Bản Kháng Cáo Cuối Cùng - Chương 03
3
Hãng luật Gerhardt, Merrill và Davis
Los Angeles, California
Stan dừng chân nhìn mặt đồng hồ Rolex rồi tiếp tục đi lại trên chiếc thảm Aubusson màu nâu vàng mới mua. Thư kí của anh đã gọi điện hỏi thăm Jerry Bowman từ hơn một giờ trước và vị bác sĩ vẫn chưa gọi lại. Chưa từng ai dám để Stan Gerhardt đợi lâu như thế!
Khi đi hết chiều dài căn phòng làm việc rộng rãi, Stan nhận ra sự xa hoa xung quanh mình. Văn phòng hãng luật Gerhardt, Merrill và Davis mới được Ralph của hãng Brentwood tân trang, với chi phí gọi là chấp nhận được. Vài bức tranh sơn dầu bản gốc treo trên tường, một món đầu tư chắc chắn sẽ sinh lời gấp hai hoặc ba lần vào mười năm nữa.
Những chiếc ghế xoay kiểu cách nhưng thoải mái bọc da dê thật được đặt cạnh cái bàn họp bằng gỗ hồng sắc nguyên tấm. Những ô cửa sổ cao kịch trần được che lại bằng rèm lụa dày dặn, chỉ cho vừa đủ ánh sáng lọt vào phòng và bức tượng bằng đồng tạc Nữ thần Công lí đeo băng bịt mắt và cầm cân được đặt tại góc phòng bên cạnh lò sưởi bằng đá cẩm thạch. Bức tượng là tác phẩm của một nghệ sĩ nổi tiếng và dưới ánh mặt trời chiếu vào, nó hắt ra những tia sáng lấp lánh dịu nhẹ.
Stan thoáng cười khi nghĩ tới mâu thuẫn giữa mình và Ralph. Gã nhân viên thiết kế nhỏ thó khó tính đã vênh váo bước vào khu văn phòng của Stan như Nữ hoàng Tháng Năm [7], làm phiền các luật sư cấp cao lẫn cấp thấp của hãng bởi những bảng màu sơn và mẫu vải. May mà hắn cũng biết đường để Stan được yên thân - cho tới cái ngày hắn xồng xộc xông vào giữa buổi họp nhân viên hàng tuần. Hắn bắt anh phải quyết định ngay là muốn chọn màu xanh trứng sáo hay màu dưa vàng. Stan mỉm cười và bảo hắn dùng màu dưa vàng.
Vì công trình trang trí của Ralph cho hãng Gerhardt, Merrill and Davis sẽ đăng trên một số tạp chí danh tiếng nên tay chuyên viên thiết kế này cứ nhặng xị lên để đạt được sự hoàn mĩ. Nội thất được lựa chọn kĩ càng và ấy là cả một quá trình mệt mỏi kéo dài tới vài tháng. Từng món đều phải khớp đúng với ý tưởng về không gian làm việc thân thiện với môi trường của Ralph. Khi người ta giao chiếc điện thoại bàn của nhân viên tiếp tân đến, và vì nó có màu ngà chứ không phải màu kem, Ralph đã nhặng xị cả lên, la hét với nhân viên giao hàng như thể anh ta là người phải chịu trách nhiệm. Và đến lúc đó, Stan quyết định anh phải cho hắn biết ai là kẻ có quyền.
Anh rời văn phòng vào giữa trưa và đến một tiệm đồ nội thất cũ, nơi quảng cáo sẽ giao hàng qua đêm. Khi Ralph tới vào ngày hôm sau, Stan đã giao cho hắn một cái tủ hồ sơ “của gia bảo” bằng kính xấu xí, hỏng hóc. Ơ, anh chưa nhắc tới bao giờ à? Thế vậy đây là lỗi của anh, cho anh xin lỗi. Nhưng chắc chắn Ralph có thể linh động đặt ở đâu cho hợp thiết kế. Stan, tất nhiên, không phải chuyên gia trang trí nội thất, nhưng anh nghĩ nên bày các tủ hồ sơ khắp các góc, mỗi phòng một cái chứ nhỉ? Món đồ cổ gia bảo này sẽ tạo hơi hướng truyền thống và tiếp nối cho hãng luật còn khá non trẻ này.
Ralph lắp bắp mãi không nói thành lời, mặt mày đỏ gay. Rồi hắn bắt đầu thở khò khè. Có vẻ “món đồ gia bảo” của Stan đã khiến hắn xúc động đến độ lên cơn suyễn.
Nhưng thông thường họ không dùng tủ hồ sơ cũ. Stan cuối cùng cũng đầu hàng, nói rằng anh đã bị lay động bởi con mắt nghệ thuật của Ralph. Nhưng ấy là chuyện sau khi anh đã khiến tay nhân viên thiết kế nhỏ thó đạo đức giả kia căng thẳng một hồi lâu.
Có tiếng điện thoại nội bộ, Stan vội vã nhấc máy, nhăn mặt một chút khi giọng nói bị tăng âm của cô thư kí vang trong tai. Hẳn phải có cách giảm âm lượng chứ. Anh phải bảo cô gọi nhân viên kĩ thuật đến xử lí ngay thôi.
“Tôi đã liên lạc được với bác sĩ Bowman rồi, thưa ông Gerhardt, đường dây số năm ạ.”
Stan ngồi trên cái ghế bọc da và cầm điện thoại cách tai cả tấc. “Cảm ơn nhé, Joyce. Cô gọi giùm người tới sửa hệ thống điện thoại chết tiệt này được không? Tôi muốn nó được sửa ngay trong hôm nay. Và cô thông báo với giáo sư Zimmer rằng tôi phải trễ hẹn một chút. Mời ông ấy cà phê hay gì đó nhé.”
“Vâng, tôi làm ngay đây, thưa ông Gerhardt.”
Khi Joyce cúp máy, Stan với mở ngăn kéo phía trên bên trái của cái tủ gỗ hồng sắc để lấy ra một xếp giấy vàng mới. Michael sắp được thả, ấy vậy mà chẳng ai báo cho anh hay. Anh phải nói chuyện thẳng thắn với Bowman.
Stan ấn nút đường dây 5 mạnh tới độ cái điện thoại kêu lạch cạch, nhưng anh kìm nén cho giọng thật chân thành. Anh biết Bowman sắp bị thuyên chuyển công tác, nhưng anh chưa sẵn sàng làm láo với ông ta.
“Alô, Jerry, hình như sáng nay ông có chút rắc rối với em tôi, phải không?”
Gương mặt Stan phờ phạc hơn bình thường khi nghe bác sĩ kể lại chuyện ban sáng. Từng có lần anh tính phẫu thuật thẩm mỹ để sửa cái mũi khoằm và đường khóe môi vốn là nét xấu di truyền của nhà Gerhardt, nhưng trong mười năm qua, kể từ ngày em trai anh không ở gần, anh đã bỏ luôn ý định đấy. Michael đẹp trai, nhưng cuối cùng vẻ đẹp đó dẫn cậu ấy tới đâu nào? Stan đã kết luận rằng khôn ngoan vẫn ăn đứt vẻ ngoài và nếu có người nào không đồng tình với anh thì người đó chỉ là một tên ngốc.
Vị bác sĩ cuối cùng cũng kể lể xong và Stan đặt bút xuống. “Cảm ơn ông đã cho tôi hay, Jerry. Tất nhiên, tôi cũng nhẹ lòng khi biết ông không bị thương nặng. Và ông nói giờ em tôi đã bình tĩnh rồi?”
Anh nghe Bowman nêu đơn thuốc ông ta kê và những quản thúc với Michael. Giờ đến lúc anh chơi cứng rồi.
“Có điều này làm tôi lấn cấn mãi, Jerry ạ. Sao không ai báo cho tôi biết chuyện em mình sắp được phỏng vấn nhỉ? Tôi tưởng ta đã thống nhất rằng tôi được thông báo đầy đủ là tốt nhất cho Michael cơ mà.”
Bác sĩ giải thích lôi thôi lằng nhằng và mắt Stan nheo lại.
“Tôi hiểu. Chúng ta khó lòng tin tưởng vào các thư kí mới lắm. Có lẽ, trong tương lai, ông sẽ vui lòng cho tôi gọi điện trực tiếp tới ông?”
Bowman bắt đầu giở quẻ đây. Stan mỉm cười trước giọng nói tỏ rõ sự khó chịu và để ông ta huyên thuyên một lúc. “Đúng, Jerry, tôi chắc chắn rồi. Xin lỗi tôi không có thời gian hàn huyên lâu, tôi còn có hẹn với thân chủ.”
Stan kết thúc cuộc gọi và ấn nút gọi nội bộ, lần này đã nhớ để ống nghe xa tai khi thư kí nhấc máy. “Joyce à? Cô kiểm tra lịch hẹn giùm tôi và hủy các cuộc hẹn vào chiều mai nhé.
Tôi sẽ rời văn phòng từ mười một giờ. Sau đó cô hãy đưa giáo sư vào văn phòng tôi.”
Anh thở dài khi nghĩ về vị bác sĩ điều trị cho em mình. Anh biết Bowman là kẻ bất tài vô dụng. Hèn chi ông ta chấp nhận làm việc tại một bệnh viện công thay vì đi mở phòng mạch riêng. Stan định mai sẽ lái xe tới Oakdale và vào thăm không báo trước. Sẽ dễ tìm ra điểm thiếu sót khi đến thăm đường đột và Stan có bạn bè ở các cấp cao. Có lẽ cô nhân viên xã hội đã gọi điện cho anh sẽ chỉ điểm cho anh chút đỉnh. Khi tới đó, anh sẽ thăm Michael một chút. Stan cười khúc khích khi nghĩ tới cảnh em mình muốn bóp chết Bowman. Hành động của Michael có thể điên rồ, nhưng cậu ấy chắc chắn xử lí đúng người!
Có tiếng gõ cửa và Joyce đưa giáo sư Zimmer vào. Stan đứng dậy bắt tay người đàn ông kia. Anh chỉ nhớ mang máng ông có mặt trong phiên xử Michael, một người gầy gò, nhút nhát, đeo cặp kính dày cui và có thói xấu nghiến răng. Ông không chịu cho biết mình muốn gì qua điện thoại.
“Tôi tưởng sẽ được gặp anh ngay, anh Gerhardt ạ.” Giọng giáo sư Zimmer giống hệt như người, thích rào trước đón sau và lí nhí. “Tình cờ thay, tôi vừa nắm được một vài bằng chứng ngoại phạm cho em trai anh vào đúng cái tối xảy ra án mạng.”
Phải cố lắm Stan mới giữ được vẻ mặt bình thản. Có lẽ chẳng có gì đâu. Anh nhớ hình như James Zimmer là dạng típ người dễ bị kích động.
“Ông nói ông có bằng chứng?”
Giáo sư Zimmer gật đầu và rút một đĩa DVD khỏi ca táp. “Tôi dành năm năm qua tại đại học Gateway để nghiên cứu về tin thời sự và vai trò của nó đối với xã hội. Luận điểm của tôi là các nhà đài định hướng ý kiến dư luận bằng cách chọn hoặc không chọn những mẩu phóng sự để phát sóng. Và theo lẽ tự nhiên, điều quan trọng nhất là gây được ảnh hưởng của truyền thông lên...”
“Xin lỗi, thưa giáo sư,” Stan cắt ngang bài độc thoại hẳn sẽ dài lê thê. “Michael được phỏng vấn trên truyền hình?”
“Không, không phải. Anh thấy đấy, tôi được tiếp cận toàn bộ băng tư liệu về những cuộc phỏng vấn ngẫu nhiên trên đường phố của đài KLAX. Chả là nhà đài tặng nó cho đại học mà. Tôi nghiên cứu các phân đoạn, nhưng cũng xem cả những cảnh họ cắt bỏ. Họ quyết định không đưa chúng lên sóng vì rất nhiều nguyên nhân, một vài vì lí do kĩ thuật, một số khác vì...” - giáo sư Zimmer nhoài người tới tỏ vẻ bí ẩn - “Nếu luận điểm của tôi chính xác, vậy nguyên nhân là do ý kiến của người được phỏng vấn không hợp với ý tưởng ban đầu của nhà đài.”
“Tôi hiểu.” Stan hít sâu một hơi. Giáo sư Zimmer có thể rề rà ở đây cả tiếng đồng hồ, chỉ để nêu quan điểm. “Và Michael là đề tài của một trong những cuộc phỏng vấn ấy?”
“Không phải đề tài, anh Gerhardt ạ. Một người khác được phỏng vấn, nhưng em trai anh ở phía sau theo dõi. Vì một người không thể ở hai nơi cùng một lúc, vậy chứng tỏ anh ta không giết vợ.”
“Cuốn băng tư liệu đó có ghi rõ ngày giờ chứ?”
“Theo một cách nào đó,” giáo sư Zimmer mỉm cười. “Đoạn phỏng vấn liên quan tới cuộc bãi công của y tá tại bệnh viện hạt và có vài khuôn hình các y tá giơ áp phích biểu ngữ. Nếu anh còn nhớ thì cuộc bãi công đó diễn ra suốt một đêm, vậy nên đoạn phim tư liệu phải được quay vào ngày mùng hai tháng Mười, năm 1979.”
“Còn về giờ quay?” Stan nhoài tới. Có lẽ vị giáo sư này thật sự nắm được thông tin gì đó.
“Thời gian thì hơi rắc rối một chút. Thực chất thì không có đề cập tới giờ.”
Stan lắc đầu. “Không có thời điểm chính xác, giáo sư Zimmer, chúng ta không thể kháng...”
“Gượm đã nào, anh Gerhardt. Tôi chưa nói hết. Cuộc phỏng vấn diễn ra bên ngoài bệnh viện. Có một chiếc xe buýt đỗ lại vào giữa cuộc phỏng vấn, vậy nên họ phải đợi nó nhận và trả khách xong. Máy quay vẫn tiếp tục hoạt động, và số xe buýt được ghi lại rõ ràng. Đó là chuyến tốc hành 9B.”
“Nói tiếp đi.” Stan ngả lưng ra ghế. Có thúc giục vị giáo sư này cũng chẳng được mấy tích sự.
“Tôi đã xem các tài liệu của công ty và phát hiện ra chuyến 9B đó rất đặc biệt. Nó chỉ dừng lại tại bệnh viện vào lúc bảy giờ bốn mươi lăm phút và tám giờ mười lăm phút.”
“Chắc chắn ông đã tìm hiểu rất rõ ngọn ngành rồi, thưa giáo sư. Nhưng chiếc xe buýt kia dừng lúc nào vậy?”
“À há!” Giáo sư Zimmer nhướng mày như thể ông đang trả lời câu hỏi của một sinh viên đặc biệt chậm hiểu. “Anh thấy đó, anh Gerhardt, là chuyến nào cũng không quan trọng. Nếu em trai anh xuất hiện trước bệnh viện hạt vào bất kì giờ nào trong hai mốc thời gian ấy thì anh ta đều không thể giết vợ. Đi từ bệnh viện tới căn hộ của anh ta ít nhất cũng đã mất hơn ba mươi phút rồi. Nếu em anh rời bệnh viện lúc bảy giờ bốn mươi lăm phút, ngay sau khi 9B đỗ lại, anh ta không thể về nhà trước tám giờ mười lăm phút. Và vì bạn của cô Hart nghe thấy tiếng súng nổ và khai rằng giờ tử vong là đúng tám giờ, vậy chứng tỏ em trai anh vô tội.”
Stan không thể không đồng ý. “Tôi hiểu rồi. Và nếu Michael rời khỏi đó sau khi vụ án mạng xảy ra, cậu ấy không thể tới bệnh viện trước...”
“Tám giờ ba mươi phút. Muộn mười lăm phút so với thời điểm có thể xuất hiện trên khung hình quay xe buýt. Anh có đầu quay video trong văn phòng chứ? Tôi muốn anh xem cảnh quay cho chắc ăn. Tôi đã tự ý cho một bồi thẩm khác xem và cả hai đều chắc chắn người đàn ông trong đó đúng là em trai anh.”
Stan xem thước phim và im lặng trong lúc lấy đĩa ra. Người đàn ông kia chắc chắn là Michael.
“Thế nào?” Giáo sư cười kiêu hãnh. “Anh nghĩ sao, anh Gerhardt?”
Stan hắng giọng. “Quả là giống Michael. Ông đã thử tìm người quay đoạn phỏng vấn đó chưa?”
“Chưa, nhưng tôi sẵn lòng thử.”
“Thế này là ổn rồi, thưa giáo sư, ông làm đủ rồi. Tôi sẽ lo liệu từ đây. KLAX, phải không nào?”
Giáo sư Zimmer gật đầu và Stan cầm cái đĩa, bỏ vào một phong bì, rồi đưa cho giáo sư.
“Ông làm ơn dán phong bì, rồi viết tên và đề ngày tháng ở ngoài nhé? Thế là để chứng thực cái đĩa trong phong bì này đúng là cái chúng ta cùng xem ngày hôm nay.”
Giáo sư kí tên và viết ngày tháng. Sau đó, Stan cầm phong bì và nhấn chuông gọi thư kí. Một lát sau, cô ta xuất hiện tại cửa.
“Joyce? Cầm phong bì này và cho vào két sắt nhé. Lưu vào mục Chứng cứ A. Michael Hart.”
Sau khi Joyce cầm phong bì rời đi, Stan quay lại với giáo sư. “Tôi thật lòng cảm ơn vì tất cả những việc ông đã làm, thưa giáo sư Zimmer. Ông đã tình cờ phát hiện ra thứ có thể giải oan cho em tôi. Thành thực mà nói, tôi rất bất ngờ và hài lòng khi ông không báo thẳng với cảnh sát.”
“Cảnh sát sao?” Giáo sư Zimmer nhíu mày. “Tôi còn chẳng nghĩ tới họ. Tôi tới gặp anh vì anh là luật sư bào chữa cho em mình.”
“Và việc ông làm thật quý hóa quá!” Stan mỉm cười. “Nếu ông đưa cái đĩa tới cảnh sát, hẳn họ sẽ khui lại vụ này. Mà việc đó chỉ khiến công chúng xôn xao. Càng ít người biết về phát hiện của ông thì càng tốt cho Michael.”
Giáo sư tỏ vẻ bối rối và Stan vội phân trần. “Bằng chứng ông đưa tôi chắc chắn có thể giúp mở một phiên tòa mới, nhưng trước đó còn rất nhiều công việc râu ria khác. Tôi phải tìm ra người quay phim và yêu cầu anh ta chứng thực đã quay đoạn phỏng vấn kia. Rồi tôi cần bản khai có tuyên thệ của nhà đài rằng họ đã trao cuốn phim cho đại học Gateway. Và một lá thư từ ban quản trị Gateway xác nhận rằng ông, là nhân viên của trường, đã tiếp cận thước phim đặc biệt này. Tất nhiên, tôi sẽ cố tìm những người khác trong đoạn phim xem biết đâu họ nhớ có nói chuyện với Michael. Rồi tôi sẽ tập hợp các quan điểm nhận dạng khả quan từ những chuyên gia về cấu trúc xương khi so sách khung hình này trong thước phim với các bức hình của Michael. Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, vấn đề sẽ trở nên đơn giản khi sử dụng bằng chứng bào chữa hai năm rõ mười này - bằng chứng không có vào thời điểm Michael bị tuyên án - và đệ đơn kháng cáo.”
“Phức tạp thế cơ à?” Giáo sư Zimmer tỏ vẻ bối rối.
“Tôi e là vậy. Chúng ta cứ hi vọng rằng mình có thể giấu nhẹm thứ này tới khi có mọi thứ cần thiết. Để cánh báo giới đánh hơi được thì chuyện sẽ rắc rối lắm.”
“Vậy à?”
“Vâng.” Stan thở dài sườn sượt. “Ông thấy đấy, thưa giáo sư Zimmer, em trai tôi là bệnh nhân bệnh viên công Oakdale. Cậu ấy bị suy nhược tâm thần hoàn toàn chỉ một thời gian ngắn sau khi bị tuyên án.”
“Ôi quỷ thần ơi!” Giáo sư Zimmer chớp mắt. “Tôi rất lấy làm tiếc, anh Gerhardt.”
“Đợt trước cũng khổ lắm, nhưng người ta bảo tôi là cậu ấy khá hơn nhiều rồi, tâm thần đã ổn định. Tôi không muốn khiến cậu ấy hi vọng nhiều rồi lại thất vọng lắm, chỉ vì chúng ta bỏ qua vài công đoạn. Tôi sợ cậu ấy sẽ... ờ... Tốt hơn tôi không nên đi sâu vào chi tiết nữa. Nói chung là sẽ tốt hơn cho Michael nếu cậu ấy không biết gì về vụ này tới khi mọi chuyện đã xong xuôi.”
“Tất nhiên rồi. Tôi hiểu rõ mà, anh Gerhardt.”
Stan hắng giọng. “Và ấy là lí do tôi hơi lo lắng về vị bồi thẩm đã xem đoạn phim này. Nếu người đó nhắc...”
“Anh yên tâm đi, anh Gerhardt,” giáo sư Zimmer cắt ngang. “Người bồi thẩm kia sẽ không hé răng nửa lời.”
“Vâng, nhưng có lẽ sẽ tốt hơn nếu để tôi gọi và đích thân nhấn mạnh tầm quan trọng của...”
“Thôi, việc đó cứ để tôi. Tôi xin thề vấn đề này sẽ được giữ kín như bưng. Tôi đã chiếm nhiều thời gian quý báu của anh quá rồi. Tạm biệt nhé, anh Gerhardt.”
Giáo sư Zimmer đứng lên và đi ra cửa. Stan mở miệng định hỏi tên viên bồi thẩm lần nữa, nhưng anh chưa kịp nói gì thì giáo sư đã đi mất.
* * *