạnh quan trọng trong tương lai địa chính trị của Trung Quốc. Kể từ khi kết thúc cuộc nội chiến Trung Quốc năm 1949, chính sách của Mỹ ở Viễn Đông luôn dựa vào Nhật Bản. Lúc đầu chỉ là nơi quân đội Mỹ chiếm đóng, về sau Nhật Bản đã trở thành nền tảng cho sự hiện diện chính trị và quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và là đồng minh toàn cầu quan trọng của Mỹ, cũng là một nước bảo hộ an ninh. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Trung Quốc đã đặt ra câu hỏi rằng liệu và đến lúc nào, mối quan hệ gắn bó giữa Mỹ và Nhật Bản có thể tồn tại trong bối cảnh khu vực đang thay đổi. Vai trò của Nhật Bản trong một liên minh chống Trung Quốc sẽ rõ ràng; Nhưng vai trò của Nhật Bản là gì nếu sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ được dàn xếp trong một số hoàn cảnh ngay cả khi điều đó làm giảm tính ưu thế của Mỹ trong khu vực?
Giống như Trung Quốc, Nhật Bản là một quốc gia có ý thức sâu sắc về tính độc đáo và vị thế đặc biệt của nó. Lịch sử đảo quốc của nó, gồm cả thần thoại đế quốc, đã tạo nên đức tính cần cù và kỷ luật của người dân Nhật Bản, khiến họ thấy như mình được ban tặng một lối sống đặc biệt và vượt trội. Nhật Bản lúc đầu bảo vệ cách tư duy này bằng cách cô lập, và sau đó - khi thế giới buộc nó mở cửa vào thế kỷ 19 - thì bằng cách mô phỏng các đế quốc châu Âu, tìm cách tạo ra một đế chế của riêng nó tại châu Á. Thảm họa của Thế chiến thứ hai sau đó đã khiến người dân Nhật Bản tập trung vào mục tiêu phục hồi kinh tế một chiều, nhưng điều đó cũng khiến họ không chắc chắn về nhiệm vụ rộng lớn hơn cho đất nước của họ.
Những lo ngại hiện tại của người Mỹ về một Trung Quốc thống trị gợi nhớ đến nỗi ám ảnh lo lắng tương đối gần đây của Mỹ liên quan đến Nhật Bản. Nỗi ám ảnh Nhật Bản đã dần chuyển thành ám ảnh về Trung Quốc. Một thập kỷ trước, những dự đoán về sự trỗi dậy không thể tránh khỏi và sắp xảy đến thành một “siêu quốc gia” ở tầm thế giới của Nhật Bản - không chỉ sẽ truất phế nước Mỹ (thậm chí là mua toàn bộ nước Mỹ7!) mà còn thực thi “Pax Nipponica” (diễn biến hòa bình kiểu Nhật) - đích thị là một ngách tiểu thủ công nghiệp hộ gia đình nổi lên mạnh mẽ trong một số bình luận viên và chính trị gia ở Mỹ. Nhưng không chỉ giữa những người Mỹ mới như vậy. Tại Nhật, một loạt các tác phẩm bán chạy nhất đã nêu luận điểm rằng nước Nhật sẽ thắng thế trong cuộc cạnh tranh công nghệ cao với Hoa Kỳ, và Nhật Bản sẽ sớm trở thành trung tâm của một “đế chế thông tin” toàn cầu, trong khi Mỹ được cho là đang trượt trên đà suy giảm vì sự mệt mỏi và tự mãn xã hội.
Những phân tích dễ dãi này đã bỏ qua một điểm là Nhật Bản đã và vẫn là một quốc gia dễ bị tổn thương. Nó dễ bị tổn thương bởi những gián đoạn nhỏ nhất trong dòng tài nguyên và thương mại toàn cầu có trật tự, chưa kể đến sự ổn định toàn cầu nói chung, và nó bị bủa vây bởi những điểm yếu trong nước về dân số, xã hội và chính trị. Nhật Bản giàu có, năng động và hùng mạnh về kinh tế, nhưng cũng bị cô lập và bị hạn chế về mặt chính trị bởi sự phụ thuộc an ninh vào một đồng minh hùng mạnh, là người bảo vệ chính cho sự ổn định toàn cầu (mà Nhật Bản phụ thuộc vào) cũng như là đối thủ kinh tế chính của Nhật Bản.
Không chắc rằng vị thế hiện tại của Nhật Bản, một mặt, với tư cách là một cường quốc kinh tế đáng nể toàn cầu và mặt khác, như một sự mở rộng địa chính trị của quyền lực Mỹ, vẫn sẽ được chấp nhận bởi các thế hệ mới của Nhật Bản, vốn không còn bị tổn thương và nhục nhã sau những gì trải qua trong Thế chiến thứ hai. Vì lý do lịch sử và lòng tự trọng, Nhật Bản là một quốc gia không hoàn toàn hài lòng với hiện trạng toàn cầu, mặc dù trong một hoàn cảnh khuất phục hơn Trung Quốc. Với một số biện minh, Nhật Bản cảm thấy nó có quyền được công nhận là một cường quốc thế giới nhưng cũng nhận thức được rằng sự phụ thuộc an ninh hữu ích (và là sự trấn an đối với các nước láng giềng châu Á) trong khu vực vào Mỹ ngăn cản sự công nhận đó.
Hơn nữa, sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc trên lục địa châu Á, cùng với triển vọng rằng ảnh hưởng của nó có thể sớm lan tỏa đến các khu vực hàng hải có tầm quan trọng kinh tế đối với Nhật Bản, càng tăng cường cảm nhận mơ hồ của Nhật Bản về tương lai địa chính trị của đất nước. Một mặt, ở Nhật Bản có sự đồng nhất mạnh mẽ về văn hóa và cảm xúc với Trung Quốc cũng như ý thức tiềm ẩn về một bản sắc chung của người châu Á. Một số người Nhật Bản cũng có thể cảm thấy rằng sự trỗi dậy của một Trung Quốc mạnh mẽ hơn có tác dụng trong việc nâng cao tầm quan trọng của Nhật Bản đối với Mỹ khi uy thế khu vực tối cao của Hoa Kỳ suy giảm. Mặt khác, đối với nhiều người Nhật, Trung Quốc là đối thủ truyền thống, là kẻ thù cũ và là mối đe dọa tiềm tàng cho sự ổn định của khu vực. Nó làm cho mối quan hệ an ninh với Mỹ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, ngay cả khi điều đó làm tăng sự phẫn nộ của một số người Nhật Bản theo chủ nghĩa dân tộc liên quan đến những hạn chế khó chịu đối với nền độc lập chính trị và quân sự của Nhật Bản.
Có một sự tương đồng bề ngoài giữa tình hình Nhật Bản tại vùng Viễn Đông Á-Âu và nước Đức tại vùng Viễn Tây Á-Âu. Cả hai đều là đồng minh khu vực chính của Hoa Kỳ. Thật vậy, sức mạnh của Mỹ ở châu Âu và châu Á có nguồn gốc trực tiếp từ các liên minh chặt chẽ với hai quốc gia này. Cả hai đều có các cơ sở quân sự đáng nể, nhưng cũng không độc lập về vấn đề đó: Đức bị hạn chế bởi sự hội nhập quân sự vào NATO, trong khi Nhật Bản bị hạn chế bởi các giới hạn hiến pháp của nó và Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản. Cả hai đều là những cường quốc thương mại và tài chính, chiếm ưu thế trong khu vực và cũng chiếm ưu thế trên phạm vi toàn cầu. Cả hai đều có thể được phân loại là các cường quốc toàn cầu và cả hai đều khó chịu khi tiếp tục bị từ chối sự công nhận chính thức thông qua các ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Nhưng sự khác biệt trong điều kiện địa chính trị tương ứng của họ đang chứa đựng những hậu quả đáng kể. Mối quan hệ thực tế của Đức với NATO đặt quốc gia ngang hàng với các đồng minh châu Âu chính của nó và theo Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, Đức có nghĩa vụ phòng thủ hỗ tương chính thức với Hoa Kỳ. Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản quy định nghĩa vụ của Mỹ là bảo vệ Nhật Bản, nhưng nó không cung cấp (ngay cả khi chỉ chính thức) cho việc sử dụng quân đội Nhật Bản để bảo vệ Mỹ. Hiệp ước có hiệu lực lập thành điều lệ cho một mối quan hệ bảo vệ.
Hơn nữa, Đức, với tư cách là thành viên tích cực trong Liên minh châu Âu và NATO, không còn bị những người hàng xóm trước đây từng bị nó xâm lược xem là mối đe dọa mà thay vào đó là một đối tác kinh tế và chính trị đáng mong muốn. Một số người thậm chí còn hoan nghênh sự xuất hiện tiềm năng của một Trung Âu do Đức đứng đầu, với Đức như một cường quốc lành tính trong khu vực. Điều đó khác xa với các nước láng giềng châu Á của Nhật Bản, những quốc gia luôn chứa chấp sự thù địch kéo dài đối với Nhật trong và sau Thế chiến thứ hai. Một yếu tố góp phần vào sự phẫn nộ của các nước láng giềng là giá trị của đồng yên Nhật. Điều này không chỉ gây ra những lời phàn nàn cay đắng mà còn cản trở sự hòa giải với Malaysia, Indonesia, Philippines và thậm chí cả Trung Quốc, 30% trong số các khoản nợ dài hạn lớn đối với Nhật Bản là bằng đồng yên.
Nhật Bản cũng không có bằng hữu tương đương ở châu Á như Pháp đối với Đức: đó là một đối tác khu vực chân chính và ít nhiều cân xứng. Trung Quốc có một sức hút văn hóa mạnh mẽ, có lẽ lẫn lộn với cảm giác tội lỗi, nhưng sự hấp dẫn đó mơ hồ về mặt chính trị ở chỗ không bên nào tin tưởng bên kia và cũng không sẵn sàng chấp nhận một sự lãnh đạo khu vực nào khác. Nhật Bản cũng không có bằng hữu như Ba Lan với Đức: đó là một nước láng giềng yếu hơn nhưng quan trọng về mặt địa chính trị, trên thực tế đã ít nhiều hòa giải và còn hợp tác với nhau. Có lẽ bán đảo Triều Tiên, đặc biệt là sau khi thống nhất, có thể trở thành bằng hữu tương đương, nhưng quan hệ Nhật-Triều chỉ tốt đẹp về hình thức, với những ký ức Triều Tiên về sự thống trị trong quá khứ và ý thức vượt trội về văn hóa của Nhật Bản cản trở bất kỳ sự hòa giải xã hội thực sự nào8. Cuối cùng, mối quan hệ của Nhật Bản với Nga còn lạnh nhạt hơn nhiều so với Đức. Nga vẫn giữ lại quần đảo Kuril ở phía nam bằng vũ lực mà họ đã chiếm giữ ngay trước khi Thế chiến thứ hai kết thúc, do đó đóng băng mối quan hệ Nga-Nhật. Tóm lại, Nhật Bản bị cô lập về chính trị trong khu vực của mình, trong khi Đức thì không.
Ngoài ra, Đức chia sẻ với các nước láng giềng những nguyên tắc dân chủ chung và cả di sản Kitô giáo rộng lớn hơn ở châu Âu. Nó cũng tìm cách xác định và thậm chí mở rộng trong một thực thể và một động cơ lớn hơn chính nó, đó chính là “châu Âu.” Ngược lại, không có gì có thể so sánh được với châu Á. Tất nhiên, quá khứ đảo quốc của Nhật Bản và thậm chí hệ thống dân chủ hiện tại có khuynh hướng tách biệt nó ra khỏi phần còn lại của khu vực, bất chấp sự xuất hiện trong những năm gần đây của nền dân chủ ở một số nước châu Á. Nhiều nước châu Á coi Nhật Bản không chỉ ích kỷ về mặt quốc gia mà còn quá bắt chước phương Tây và miễn cưỡng tham gia cùng họ khi đặt câu hỏi về quan điểm của phương Tây về quyền con người và tầm quan trọng của chủ nghĩa cá nhân. Do đó, Nhật Bản bị nhiều nước châu Á coi là không thực sự châu Á, ngay cả phương Tây thỉnh thoảng cũng tự hỏi Nhật Bản đã thực sự trở thành phương Tây tới mức độ nào.
Trên thực tế, mặc dù ở châu Á, Nhật Bản không phải hoàn toàn thuộc về châu Á. Điều kiện đó hạn chế rất nhiều lựa chọn địa chiến lược của nó. Một lựa chọn thực sự trong khu vực, của một nước Nhật Bản có ưu thế trong khu vực, phủ bóng lên Trung Quốc ngay cả khi không còn dựa vào sự thống trị của Nhật Bản mà thay vào đó là sự hợp tác khu vực do một Nhật Bản lành tính lãnh đạo, dường như không khả thì vì lý do lịch sử, chính trị và văn hóa vững chắc. Hơn nữa, Nhật Bản vẫn phụ thuộc vào sự bảo vệ của quân đội Mỹ và tài trợ quốc tế. Việc bãi bỏ hoặc thậm chí là sự suy yếu dần dần của Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản sẽ khiến Nhật Bản dễ bị tổn thương ngay lập tức trước những gián đoạn mà bất kỳ biểu hiện nghiêm trọng nào của bất ổn khu vực hoặc toàn cầu có thể tạo ra. Các lựa chọn thay thế duy nhất sau đó sẽ là chấp nhận ưu thế khu vực của Trung Quốc hoặc thực hiện một chương trình tái vũ trang quân sự lớn không chỉ tốn kém mà còn rất nguy hiểm.
Có thể hiểu được, nhiều người Nhật nhận thấy ở vị thế hiện tại của đất nước của họ, là một thế lực toàn cầu và là một người bảo vệ an ninh, một sự phi thường. Nhưng những thay thế đầy kịch tính và khả thi cho các phương án dàn xếp hiện tại không phải là điều hiển nhiên. Có thể nói, các mục tiêu quốc gia của Trung Quốc - dù giữa các chiến lược gia Trung Quốc có nhiều quan điểm khác cụ thể - là những động lực rõ ràng và nhất quán, thúc đẩy tham vọng địa chính trị của Trung Quốc trong khu vực; còn tầm nhìn địa chiến lược của Nhật Bản dường như khá mờ mịt và tâm trạng của công chúng Nhật thì còn mơ hồ hơn nhiều.
Hầu hết người Nhật nhận ra rằng một sự thay đổi đột ngột và có ý nghĩa chiến lược tất nhiên có thể nguy hiểm. Liệu Nhật Bản có thể trở thành cường quốc trong một khu vực nơi nó vẫn còn là đối tượng của sự thù địch và cũng là nơi Trung Quốc đang nổi lên như một cường quốc trong khu vực? Liệu Nhật Bản có thể trở thành một cường quốc toàn cầu thực sự (trong mọi chiều hướng) mà không loại bỏ sự hỗ trợ của Mỹ và làm khơi dậy sự thù địch trong khu vực xa hơn nữa không? Và liệu Mỹ, trong mọi trường hợp, có ở lại châu Á, và nếu có, phản ứng của nó đối với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc va chạm với ưu tiên cho mối quan hệ Mỹ-Nhật sẽ như thế nào? Trong hầu hết Chiến tranh Lạnh, không có câu hỏi nào trong số này cần được nêu ra. Ngày nay, chúng trở thành vấn đề nổi bật về mặt chiến lược và đang thúc đẩy một cuộc tranh luận ngày càng sôi nổi ở Nhật Bản.
Từ những năm 1950, chính sách đối ngoại của Nhật Bản đã được hướng dẫn bởi bốn nguyên tắc cơ bản do Thủ tướng Shigeru Yoshida ban hành sau chiến tranh. Học thuyết Yoshida cho rằng: (1) mục tiêu chính của Nhật Bản là phát triển kinh tế, (2) Nhật Bản nên được vũ trang nhẹ và nên tránh tham gia vào các cuộc xung đột quốc tế, (3) Nhật Bản nên tuân theo sự lãnh đạo chính trị và chấp nhận bảo vệ quân sự từ Hoa Kỳ, và (4) ngoại giao của Nhật Bản nên mang tính phi tôn giáo và nên tập trung vào hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, vì nhiều người Nhật cũng cảm thấy không yên tâm về mức độ tham gia của Nhật Bản trong Chiến tranh Lạnh, nên viễn tưởng về địa vị bán trung lập cho nước này được đồng thời phát triển. Thật vậy, vào cuối năm 1981, Ngoại trưởng Masayoshi Ito đã buộc phải từ chức vì cho phép thuật ngữ “đồng minh” (domei) được sử dụng để mô tả quan hệ Hoa Kỳ-Nhật Bản.
Tất cả đều đã là quá khứ. Nhật Bản sau đó đã hồi phục, Trung Quốc tự cô lập và vùng Á-Âu bị phân cực. Ngược lại, giới tinh hoa chính trị Nhật Bản bây giờ cảm thấy rằng một nước Nhật giàu có, tham gia vào giữa các chiến lược gia Trung Quốc thế giới, không còn có thể xem tự thân làm giàu là mục đích quốc gia trung tâm của mình nữa. Chưa kể, một Nhật Bản hùng mạnh về kinh tế, đặc biệt lại là một nước cạnh tranh với Mỹ, không thể đơn giản là một phần mở rộng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, đồng thời vẫn né tránh mọi trách nhiệm chính trị quốc tế. Một Nhật Bản có ảnh hưởng hơn về chính trị, đặc biệt là một nước tìm kiếm sự công nhận toàn cầu (ví dụ, một vị trí thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc), không thể tránh được các vấn đề an ninh hoặc địa chính trị quan trọng hơn ảnh hưởng đến hòa bình thế giới.
Do đó, những năm gần đây đã xuất hiện và phổ biến các nghiên cứu-báo cáo đặc biệt của nhiều cơ quan nhà nước và tư nhân Nhật Bản, cũng như rất nhiều cuốn sách gây tranh cãi của các chính trị gia và giáo sư nổi tiếng, trong đó phác thảo các nhiệm vụ mới cho Nhật Bản trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh9. Nhiều trong số này có liên quan đến suy đoán về độ bền và mức độ được mong muốn của một liên minh an ninh Mỹ-Nhật, đồng thời ủng hộ một nền ngoại giao Nhật Bản tích cực hơn, đặc biệt là đối với Trung Quốc, hoặc vai trò quân sự mạnh mẽ hơn của Nhật Bản trong khu vực. Nếu phán xét tình trạng của mối liên kết an ninh Mỹ-Nhật trên cơ sở đối thoại công khai, người ta sẽ có lý khi kết luận rằng vào giữa những năm 1990, mối quan hệ giữa hai nước đã bước vào giai đoạn khủng hoảng.
Tuy nhiên, ở phạm vi chính sách công, các khuyến nghị được thảo luận nghiêm túc, về tổng thể, là tương đối tỉnh táo, đo lường được và mềm dẻo. Các lựa chọn cực đoan của chủ nghĩa hòa bình toàn cục (nhuốm mùi chống Hoa Kỳ) hoặc của tái vũ trang quan trọng và đơn phương (với đề xuất sửa đổi Hiến pháp và được một số người Nhật theo đuổi, bất chấp phản ứng bất lợi của Mỹ và khu vực) đã ít nhiều được ủng hộ. Sự hấp dẫn công khai của chủ nghĩa hòa bình, vì lý do gì, suy yếu trong những năm gần đây, trong khi chủ nghĩa đơn phương và chủ nghĩa quân phiệt cũng không giành được nhiều sự ủng hộ của công chúng, bất chấp động thái hậu thuẫn của một số phát ngôn viên. Công chúng nói chung và chắc chắn là giới kinh doanh có cảm nhận trực quan rằng không có phương án nào đưa ra được một lựa chọn chính sách thực sự, và trên thực tế chúng chỉ có thể gây nguy hiểm cho sự thịnh vượng của Nhật Bản.
Những thảo luận công khai về mặt chính trị chủ yếu liên quan đến sự khác biệt thấy rõ nơi vị thế quốc tế cơ bản của Nhật Bản, với một số biến thể thứ cấp liên quan đến các ưu tiên địa chính trị. Theo nghĩa rộng, có ba định hướng chính, và có lẽ là một định hướng thứ tư nhỏ, có thể được xác định và đặt tên như sau: những người quả quyết “nước Mỹ trên hết”, những người theo chủ nghĩa trọng thương toàn cầu, những người hiện thực chủ động và những người có tầm nhìn quốc tế. Tuy nhiên, trong phân tích cuối cùng, cả bốn phương hướng đều có chung một mục tiêu và chia sẻ một mối quan tâm chung: khai thác mối quan hệ đặc biệt với Hoa Kỳ để có được sự công nhận toàn cầu đối với Nhật Bản, đồng thời tránh sự thù địch với người châu Á và không gây nguy hiểm cho chiếc ô an ninh của Mỹ.
Định hướng đầu tiên xuất phát từ chủ trương duy trì mối quan hệ Mỹ-Nhật hiện tại, xem nó là cốt lõi của địa chiến lược Nhật Bản. Tham vọng của nó, cũng như của hầu hết người Nhật, là sự công nhận quốc tế lớn hơn đối với Nhật Bản và sự bình đẳng hơn trong liên minh, nhưng đó là nguyên tắc chủ yếu, như Thủ tướng Kiichi Miyazawa đưa ra vào tháng 1 năm 1993 về “viễn cảnh mà thế giới đang hướng tới sẽ phụ thuộc phần lớn vào việc Nhật Bản và Hoa Kỳ… có thể cung cấp sự lãnh đạo phối hợp trong một tầm nhìn chung hay không.” Quan điểm này đã chiếm ưu thế trong giới tinh hoa chính trị quốc tế và cơ sở chính sách đối ngoại vốn đã nắm giữ quyền lực trong suốt hai thập kỷ qua. Về các vấn đề địa chiến lược quan trọng của vai trò khu vực của Trung Quốc và sự hiện diện của Mỹ ở Triều Tiên, sự lãnh đạo đó được Hoa Kỳ ủng hộ, nhưng nó cũng coi vai trò của mình như một nguồn lực kiềm chế bất kỳ khuynh hướng nào của Mỹ nhằm vào thế đối đầu với Trung Quốc. Trên thực tế, ngay cả nhóm này đã trở nên ngày càng có xu hướng nhấn mạnh sự cần thiết phải quan hệ chặt chẽ hơn giữa Nhật Bản và Trung Quốc, xếp hạng tầm quan trọng của nó chỉ ngay dưới mối quan hệ với Mỹ.
Định hướng thứ hai không tranh luận việc xác định địa chiến lược của chính sách Nhật Bản với Mỹ, nhưng nó xem lợi ích của Nhật Bản được phục vụ tốt nhất một khi thừa nhận thẳng thắn và chấp nhận thực tế rằng Nhật Bản chủ yếu là một cường quốc kinh tế. Triển vọng này thường được kết hợp với bộ máy quan liêu có ảnh hưởng truyền thống của MITI (Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc tế) và với lãnh đạo doanh nghiệp xuất khẩu và kinh doanh của đất nước. Theo quan điểm này, việc phi quân sự hóa quan hệ Nhật Bản là thứ có lợi đáng để phục vụ trước. Với việc Mỹ đảm bảo an ninh của đất nước, Nhật Bản có thể tự do theo đuổi chính sách tham gia kinh tế toàn cầu, vốn sẽ giúp lặng lẽ nâng cao vị thế toàn cầu.
Trong một thế giới lý tưởng, định hướng thứ hai sẽ nghiêng về chính sách ít nhất là trung lập thực tế, với việc Mỹ bù đắp sức mạnh khu vực của Trung Quốc và từ đó bảo vệ Đài Loan và Hàn Quốc, do đó giúp Nhật Bản tự do xây dựng mối quan hệ kinh tế gần gũi hơn với đại lục và với Đông Nam Á. Tuy nhiên, với thực tế chính trị hiện có, những người theo chủ nghĩa trọng thương toàn cầu chấp nhận liên minh Mỹ-Nhật như một sự sắp xếp cần thiết, bao gồm các khoản chi ngân sách tương đối khiêm tốn cho các lực lượng vũ trang Nhật Bản (vẫn không vượt quá 1% GDP của đất nước), nhưng họ không mong muốn hòa trộn liên minh này với bất kỳ bản chất có ý nghĩa nào trong khu vực.
Định hướng thứ ba, những người hiện thực chủ động, có xu hướng trở thành các chính trị gia và nhà tư tưởng địa chính trị mới. Họ tin rằng với tư cách là một nền dân chủ giàu có và thành công, Nhật Bản có cả cơ hội và nghĩa vụ tạo ra sự khác biệt thực sự trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh. Bằng cách đó, nó cũng có thể đạt được sự công nhận toàn cầu mà Nhật Bản được coi là một cường quốc kinh tế được xếp hạng trong lịch sử nằm trong số ít các quốc gia thực sự vĩ đại trên thế giới. Sự xuất hiện của một vị thế Nhật Bản cứng cáp hơn như vậy đã được Thủ tướng Yasuhiro Nakasone báo trước vào những năm 1980, nhưng có lẽ sự trình bày nổi tiếng nhất về quan điểm đó đã được nêu trong báo cáo gây tranh cãi của Ủy ban Ozawa, được xuất bản năm 1994 và có tên gọi là “Kế hoạch chi tiết cho một Nhật Bản mới: tái thiết tư tưởng về một quốc gia.”
Được đặt theo tên của chủ tịch ủy ban, Ichiro Ozawa, một nhà lãnh đạo chính trị trung tâm đang nổi lên nhanh chóng, báo cáo ủng hộ cả việc dân chủ hóa văn hóa chính trị phân cấp của đất nước và suy nghĩ lại về vị thế quốc tế của Nhật Bản. Thúc giục Nhật Bản trở thành “một quốc gia bình thường,” báo cáo đề nghị duy trì kết nối an ninh Nhật-Mỹ nhưng cũng khuyên Nhật Bản nên từ bỏ sự thụ động quốc tế bằng cách tham gia tích cực vào chính trị toàn cầu, đặc biệt là đi đầu trong các nỗ lực gìn giữ hòa bình quốc tế. Do đó, báo cáo khuyến nghị rằng các giới hạn hiến pháp của quốc gia trong việc phái các lực lượng vũ trang Nhật Bản ra nước ngoài nên được dỡ bỏ.
Không được trả lời nhưng ngụ ý bởi sự nhấn mạnh vào “một quốc gia bình thường”, đó cũng là khái niệm về một sự giải phóng địa chính trị quan trọng hơn từ tấm chắn an ninh của Mỹ. Những người ủng hộ quan điểm này có xu hướng lập luận rằng về các vấn đề có tầm quan trọng toàn cầu, Nhật Bản không nên ngần ngại lên tiếng cho châu Á, thay vì tự động đi theo sự dẫn dắt của Mỹ. Tuy nhiên, họ vẫn đặc biệt mơ hồ về các vấn đề nhạy cảm như vai trò khu vực ngày càng tăng của Trung Quốc hoặc tương lai của bán đảo Triều Tiên, không khác nhiều so với các bằng hữu truyền thống hơn của họ. Do đó, liên quan đến an ninh khu vực, họ ủng hộ xu hướng mạnh mẽ của Nhật Bản đó là để cho cả hai vấn đề này chủ yếu vẫn nằm trong phạm vi trách nhiệm của Mỹ, Nhật Bản chỉ thực hiện vai trò kiểm duyệt đối với bất kỳ sự nhiệt tình quá mức nào của Mỹ.
Đến nửa cuối thập niên 1990, định hướng hiện thực chủ động này đã bắt đầu chi phối suy nghĩ của công chúng và ảnh hưởng đến việc xây dựng chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Vào nửa đầu năm 1996, chính phủ Nhật Bản bắt đầu nói về “chính sách ngoại giao độc lập” của Nhật Bản (jishu gaiko), mặc dù Bộ Ngoại giao Nhật Bản luôn thận trọng đã chọn dịch cụm từ tiếng Nhật sang một thuật ngữ mơ hồ (và đối với Mỹ có lẽ ít ám chỉ) là “ngoại giao chủ động”.
Định hướng thứ tư, của những người có tầm nhìn quốc tế, ít có ảnh hưởng hơn bất kỳ định hướng trước đây, nhưng đôi khi nó lại pha vào quan điểm của Nhật Bản với những lời hoa mỹ lý tưởng hơn. Nó có xu hướng được liên kết công khai với những cá nhân xuất sắc như Akio Morita của Sony, người đã kịch tính hóa một cách cá nhân tầm quan trọng của Nhật Bản về một cam kết thể hiện cho các mục tiêu toàn cầu đáng mong đợi về mặt đạo đức. Thường viện dẫn khái niệm về “một trật tự toàn cầu mới”, những người có tầm nhìn gọi Nhật Bản là một nhà lãnh đạo toàn cầu trong việc phát triển và thúc đẩy một chương trình nghị sự thực sự nhân đạo cho cộng đồng thế giới, bởi lẽ nó không chịu gánh nặng của các trách nhiệm địa chính trị.
Tất cả bốn định hướng đều thống nhất về một vấn đề chính của khu vực: rằng sự xuất hiện của hợp tác đa phương châu Á-Thái Bình Dương là vì lợi ích của Nhật Bản. Theo thời gian, sự hợp tác này có thể có ba tác động tích cực: nó có thể giúp thu hút (và cũng để kiềm chế khôn khéo) Trung Quốc; nó có thể giúp giữ nước Mỹ ở châu Á, cho dù cùng lúc làm giảm dần ưu thế của Mỹ; và nó có thể giúp giảm bớt sự phẫn nộ chống Nhật Bản và do đó làm tăng ảnh hưởng của Nhật Bản. Mặc dù khó có thể tạo ra một phạm vi ảnh hưởng khu vực của Nhật Bản, nhưng nó có thể đạt được một số mức độ kính trọng khu vực cho Nhật Bản, đặc biệt là ở các quốc gia hàng hải ngoài khơi có thể lo ngại trước sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc.
Cả bốn quan điểm cũng đồng ý rằng một sự vun đắp thận trọng với Trung Quốc sẽ được ưu tiên hơn bất kỳ nỗ lực lãnh đạo nào của Mỹ nhằm ngăn chặn trực tiếp Trung Quốc. Trên thực tế, khái niệm về một chiến lược do Mỹ lãnh đạo nhằm kiềm chế Trung Quốc, hoặc thậm chí ý tưởng về một liên minh cân bằng không chính thức giới hạn ở các quốc đảo Đài Loan, Philippines, Brunei và Indonesia, được Nhật Bản và Mỹ hỗ trợ đều không đặc biệt hấp dẫn Nhật Bản để nước này thiết lập chính sách đối ngoại phù hợp. Theo quan điểm của Nhật Bản, bất kỳ nỗ lực nào như vậy sẽ không chỉ đòi hỏi sự hiện diện quân sự chính yếu và vô thời hạn của Mỹ ở cả Nhật Bản và Hàn Quốc mà còn, bằng cách tạo ra sự chồng chéo về địa chính trị mang tính kích động giữa lợi ích khu vực Trung Quốc và Mỹ-Nhật (xem bản đồ ở trang 294), có khả năng trở thành một lời tiên tri đang xảy ra về một sự va chạm với Trung Quốc10. Kết quả sẽ làm cản trở sự tự do phát triển của Nhật Bản và đe dọa sự thịnh vượng của nền kinh tế Viễn Đông.
Tương tự như vậy, ít người ủng hộ điều ngược lại: một sự dàn xếp lớn giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Hậu quả khu vực của một sự đảo ngược thành liên minh cổ điển như vậy sẽ rất đáng lo ngại: Mỹ rút quân khỏi khu vực cũng như cả Đài Loan và toàn bán đảo Triều Tiên nhanh chóng phụ thuộc vào Trung Quốc, để mặc Nhật Bản cho Trung Quốc chi phối. Đây không phải là một triển vọng hấp dẫn, ngoại trừ với một số phần tử cực đoan. Theo đó, với việc Nga bị cách ly về mặt địa chính trị và bị coi thường về mặt lịch sử, sẽ không có sự thay thế nào ngoài nhất trí cơ bản rằng mối liên hệ với Mỹ vẫn là huyết mạch trung tâm của Nhật Bản. Không có nó, Nhật Bản không thể đảm bảo cho bản thân một nguồn cung cấp dầu ổn định cũng như không thể tự bảo vệ mình khỏi một quả bom hạt nhân của Trung Quốc (và có lẽ không lâu nữa là của Bắc Triều Tiên). Vấn đề chính sách thực sự duy nhất là làm cách nào để thao túng kết nối với Mỹ nhằm thúc đẩy lợi ích của Nhật Bản.
Theo đó, người Nhật đã tham gia cùng với tham vọng của Mỹ để tăng cường hợp tác quân sự Mỹ-Nhật, bao gồm cả phạm vi dường như đã rộng hơn từ vùng “Viễn Đông” đến một “công thức châu Á-Thái Bình Dương” rộng lớn hơn. Phù hợp với điều này, vào đầu năm 1996 khi xem xét cái được gọi là hướng dẫn quốc phòng Hoa Kỳ-Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản cũng mở rộng tham chiếu đến việc sử dụng lực lượng quốc phòng Nhật Bản từ “các trường hợp khẩn cấp ở Viễn Đông” đến “các trường hợp khẩn cấp ở khu vực lân cận của Nhật Bản.” Việc Nhật Bản sẵn sàng dàn xếp với Mỹ về vấn đề này cũng đã được thúc đẩy bởi những nghi ngờ liên quan đến quyền lực lâu dài của Mỹ ở châu Á và bởi những lo ngại, và Mỹ dường như cũng lo lắng, rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc tại một thời điểm trong tương lai vẫn sẽ áp đặt cho Nhật Bản một sự lựa chọn không thể chấp nhận được: đứng cùng Mỹ để chống lại Trung Quốc hoặc bỏ qua Mỹ và liên minh với Trung Quốc.
Đối với Nhật Bản, vấn đề nan giải cơ bản đó cũng chứa đựng một mệnh lệnh lịch sử: kể từ khi việc trở thành cường quốc thống trị khu vực không phải là mục tiêu khả thi và vì không có cơ sở khu vực, việc đạt được sức mạnh toàn cầu thực sự là không thực tế, theo đó Nhật Bản có thể đạt được vị thế lãnh đạo toàn cầu thông qua hoạt động tích cực trong việc gìn giữ hòa bình và phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Bằng cách tận dụng liên minh quân sự Mỹ-Nhật để đảm bảo sự ổn định của Viễn Đông nhưng không để nó phát triển thành một liên minh chống Trung Quốc, Nhật Bản có thể an toàn thực hiện sứ mệnh toàn cầu đặc biệt và có ảnh hưởng với tư cách một thế lực thúc đẩy sự xuất hiện của việc hợp tác quốc tế và thiết chế hóa hiệu quả hơn. Do đó, Nhật Bản có thể trở thành một quốc gia tương đương mạnh mẽ và có ảnh hưởng toàn cầu hơn nhiều so với Canada: một quốc gia được tôn trọng vì sử dụng của cải và quyền lực của mình cho mục đích tạo dựng chứ không gây ra nỗi sợ hãi cũng như phẫn nộ.
ĐIỀU CHỈNH ĐỊA CHIẾN LƯỢC CỦA MỸ
Nhiệm vụ chính sách của Mỹ là nhằm đảm bảo chắc chắn rằng Nhật Bản theo đuổi sự lựa chọn như vậy và sự trỗi dậy của Trung Quốc, trở thành thế lực thống trị, trong khu vực không loại trừ thế chân vạc ổn định của sức mạnh Đông Á. Nỗ lực quản lý cả Nhật Bản và Trung Quốc và để duy trì mối quan hệ tương tác ba chiều ổn định có liên quan đến Mỹ sẽ đòi hỏi rất nhiều kỹ năng ngoại giao và trí tưởng tượng chính trị của Mỹ. Rũ bỏ sự cố định quá khứ đối với mối đe dọa được cho là do sự lên ngôi của nền kinh tế Nhật Bản và nỗi sợ hãi về sức mạnh chính trị Trung Quốc có thể giúp truyền tải chủ nghĩa hiện thực lạnh lùng vào một chính sách phải dựa trên tính toán chiến lược cẩn thận: làm thế nào để hướng năng lực của Nhật Bản theo hướng quốc tế và cách lèo lái quyền lực Trung Quốc vào một chỗ ở khu vực.
Chỉ bằng cách này, Mỹ mới có thể tạo ra ở phía đông lục địa Á-Âu một vai trò địa chính trị tương đương với vai trò của châu Âu ở ngoại vi phía tây của lục địa Á-Âu, nghĩa là một cấu trúc quyền lực khu vực dựa trên lợi ích chung. Tuy nhiên, không giống như trường hợp ở châu Âu, một đầu cầu dân chủ ở phía đông Á-Âu sẽ không sớm xuất hiện. Thay vào đó, ở Viễn Đông, một liên minh được tái chuyển hướng với Nhật Bản phải làm cơ sở cho vị thế của người Mỹ trước một Trung Quốc có ưu thế trong khu vực.
Đối với Mỹ, một số kết luận địa chiến lược quan trọng phát sinh từ phân tích có trong hai phần trước của chương này:
Một suy nghĩ đang phổ biến rằng Trung Quốc sẽ là cường quốc toàn cầu tiếp theo đang gây ra sự hoang tưởng về Trung Quốc và đang thúc đẩy tính hiếu chiến, thích làm lớn trong nội bộ Trung Quốc. Những lo ngại về một Trung Quốc hung hăng và đối kháng mà trước đó được cho là sẽ trở thành cường quốc toàn cầu tiếp theo vẫn còn rất sớm; nhưng chúng có thể trở thành một lời tiên tri sắp xảy ra. Theo đó, sẽ rất phản tác dụng khi một liên minh được hình thành nhằm ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc trở thành thế lực toàn cầu. Điều đó sẽ chỉ đảm bảo rằng một Trung Quốc có ảnh hưởng trong khu vực sẽ trở nên thù địch. Đồng thời, bất kỳ nỗ lực nào như vậy sẽ làm căng thẳng mối quan hệ Mỹ-Nhật, vì hầu hết người Nhật sẽ có khả năng chống lại liên minh như vừa nêu trên. Theo đó, Hoa Kỳ nên từ bỏ việc thúc ép Nhật Bản đảm nhận trách nhiệm quốc phòng lớn hơn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Những nỗ lực cho hiệu ứng đó sẽ chỉ cản trở sự xuất hiện của mối quan hệ ổn định giữa Nhật Bản và Trung Quốc, đồng thời cô lập Nhật Bản trong khu vực.
Nhưng đúng ra, Trung Quốc trên thực tế không có khả năng sớm nổi lên như một cường quốc toàn cầu, nên sẽ là không khôn ngoan khi theo đuổi chính sách ngăn chặn Trung Quốc trong khu vực, mà sẽ đáng kỳ vọng hơn nếu coi Trung Quốc như một đối tác có ý nghĩa toàn cầu. Đưa Trung Quốc vào hợp tác quốc tế rộng lớn hơn và trao cho nó vị thế mà nó mong muốn có thể có tác dụng làm mòn đi các khía cạnh của tham vọng quốc gia Trung Quốc. Một bước quan trọng theo hướng đó là đưa Trung Quốc vào hội nghị thượng đỉnh hằng năm của các quốc gia hàng đầu thế giới, còn gọi là G-7, nhất là khi Nga cũng đã được mời tham dự.
Mặc dù phát triển, Trung Quốc trên thực tế không có lựa chọn chiến lược lớn. Sự thành công liên tiếp về kinh tế của Trung Quốc vẫn phụ thuộc rất nhiều vào dòng vốn và công nghệ phương Tây và vào việc tiếp cận thị trường nước ngoài, hạn chế nghiêm trọng các lựa chọn của Trung Quốc. Liên minh với một nước Nga không ổn định và nghèo nàn sẽ không tăng cường triển vọng kinh tế hoặc địa chính trị của Trung Quốc (và đối với Nga, điều đó có nghĩa là phụ thuộc vào Trung Quốc). Do đó, đây không phải là một lựa chọn địa chiến lược khả thi, ngay cả khi ý tưởng này hấp dẫn về mặt chiến thuật đối với cả Trung Quốc và Nga. Viện trợ của Trung Quốc cho Iran và Pakistan có ý nghĩa địa chính trị và khu vực tức thời hơn đối với Trung Quốc, nhưng điều đó cũng không phải là điểm khởi đầu cho một sứ mệnh nghiêm túc về địa vị quyền lực toàn cầu. Một liên minh “chống bá quyền” có thể trở thành một lựa chọn cuối cùng nếu Trung Quốc cảm thấy rằng nguyện vọng quốc gia hoặc khu vực của họ đang bị Hoa Kỳ ngăn chặn (với sự hỗ trợ của Nhật Bản). Nhưng nó sẽ là một liên minh của những nước nghèo, những nước sau đó có khả năng vẫn sẽ cùng nhau nghèo trong khoảng thời gian tới.
Một Đại Trung Hoa đang nổi lên thành một cường quốc thống trị trong khu vực. Như vậy, nó có thể cố gắng áp đặt mình lên các nước láng giềng bằng cách gây bất ổn khu vực; hoặc nó có thể hài lòng với việc thực hiện ảnh hưởng của mình một cách gián tiếp hơn, phù hợp với lịch sử đế quốc của Trung Quốc trong quá khứ. Việc một phạm vi ảnh hưởng bá quyền hay một phạm vi bảo hộ mơ hồ xuất hiện sẽ phụ thuộc một phần vào việc chế độ Trung Quốc rồi sẽ ra sao, và một phần khác là vào cách mà những đối thủ quan trọng bên ngoài, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản, phản hồi trước sự trỗi dậy của một Trung Quốc rộng lớn hơn. Một chính sách khuyến giải đơn giản có thể khuyến khích một vị thế Trung Quốc quyết đoán hơn; nhưng một chính sách chỉ đơn thuần cản trở sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng có thể sẽ tạo ra một kết quả tương tự. Sự dàn xếp thận trọng về một số vấn đề và một bản phác họa lộ trình chinh xác trên những vấn đề khác có thể tránh được sự cực đoan.
Trong mọi trường hợp, ở một số khu vực của lục địa Á-Âu, Trung Quốc có thể thực hiện ảnh hưởng địa chính trị tương thích với các lợi ích địa chiến lược lớn của Mỹ trong một khu vực Á-Âu ổn định nhưng đa nguyên về chính trị. Ví dụ, sự quan tâm ngày càng tăng của Trung Quốc đối với Trung Á chắc chắn sẽ kìm hãm quyền tự do hành động của Nga trong việc tìm cách đạt được bất kỳ hình thức tái hòa nhập chính trị nào của khu vực dưới sự kiểm soát của Moscow. Trong mối liên hệ này và liên quan đến Vịnh Ba Tư, nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của Trung Quốc cho thấy mối quan tâm chung với Mỹ trong việc duy trì quyền tiếp cận tự do và ổn định chính trị ở các khu vực sản xuất dầu. Tương tự, Trung Quốc hỗ trợ cho Pakistan kiềm chế tham vọng của Ấn Độ khi buộc quốc gia đó phụ thuộc vào mình và bù đắp cho Ấn Độ xu hướng hợp tác với Nga liên quan đến Afghanistan và Trung Á. Cuối cùng, sự tham gia của Trung Quốc và Nhật Bản vào sự phát triển của miền Đông Siberia cũng có thể giúp tăng cường sự ổn định khu vực. Những lợi ích chung này cần được khám phá thông qua một cuộc đối thoại chiến lược bền vững11.
Cũng có những lĩnh vực nơi tham vọng của Trung Quốc có thể xung đột với lợi ích của Mỹ (và cả Nhật Bản), nhất là khi Trung Quốc theo đuổi chúng thông qua những chiến thuật mạnh tay quen thuộc trong lịch sử. Đây là lưu ý đặc biệt cho Đông Nam Á, Đài Loan và Triều Tiên.
Đông Nam Á, xét về tiềm năng, quá giàu có, quá rộng về mặt địa lý và đơn giản là quá lớn để có thể dễ dàng bị phụ thuộc vào một Trung Quốc mạnh mẽ, nhưng nó cũng quá yếu và quá phân mảnh về mặt chính trị nên ít nhiều khó tránh việc trở thành một phạm vi bảo hộ đối với Trung Quốc. Ảnh hưởng khu vực của Trung Quốc, được khuyến khích bởi sự hiện diện tài chính và kinh tế của Trung Quốc tại tất cả các quốc gia trong khu vực, chắc chắn sẽ tăng lên khi sức mạnh Trung Quốc tăng lên. Phần lớn phụ thuộc vào cách Trung Quốc áp dụng sức mạnh đó, nhưng không rõ ràng rằng Mỹ có bất kỳ lợi ích đặc biệt nào trong việc chống đối nó trực tiếp hoặc tham gia vào các vấn đề như tranh chấp Biển Đông. Người Trung Quốc có kinh nghiệm lịch sử đáng kể trong việc quản lý một cách linh hoạt các mối quan hệ bất bình đẳng (hoặc với nước chư hầu), và chắc chắn sẽ có lợi cho chính Trung Quốc khi họ tự kiềm chế để tránh nỗi lo ngại nhắm vào chủ nghĩa đế quốc Trung Quốc tại khu vực. Nỗi sợ hãi đó có thể tạo ra một liên minh chống Trung Quốc trong khu vực (và một số phản ứng quá mức đã hiện diện trong hợp tác quân sự Indonesia-Australia còn non trẻ), thứ sau đó rất có thể sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia.
Một Đại Trung Hoa, đặc biệt là sau khi tiếp quản Hồng Kông, gần như chắc chắn sẽ tìm kiếm nhiều năng lượng hơn để hoàn tất hợp nhất Đài Loan vào đại lục. Điều quan trọng là phải đánh giá cao thực tế Trung Quốc chưa bao giờ chấp nhận sự chia rẽ vô định với Đài Loan. Do đó, tại một thời điểm bất kỳ, vấn đề đó có thể tạo ra một vụ va chạm trực diện giữa Mỹ và Trung Quốc. Hậu quả của nó đối với tất cả các mối quan tâm sẽ gây thiệt hại rất lớn: triển vọng kinh tế của Trung Quốc sẽ bị kéo chậm lại; mối quan hệ của Mỹ với Nhật Bản có thể trở nên căng thẳng; và những nỗ lực của Mỹ để tạo ra sự cân bằng quyền lực ổn định ở phía đông lục địa Á-Âu có thể bị trật đường ray.
Theo đó, điều cần thiết là phải đạt được và duy trì một cách đối ứng càng rõ ràng càng tốt về vấn đề này. Ngay cả khi trong tương lai gần, Trung Quốc có khả năng thiếu phương tiện để cưỡng chế Đài Loan một cách hiệu quả, Bắc Kinh phải hiểu rõ và tin chắc rằng, sự đồng ý của Mỹ trong nỗ lực tái hòa nhập Đài Loan, bằng cách sử dụng sức mạnh quân sự, cũng sẽ tàn phá vị thế của Mỹ ở Viễn Đông đến nỗi Mỹ đơn giản là không thể tiếp tục duy trì sự thụ động về mặt quân sự nếu Đài Loan không thể tự bảo vệ.
Nói cách khác, Mỹ sẽ phải can thiệp không phải vì một Đài Loan riêng biệt mà vì lợi ích địa chính trị của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đây là một dấu hiệu đặc biệt quan trọng. Hoa Kỳ không có bất kỳ mối quan tâm đặc biệt nào đối với một Đài Loan riêng biệt. Trên thực tế, địa vị chính thức của nó đã và nên duy trì bằng việc chỉ có một Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc tìm kiếm sự thống nhất bằng cách nào có thể ảnh hưởng đến lợi ích quan trọng của Mỹ và người Trung Quốc phải nhận thức rõ điều đó.
Vấn đề Đài Loan cũng mang lại cho Mỹ một lý do chính đáng để đưa ra câu hỏi về quyền con người trong các thỏa thuận với Trung Quốc mà không cần biện minh cho cáo buộc can thiệp vào các vấn đề nội địa của Trung Quốc. Hoàn toàn thích hợp khi nhắc lại với Bắc Kinh rằng việc thống nhất sẽ chỉ được thực hiện khi Trung Quốc trở nên thịnh vượng và dân chủ hơn. Chỉ có một Trung Quốc như vậy mới có thể thu hút Đài Loan và đồng hóa nó vào Đại Trung Hoa, vốn đã được chuẩn bị để trở thành một liên bang dựa trên nguyên tắc của “một quốc gia, đa chế độ.” Trong bất kỳ trường hợp nào, tăng cường tôn trọng quyền con người là vì lợi ích của chính Trung Quốc, do đó là bối cảnh phù hợp để Mỹ giải quyết vấn đề.
Đồng thời, Hoa Kỳ cũng tuân thủ quy định theo đúng lời hứa với Trung Quốc về việc tránh trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ bất kỳ sự nâng cấp quốc tế nào cho vị thế của Đài Loan. Vào những năm 1990, một số liên hệ chính thức giữa Hoa Kỳ và Đài Loan đã truyền đạt ấn tượng rằng Mỹ đã bắt đầu coi Đài Loan là một quốc gia riêng biệt và sự tức giận của Trung Quốc đối với vấn đề này là điều dễ hiểu, cũng như sự phẫn nộ của Trung Quốc đối với nỗ lực tăng cường của các quan chức Đài Loan để đạt được sự công nhận quốc tế cho vị thế riêng biệt của lãnh thổ này.
Do đó, Hoa Kỳ không nên ngại ngùng nói rõ ràng thái độ của họ đối với Đài Loan sẽ bị ảnh hưởng xấu bởi những nỗ lực của Đài Loan nhằm thay đổi sự mơ hồ lâu dài và có chủ ý trong mối quan hệ Trung Quốc-Đài Loan. Hơn nữa, nếu Trung Quốc có trở nên thịnh vượng và dân chủ hóa và nếu việc hấp thụ Hồng Kông không liên quan đến sự thụt lùi về quyền công dân, thì việc Mỹ khuyến khích đối thoại nghiêm túc qua eo biển về các điều khoản của việc thống nhất cuối cùng cũng sẽ giúp tạo ra áp lực cho dân chủ hóa gia tăng ở Trung Quốc, trong khi thúc đẩy một sự dàn xếp chiến lược rộng lớn hơn giữa Hoa Kỳ và một Đại Trung Hoa.
Triều Tiên, lãnh thổ trung tâm về địa chính trị ở Đông Bắc Á, một lần nữa có thể trở thành nguồn cơn gây tranh cãi giữa Mỹ và Trung Quốc, và tương lai của nó cũng sẽ tác động trực tiếp đến kết nối Mỹ-Nhật. Chừng nào bán đảo Triều Tiên còn bị chia rẽ và dễ bị tổn thương trong cuộc chiến giữa miền Bắc bất ổn và miền Nam ngày càng giàu có, các lực lượng Mỹ sẽ còn phải ở lại bán đảo này. Bất kỳ sự rút quân đơn phương nào của - Hoa Kỳ sẽ không chỉ gây nguy cơ thúc đẩy một cuộc chiến mới mà, trong tất cả khả năng, cũng báo hiệu đã đến hồi kết thúc sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Nhật Bản. Thật khó có thể nghĩ rằng người Nhật tiếp tục dựa vào việc triển khai quân của Hoa Kỳ trên đất nước mình sau khi người Mỹ từ bỏ Hàn Quốc. Việc tái vũ trang nhanh chóng của Nhật Bản sẽ là hệ quả rất có thể xảy ra, với hậu quả gây bất ổn rộng rãi trong khu vực nói chung.
Tuy nhiên, thống nhất bán đảo Triều Tiên cũng có thể sẽ đặt ra những tình huống khó xử địa chính trị nghiêm trọng. Nếu các lực lượng Mỹ ở lại trong một bán đảo Triều Tiên thống nhất, chắc chắn họ sẽ bị Bắc Kinh xem là có mưu đồ nhắm vào Trung Quốc. Trên thực tế, có nghi ngờ cho rằng người Trung Quốc muốn chấp nhận một Triều Tiên thống nhất. Nếu sự thống nhất đó diễn ra theo từng giai đoạn, liên quan đến cái gọi là hạ cánh nhẹ nhàng, Trung Quốc sẽ cản trở nó về mặt chính trị và ủng hộ những phần tử ở Bắc Triều Tiên vẫn phản đối việc thống nhất. Nếu sự thống nhất đó diễn ra bằng bạo lực, với việc Bắc Triều Tiên tấn công, thì ngay cả sự can thiệp của quân đội Trung Quốc cũng không thể ngăn lại được. Từ quan điểm của Trung Quốc, một bán đảo Triều Tiên thống nhất sẽ chỉ được chấp nhận nếu nó không đồng thời đi kèm với sự mở rộng trực tiếp của quyền lực Mỹ (với Nhật Bản hậu thuẫn làm bàn đạp cho nó).
Dù sao đi nữa, một bán đảo Triều Tiên thống nhất không có quân đội Hoa Kỳ trên đất của họ sẽ có khả năng bị hấp dẫn trước tiên đối với một hình thức trung lập giữa Trung Quốc và Nhật Bản và sau đó, bị thúc đẩy một phần bởi những cảm giác chống Nhật còn sót lại nhưng vẫn mãnh liệt, dần dần ngả về vùng ảnh hưởng chính trị quả quyết hơn hay sự bảo hộ có phần tinh tế hơn của Trung Quốc. Vấn đề sau đó sẽ nảy sinh là liệu Nhật Bản có còn sẵn sàng phục vụ như là căn cứ châu Á duy nhất cho quyền lực của Mỹ hay không. Ít nhất, vấn đề này sẽ gây chia rẽ lớn trong chính trị nội bộ Nhật Bản. Bất kỳ sự co rút lại nào trong phạm vi tiếp cận của quân đội Hoa Kỳ ở Viễn Đông sẽ lần lượt làm cho việc duy trì cân bằng quyền lực Á-Âu ổn định trở nên khó khăn hơn. Do đó, những cân nhắc này đã tăng cường sự góp mặt của Mỹ và Nhật Bản vào hiện trạng Triều Tiên (mặc dù trong mỗi trường hợp, vì những lý do khác nhau) và nếu thay đổi hiện trạng đó, nó phải xảy ra ở giai đoạn rất chậm, tốt nhất là trong một bối cảnh sự dàn xếp khu vực vững vàng giữa Mỹ và Trung Quốc.
Trong khi đó, một sự hòa giải thực sự giữa người Nhật Bản và người Triều Tiên sẽ đóng góp đáng kể vào bối cảnh khu vực ổn định hơn cho bất kỳ sự thống nhất cuối cùng nào. Các biến chứng quốc tế khác nhau có thể xảy ra từ sự tái hòa nhập của Bắc Triều Tiên sẽ được giảm nhẹ bằng một sự hòa giải thực sự giữa Nhật Bản và bán đảo này, dẫn đến mối quan hệ chính trị ngày càng hợp tác và ràng buộc giữa hai thực thể. Hoa Kỳ có thể đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự hòa giải đó. Nhiều bước cụ thể đã được thực hiện để tiến tới hòa giải Đức-Pháp và sau đó là giữa Đức và Ba Lan (ví dụ, từ các chương trình đại học chung cho đến hình thành quân đội kết hợp) có thể được điều chỉnh cho trường hợp này. Một mối quan hệ đối tác toàn diện và ổn định khu vực giữa Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên sẽ tạo điều kiện cho Mỹ tiếp tục hiện diện ở Viễn Đông, kể cả sau khi hai miền Triều Tiên thống nhất.
Nó gần như diễn ra mà không nói rằng một mối quan hệ chính trị chặt chẽ với Nhật Bản là mối quan tâm địa chiến lược toàn cầu của Mỹ. Nhưng liệu Nhật Bản có phải là chư hầu, đối thủ hay đối tác của Mỹ hay không phụ thuộc vào khả năng của người Mỹ và người Nhật để xác định rõ hơn mục tiêu quốc tế nào mà các quốc gia nên tìm kiếm và phân định rõ ràng hơn ranh giới giữa nhiệm vụ địa chiến lược của Hoa Kỳ tại Viễn Đông và khát vọng của Nhật Bản về vai trò toàn cầu của mình. Đối với Nhật Bản, bất chấp các cuộc tranh luận trong nước về chính sách đối ngoại, mối quan hệ với Mỹ vẫn là ngọn hải đăng trung tâm cho ý thức về định hướng quốc tế của riêng nó. Một Nhật Bản mất phương hướng, chần chừ về việc tái vũ trang hoặc một vị thế riêng biệt với Trung Quốc sẽ chấm dứt vai trò của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và sẽ báo trước sự xuất hiện của một thỏa thuận tam giác ổn định trong khu vực liên quan đến Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Điều đó, đến lượt nó, sẽ cản trở sự hình thành của trạng thái cân bằng chính trị do người Mỹ quản lý trên khắp Á-Âu.
Nói tóm lại, một Nhật Bản mất phương hướng sẽ giống như một con cá voi bị mắc cạn: quằn quại bất lực nhưng vẫn nguy hiểm. Nó có thể gây bất ổn cho châu Á, nhưng không thể tạo ra một sự thay thế khả thi cho thế cân bằng ổn định cần thiết giữa Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Chỉ thông qua một liên minh chặt chẽ với Nhật Bản, Mỹ mới có thể dàn xếp nguyện vọng khu vực và hạn chế những biểu hiện độc đoán hơn của Trung Quốc. Chỉ trên cơ sở đó, một vị thế ba chiều phức tạp, mỗi chiều liên quan đến sức mạnh toàn cầu của Mỹ, ưu thế trong khu vực của Trung Quốc và sự lãnh đạo quốc tế của Nhật Bản, mới có thể được đặt ra.
Theo sau đó, trong tương lai gần, việc giảm các cấp độ hiện có của lực lượng Hoa Kỳ tại Nhật Bản (và, mở rộng ra, tại Triều Tiên) là không mong muốn. Tuy nhiên, bởi cùng một biểu hiện, bất kỳ sự gia tăng đáng kể nào trong phạm vi địa chính trị và tầm vóc thực sự của nỗ lực quân sự của Nhật Bản cũng là điều không mong muốn. Một cuộc rút quân đáng chú ý của Hoa Kỳ có lẽ sẽ thúc đẩy một chương trình vũ trang quân đội chính của Nhật Bản trong bối cảnh mất phương hướng chiến lược đáng lo ngại, trong khi áp lực của Mỹ đối với Nhật Bản để đảm nhận vai trò quân sự lớn hơn chỉ có thể làm hỏng triển vọng ổn định khu vực, cản trở một vị thế khu vực rộng lớn hơn với một Đại Trung Hoa, chuyển Nhật Bản khỏi hướng thực hiện một nhiệm vụ quốc tế mang tính xây dựng hơn, và do đó làm phức tạp nỗ lực thúc đẩy đa nguyên địa chính trị ổn định trên khắp Âu-Á.
Tiếp đó, Nhật Bản, nếu muốn quay mặt ra thế giới và tránh xa châu Á, thì phải có được sự khuyến khích có ý nghĩa và một vị thế đặc biệt, để lợi ích quốc gia của chính nó được phục vụ tốt. Không giống như Trung Quốc, quốc gia có thể tìm kiếm sức mạnh toàn cầu bằng cách trở thành một cường quốc khu vực, Nhật Bản có thể có được ảnh hưởng toàn cầu bằng cách tránh thực hiện tham vọng tìm kiếm sức mạnh khu vực. Nhưng điều đó khiến Nhật Bản cảm thấy quan trọng hơn khi nhận thấy rằng trở thành đối tác đặc biệt của Mỹ trong một khuynh hướng toàn cầu sẽ làm thỏa mãn nó về mặt chính trị cũng như có lợi về mặt kinh tế. Cuối cùng, Hoa Kỳ sẽ làm tốt việc xem xét thông qua một hiệp định thương mại tự do Mỹ-Nhật, từ đó tạo ra một không gian kinh tế chung giữa Mỹ và Nhật. Một bước như vậy, chính thức hóa mối liên kết ngày càng tăng giữa hai nền kinh tế, sẽ cung cấp nền tảng địa chính trị cho cả việc Mỹ tiếp tục hiện diện ở Viễn Đông và cho sự tham gia toàn cầu mang tính xây dựng của Nhật Bản12.
Kết luận: Đối với Mỹ, Nhật Bản nên là đối tác quan trọng hàng đầu của nó trong việc xây dựng một hệ thống hợp tác toàn cầu ngày càng gắn bó và lan tỏa nhưng không phải là đồng minh quân sự của nó trong bất kỳ thỏa thuận khu vực nào được thiết kế để cạnh tranh với ưu thế hàng đầu trong khu vực của Trung Quốc. Trên thực tế, Nhật Bản nên là đối tác toàn cầu của Mỹ trong việc giải quyết chương trình nghị sự mới về các vấn đề thế giới. Một Trung Quốc đứng đầu khu vực sẽ trở thành mỏ neo Viễn Đông của Mỹ trong lĩnh vực chính trị quyền lực truyền thống hơn, từ đó giúp thúc đẩy sự cân bằng quyền lực Á-Âu, với một Đại Trung Hoa ở phía đông lục địa Á-Âu phù hợp tương ứng với vai trò của một châu Âu mở rộng ở phía tây lục địa Á-Âu.
* * *
1. “Tài liệu Chính thức dự đoán sự rối loạn trong thời kỳ hậu Đặng”, Cheng Ming (Hồng Kông), ngày 1-2-1995, cung cấp một bản tóm tắt chi tiết về hai phân tích được chuẩn bị cho lãnh đạo Đảng liên quan đến nhiều hình thức bất ổn tiềm tàng. Một viễn cảnh phương Tây về cùng một chủ để được đưa vào trong bài của Richard Baum, “Trung Quốc sau Đặng: Mười kịch bản trong việc tìm kiếm hiện thực,” Trung Quốc hằng quý (tháng 3-1996).↩︎
2. Trong báo cáo có phần lạc quan có tiêu đề “Zou xiang 21 shi ji de Zhongguo jinji” (Kinh tế Trung Quốc hướng tới thế kỷ 21), được phát hành năm 1996 bởi Viện Nghiên cứu Công nghệ và Kinh tế Định lượng Trung Quốc, người ta ước tính rằng thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc năm 2010 sẽ là khoảng 735 đô la, hoặc khoảng 30 đô la cao hơn so với định nghĩa của Ngân hàng Thế giới về một quốc gia có thu nhập thấp.↩︎
3. Theo Yazhou Zhoukan (Asiaweek), ngày 25-9-1994, tổng tài sản của 500 công ty hàng đầu của Trung Quốc ở Đông Nam Á có tổng trị giá khoảng 540 tỷ đô la. Các ước tính khác thậm chí còn cao hơn: Kinh tế Quốc tế, vào tháng 11, 12-1996, báo cáo rằng thu nhập hàng năm của 50 triệu người Hoa ở nước ngoài ở xấp xỉ mức trên và gần bằng GDP của Trung Quốc lục địa. Người Hoa ở nước ngoài được cho là kiểm soát khoảng 90% nền kinh tế Indonesia, 75% của Thái Lan, 50-60% của Malaysia, và toàn bộ nền kinh tế ở Đài Loan, Hồng Kông và Singapore.↩︎
4. Dấu hiệu liên quan đến vấn đề đó là báo cáo được công bố trên nhật báo The Nation (ngày 31-3-1997) của Bangkok, bản tiếng Anh, về chuyến thăm Bắc Kinh của Thủ tướng Thái Lan, Chavalit Yongchaiyudh. Mục đích của chuyến thăm được xác định là để thiết lập một liên minh chiến lược vững chắc với một “Đại Trung Hoa.” Đội ngũ lãnh đạo chính trị Thái Lan được cho là đã “công nhận Trung Quốc là một siêu cường có vai trò toàn cầu,” và mong muốn đóng vai trò là “cầu nối giữa Trung Quốc và ASEAN.” Singapore thậm chí còn đi xa hơn trong việc nhấn mạnh sự đồng lòng của nước này với Trung Quốc.↩︎
5. Song Yimin, “A Discussion of the Division and Grouping of Forces in the World After the End of the Cold War”, International Studies (Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc, Bắc Kinh), 6-8 (1996):10. Cho rằng đánh giá của Mỹ thể hiện quan điểm của giới lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc đã được đề cập thông qua thực tế là có một phiên bản ngắn hơn của phân tích này đã xuất hiện trong cơ quan lưu hành đại chúng của Đảng, Nhân dân nhật báo, ngày 29-4-1996.↩︎
6. Một cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng về ý định của Mỹ để xây dựng một hệ thống châu Á chống Trung Quốc như vậy có trong Wang Chunyin, “Hướng tới an ninh châu Á-Thái Bình Dương vào đầu thế kỷ 21,” Guoji Zhanwang (Triển vọng Thế giới), tháng 2-1996.
Một nhà bình luận khác của Trung Quốc lập luận rằng sự dàn xếp an ninh Mỹ-Nhật đã được thay đổi từ một “lá chắn phòng thủ” nhằm mục đích ngăn cản sức mạnh của Liên Xô thành một “ngọn giáo tấn công” nhắm vào Trung Quốc (Yang Baijiang, “Dấu hiệu được nêu ra của Tuyên bố An ninh Nhật Bản-Hoa Kỳ,” Xiandai Guoji Guanxi [Quan hệ Quốc tế Đương đại], ngày 20-6-1996).↩︎
7. Chỉ hiện tượng người Nhật với sự phát triển kinh thần kỳ hồi những năm 1970, 1980 đã bỏ tiền mua rất nhiều bất động sản và xí nghiệp ở Mỹ, làm dấy lên lời đồn người Nhật mua cả nước Mỹ. Sau đó, nước Nhật đối diện với giai đoạn suy thoái kinh tế kéo dài. (BT)↩︎
8. The Japan Digest, ngày 25-2-1997, báo cáo rằng, theo một cuộc thăm dò của chính phủ, chỉ có 36% người Nhật cảm thấy thiện cảm với Hàn Quốc.↩︎
9. Ví dụ, Ủy ban Higuchi, một ủy ban cố vấn của thủ tướng, đã vạch ra “Ba điều nòng cốt của chính sách an ninh Nhật Bản,” nhấn mạnh “tính chất đầu tàu” của quan hệ an ninh Mỹ-Nhật nhưng cũng ủng hộ một cuộc đối thoại an ninh đa phương ở châu Á trong một báo cáo được đưa ra vào mùa hè năm 1994; báo cáo của Ủy ban Ozawa năm 1994, “Kế hoạch chi tiết cho một Nhật Bản mới”; bản phác thảo của Yomiuri Shimbun cho “Một chính sách an ninh toàn diện” vào tháng 5-1995, ủng hộ trong số các mục khác việc sử dụng quân đội Nhật Bản ở nước ngoài để gìn giữ hòa bình; báo cáo tháng 4 năm 1996 của Hiệp hội Điều hành Doanh nghiệp Nhật Bản (keizai doyukai), được chuẩn bị với sự hỗ trợ của viện chính sách Ngân hàng Fuji, thúc giục sự đối xứng lớn hơn trong hệ thống phòng thủ Mỹ-Nhật; báo cáo mang tên “Khả năng và vai trò của một hệ thống an ninh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương” đã được Diễn đàn Nhật Bản về các vấn đề quốc tế đệ trình lên thủ tướng vào tháng 6-1996; cũng như nhiều cuốn sách và bài báo được xuất bản trong vài năm qua, thường mang tính chính trị và cực đoan hơn nhiều trong các khuyến nghị của họ và thường được các phương tiện truyền thông phương Tây trích dẫn hơn so với các báo cáo chính thống chủ yếu nói trên.↩︎
10. Một số người Nhật bảo thủ cảm thấy thôi thúc trước những ghi nhận về mối quan hệ đặc biệt Nhật-Đài Loan, và vào năm 1996 một “Hiệp hội Liên quốc hội Nhật - Đài” được thành lập nhằm cổ xúy xu thế này. Phản ứng của Trung Quốc, như dự đoán, đầy thù nghịch.↩︎
11. Trong một cuộc họp năm 1996 với các quan chức quốc phòng và an ninh quốc gia hàng đầu của Trung Quốc, tôi đã xác định (đôi khi sử dụng các công thức mơ hồ có chủ ý) các lĩnh vực lợi ích chiến lược chung sau đây làm cơ sở cho một cuộc đối thoại như vậy: (1) một Đông Nam Á hòa bình; (2) không sử dụng vũ lực trong việc giải quyết các vấn đề ngoài khơi; (3) thống nhất hòa bình Trung Quốc; (4) ổn định tại Triều Tiên; (5) độc lập của Trung Á (6) cân bằng giữa Ấn Độ và Pakistan; (7) một Nhật Bản năng động về kinh tế và tử tế với quốc tế; (8) một nước Nga ổn định nhưng không quá mạnh.↩︎
12. Một trường hợp thể hiện mạnh mẽ cho sáng kiến này, chỉ ra những lợi ích kinh tế lẫn nhau theo đó, do Kurt Tong thực hiện, “Revolutionizing America’s Japan Policy” (Cách mạng hóa chính sách về Nhật Bản của Mỹ), Foreign Policy, Mùa đông 1996-1997.↩︎