Bản Kháng Cáo Cuối Cùng - Chương 21

21

Đã gần bốn giờ sáng. Jose Sanchez ngáp dài trông lúc lật cái hamburger trên bếp nướng. Vài ngày khiến anh kiệt sức, nhưng cũng đáng. Em họ anh đã kiếm được việc.

Ba ngày trước, lúc sáu giờ sáng, Jose đã đưa Ramone tới chợ người trên đại lộ Pico. Thời tiết tầm nhập nhoạng sáng khá lạnh, và rất nhiều người co ro cúm rúm vì không có áo khoác. Trong lúc họ vừa đợi vừa giậm chân cho ấm, một màn sương mù từ đại dương kéo tới. Nó lẫn vào hơi khói của giao thông ban sáng, biến thành một thứ giống như lớp chăn ẩm ướt, hôi hám đè lên họ.

Họ khó mà giữ được lòng tự trọng khi những chiếc xe đi tới. Chúng lừ lừ xuất hiện từ màn sương xám ẩm ướt như những con quái thú mắt vàng khè, và đám tài xế quan sát hàng người lao động trên vệ đường, đang phô diễn bản thân tựa như mình là những tảng thịt bò được rao bán. Từng người hạ kính xe để chỉ vào kẻ họ muốn thuê. “Này cậu! Được đó. Và cậu nữa. Ra sau xe.”

Những người may mắn vội vàng nhảy vào thùng xe hoặc ghế sau để được chở đi. Không có mức lương tối thiểu cho loại hình lao động này, và họ cũng chẳng được bảo vệ nếu bị đối xử bất công. Hầu hết không có thẻ căn cước, vậy nên họ không thể làm việc hợp pháp tại đất nước này. Đám công nhân sẽ được trả lương vào cuối ngày, và phải im lặng chấp nhận đồng tiền mình nhận. Dù là bao nhiêu thì vẫn còn hơi ối so với tiền họ kiếm được ở quê nhà Mexico.

Ramone thoái chí. Trong đám người đó có một luật lệ bất thành văn mà không ai được phép vi phạm. Một số kẻ nhất định sẽ được chiếm vị trí ngon nhất trong hàng, và họ là những người đầu tiên được chọn. Khi họ đi rồi, một số người nhất định khác sẽ tiến tới chiếm chỗ. Mãi muộn mới tới lượt Ramone được đứng gần đường. Và không ai chọn cậu ấy. Một tài xế bảo trông Ramone nhỏ quá, làm sao mà vác được mấy khối bê tông nặng. Vài người khác bảo cậu ấy nhìn như dân ốm đói. Người khác lại muốn một công nhân biết tiếng Anh, mà Ramone chỉ mới tập tọe được dăm ba câu. Tới lúc đó đã là tám giờ, và những công việc ngon lành nhất đều đã bị cướp mất. Hầu hết những người còn lại đã bỏ đi và đợi vận may vào sáng hôm sau.

Jose và Ramone ở lại, cùng vài người khác cũng đang trong cơn bĩ. Và rồi, suýt soát chín giờ sáng, một người đàn ông lái chiếc bán tải mới coóng đỗ lại hỏi xem có ai biết sơn nhà, cả ngoài lẫn trong không. Tiếng Tây Ban Nha của người đó quá tệ nhưng Jose nhận ra chất giọng ề à đặc trưng Texas của anh ta. Vậy nên Jose hỏi bằng tiếng Anh rằng quý anh đây có phải người El Paso [34] không. Và người đàn ông mỉm cười thân thiện bảo phải, đúng chóc luôn. Jose bảo El Paso là một vùng quê đẹp, không giống Los Angeles, và người đàn ông kia đồng tình. Gã bảo sẽ có ngày hồi hương, ngay khi kiếm đủ tiền mua được một trang trại ra hồn. Jose có biết sơn nhà không? Nếu anh biết gã sẽ rất sẵn lòng thuê anh.

Jose bảo không đến đây tìm việc, vì anh đã có một công việc toàn thời gian rồi. Anh chỉ tới giúp cậu em họ, vì cậu ấy nói tiếng Anh kém quá. Nhưng em họ Jose hành nghề thợ sơn ở Tequila, Mexico. Và nếu quý anh đây thuê Ramone, Jose sẽ đi cùng và phụ việc miễn phí.

Anh chàng Texas mừng rơn vì thuê được hai người bằng giá của một người. Gã bảo vào xe đi; họ sẽ bắt tay vào việc luôn. Nhưng khi Jose và Ramone định vào ngồi ghế sau, gã bảo lên ngồi ghế phụ cho ấm. Gã không muốn mông họ lạnh cóng trước khi họ kịp làm việc gì.

Jose và người đàn ông kia bật cười. Rồi Jose nói lại với Ramone và cậu ấy cũng hùa theo. Đấy là câu bông đùa của dân Texas, rất khó dịch, nhưng anh chàng kia có vẻ tốt tính, và trong xe lại có máy sưởi tốt.

Sơn nhà cũng không khó. Với cả hai cùng làm việc, họ làm khá hiệu quả khi người đàn ông trở lại vào giữa trưa. Anh chàng mua gà rán cùng sáu lon bia. Bia Corona. Sao mấy anh chàng người Mỹ luôn cho rằng dân Mexico bọn họ thích bia nhỉ? Jose không hay uống, nhưng khi uống, anh thích Budweiser. Marguerita trêu anh và bảo rằng có vẻ anh nghĩ mình là người có tiền nên chẳng chịu uống gì ngoài bia nhập khẩu. Với họ Budweiser [35] là bia nhập khẩu.

Anh chàng Texas mừng khi họ cho gã thấy thành quả công việc; gã bảo họ đừng gọi gã là Rowlins làm gì cho xa cách, cứ gọi Rollie là được. Và gã nói sẽ trả tiền công cho Jose. Gã thấy lợi dụng thế là không hay. Người Texas không thích tơ hào kiểu đó.

Khi họ ăn gà và khề khà uống bia, Rollie khen ngợi Ramone. Gã bảo thích cái cách Ramone cẩn thận che cửa sổ và các thanh gỗ lại. Gã nhìn qua thôi cũng biết Ramone là thợ sơn giỏi. Có lẽ nếu Jose chịu đứng giữa phiên dịch để Ramone hiểu rằng gã muốn làm những gì, gã sẽ thuê Ramone sơn thêm sáu căn nhà nữa.

Sáu căn nhà? Jose ấn tượng. Rollie là chủ nhà trọ à? Không, không hẳn. Gã chuyên mua nhà cũ rồi tân trang và bán đi thôi. Và có nghĩa là gã luôn có việc cho thợ sơn giỏi.

Jose nói vậy thì tuyệt quá. Rollie có cần thợ làm vườn không? Ramone cũng rất có năng khiếu với cây cối, và cậu ấy cũng từng tỉa tót cây cối, sửa sang vườn tược hồi ở Tequila.

Rollie vỗ đầu gối và cười khoái chí. Gã bảo chưa từng mong tìm được một viên ngọc quý như Ramone đứng xếp hàng tại đại lộ Pico. Cậu em họ của anh còn giấu nghề gì nữa? Chuyện càng lúc càng hay rồi đây.

Jose bảo công việc gần đây nhất của Ramone là sửa chữa xe tải và máy móc cho một công ty xây dựng. Anh bảo Rollie rằng Ramone cũng biết cách sửa dây điện và làm nghề mộc cũng ra trò, dù chỉ là cho ngôi nhà ở Tequila, chứ không phải làm việc kiếm tiền.

Rollie lại vỗ đầu gối và mời Ramone thêm lon bia nữa. Gã bảo Ramone là món hàng hiếm có khó tìm, ý khen Ramone có thể làm hầu hết mọi chuyện gã nghĩ trong đầu. Ramone là người tài, gã có thể thuê và trả lương toàn thời gian, nếu cậu ấy có thẻ căn cước.

Chuyện này khó đây. Jose thở dài và thừa nhận rằng em họ mình không có thẻ căn cước. Thứ đấy khó xin lắm. Ramone phải chứng minh mình có nghề ngỗng mới hòng có được thứ giấy má đó, nhưng cậu ấy lại không thể nhận việc khi không có chúng.

Rollie cười và lại vỗ đầu gối. Không phải đúng sao? Họ có một cụm từ dành cho tình thế này ở El Paso. Người El Paso sẽ bảo đấy là anh đang ở giữa cuộc phóng loạn của bầy gia súc và cửa chuồng, kẹt giữa đám cứt và cuộc hỗn loạn.

Jose cười. Cách dùng từ của Rollie thật phong phú. Anh phải nhớ cái này mới được. Nhưng em họ anh phải làm gì để kiếm thẻ xanh đây?

Cứ làm việc và đừng lo lắng gì, Rollie khuyên. Gã sẽ trả lương nhật cho Ramone và sẽ thử tác động đến bên La Migra [36] xem sao. Gã chắc chắn sẽ có cách giúp Ramone kiếm được thẻ xanh, miễn là cậu ấy không bị tóm và đưa trả về nước trước khi chuyện xin giấy tờ xong xuôi.

Rồi Rollie ra xe tải và trở lại cùng gì đó mà gã gọi là mắt đỏ. Gã rót một chút vào chai bia của mỗi người và bảo rằng họ sẽ ăn mừng, vì Chúa. Người El Paso gọi bia trộn cùng mắt đỏ được gọi là chó bun. Jose uống rồi phát biểu cảm nghĩ xem nào?

Jose bảo Rollie rằng nó ngon tuyệt. Và Ramone nhanh trí hành động ngay khi thấy Jose ra hiệu. Cậu ấy giả bộ thích thứ đồ uống ghê miệng ấy đến độ Rollie lại vỗ đầu gối.

Rồi Rollie bảo vì giờ họ là bồ tèo của nhau rồi, gã muốn hỏi Ramone một câu riêng tư. Gã cứ ngứa ngay mãi từ lúc biết Ramone là người Tequila. Jose có thể hỏi hộ xem họ có ăn đống sâu ở đáy chai không?

“Jose? Tôi nghĩ burger được rồi đấy.” Jose ngước lên, giật mình, và thấy Cheryl đang cười mình. Cái hamburger anh rán giờ đã trở thành một cục nho nhỏ đen sì trên bếp nướng.

“Cậu mệt hả?” Cheryl lắc đầu. “Vẫn giúp cậu em họ sơn nhà à?”

“Hôm nay là ngày cuối rồi, Cheryl.” Jose ném thêm cái hamburger nữa lên lò và bỏ cái cháy ra than vào thùng rác. “Giờ Ramone có thể tự làm việc rồi. Cậu ấy đã hiểu được tiếng Tây Ban Nha của anh chàng Texas kia. Và Rollie Rawlins đang lo giấy tờ nên em họ tôi sẽ sớm thành công dân Mỹ thôi.”

Cheryl gục gặc. “Thế thì tốt. Giờ Ramone chỉ cần ém hành tung một chút cho đến khi mọi chuyện xong xuôi. Tôi mừng vì mọi chuyện cũng sắp qua, Jose. Tối qua cậu ngủ được nhiều không?”

“Chưa đầy ba tiếng. Mắt tôi cứ díp lại lại trong bữa ăn tối tuyệt hảo của Marguerita, và cô ấy bắt tôi đi thẳng lên giường.”

“Thế sao cậu không nghỉ đi, Jose? Chợp mắt chừng bốn mươi phút trong nhà kho ấy. Tôi có thể lo liệu cái bếp nướng này một lát.”

“Cảm ơn nhé, Cheryl. Chị tốt quá. Nhưng tôi thấy nhờ chị làm việc của tôi cứ làm sao ấy.”

“Thế cậu giúp tôi một việc nhé?”

“Việc gì?”

Cheryl mỉm cười. “Tôi thèm món salsa của Marguerita chết mất. Nếu cậu mang cho tôi một mẻ bánh, đổi lại tôi sẽ giúp cậu nướng bánh bây giờ. Được không?”

“Tất nhiên rồi, Cheryl. Nhưng đằng nào tôi cũng mang salsa cho chị thôi. Marguerita sẽ hãnh diện lắm nếu biết chị thích đồ cô ấy làm.”

“Giúp người giúp mình ấy mà, Jose. Thế là được.” Cheryl vỗ lưng anh và đẩy anh ra cửa. “Giờ đi nghỉ đi, và tôi sẽ đánh thức cậu khi nào quán đông khách quá.”

Jose mỉm cười khi rời nhà bếp. Cheryl là người bạn tốt. Anh hít một hơi sâu không khí lành lạnh của buổi tối và lại ngáp. Sau đó, anh đi thẳng ra phòng kho. Cheryl nói đúng. Anh kiệt sức rồi.

Kho nằm ở bên kia cửa hàng, bằng kim loại và có cánh cửa kim loại kêu cọt kẹt có khóa. Nó không bao giờ bị khóa trong giờ kinh doanh, và vì quán ăn phục vụ cánh lái xe tải mở cửa hai tư giờ mỗi ngày nên cái khóa gỉ sét đang treo lủng lắng trên móc.

Khi Jose nằm dài giữa hai bao bột mì, anh cảm thấy có gì đó cứng và khó chịu trong túi. Anh bối rối mất một lúc rồi mới nhớ ra. Là con dao. Anh đã mang theo nó kể từ ngày nghe cuộc điện thoại nọ, nhưng chẳng có gì - hoàn toàn không có gì - xảy ra. Không có cuộc điện thoại, chẳng có thêm vụ sát hại thành viên bồi thẩm đoàn nào được đưa lên báo chí hoặc lên ti vi.

Vào ngày đầu tiên sau cuộc điện thoại, Jose hoảng hốt lắm. Dù Marguerita biết có chuyện không hay, nhưng anh không hề nói một lời nào với cô. Nhưng đêm đó anh quyết định rằng phải cố đối mặt với kẻ thù của mình và buộc hắn ra mặt. Anh đã ra ngoài con phố vắng hoe, cẩn trọng quan sát từng chỗ tối, nhưng không hề có ai tiến tới định làm hại anh. Anh đi bộ thêm ba đêm nữa rồi mới thôi. Khi anh hỏi Cheryl xem anh nên làm gì thêm, chị ấy bảo rằng gã đó có lẽ chỉ là đồ dở hơi vô hại, nhưng mang theo một con dao cũng chẳng hại gì.

Jose rút con dao khỏi túi và tay chạm vào cán dao mà ngủ. Anh lắng nghe những âm thanh của bóng tối, nhưng chẳng hề có cảm nhận gì rằng nguy hiểm đang tới gần. Đêm vẫn như thường lệ, chỉ thi thoảng bị cắt ngang bởi tiếng phanh rít khi tài xế đỗ xe trong khu đậu xe phía trước, và tiếng giao thông rầm rì trên nút giao đường cao tốc. Có tiếng radio vang lên từ đâu đó, nghe chỉ văng vẳng, và Jose nhận ra bài hát. Đó là một bài hát đúng chất miền tây và thôn dã, gì đó về một trí óc thỏa mãn.

Rồi anh dần chìm sâu vào giấc ngủ nặng nề như thể bị đánh thuốc. Tiếng giao thông nhỏ đi thành tiếng thì thầm và rồi trở nên yên lặng. Anh không hề nghe thấy tiếng bước chân tới gần hay cửa phòng kho cọt kẹt mở ra. Và anh cũng chẳng tỉnh giấc khi con dao sắc lẻm đâm xuyên trái tim đang ngủ say và khiến nó yên nghỉ mãi mãi.

Toni làu bàu tỉnh giấc. Chỉ có một chuyện duy nhất làm cô tỉnh giấc giữa đêm, và chính là chuyện này. Hôm nay khi Mike ra ngoài có chút công chuyện, anh mang về ít nhất cũng phải chục hộp đồ ăn Tàu từ quán Szechwan. Toni thích đồ ăn của Szechwan, và nói cô đã nhồi đồ ăn vào bụng cũng chẳng ngoa. Rồi cô thấy khát nước cả đêm, và cô đã tu ừng ực một cốc mười hai ounce nước lạnh trước khi họ đi ngủ. Thể nào mà cô thấy khó chịu.

Cô lẳng lặng xuống giường và vội vào nhà vệ sinh. Mấy giờ rồi nhỉ? Cô đóng cửa nhà vệ sinh và bật đèn, nheo mắt trước luồng sáng đột ngột. Cái đồng hồ Burma Shave cũ cô lấy từ nhà bố như một kỉ vật gợi nhớ về ông cho cô biết giờ là bốn giờ sáng. Họ lên giường lúc mười một giờ, nhưng phải một tiếng sau mới ngủ, như vậy cô chỉ ngủ vỏn vẹn có bốn tiếng.

Toni lạch bạch trở lại giường, nhưng không chui vào chăn. Cô không thể ngủ ngay lại được. Cô đáng ra nên mặc kệ cơn khát mà đi ngủ chứ đừng nên uống nước. Nhưng giờ cô đã đủ tỉnh táo để nghĩ về về toàn bộ hiện tượng có lẽ có giá trị thực tế này. Mười hai ounce nước uống trước lúc đi ngủ sẽ làm cô ngủ chỉ được có bốn tiếng. Cô chưa từng nhận ra điều đó, nhưng cô có đồng hồ sinh học, và nó chắc chắn sẽ đánh thức cô cho dù cô ngủ ngon thế nào. Tất nhiên, cô phải kiểm chứng thêm vài lần để xem cụ thể ra sao.

Cô ngồi trên mép giường và thầm tính toán. Nếu cô uống hai cốc nước thay vì một, vậy sẽ rút ngắn thời gian cô ngủ trước khi tỉnh giấc theo tiếng gọi của tự nhiên. Và uống ít nước đi sẽ kéo dài thời gian ra. Giờ cô chỉ cần phải tính toán xem nên uống bao nhiêu nước, và cô có thể dậy bất cứ lúc nào mình muốn.

Toni đứng lên và vội vào phòng làm việc viết ghi chú cho mình. Cô gọi phát hiện của mình là đồng hồ nội thủy. Cơ chế rất đơn giản, và cô sẽ lặp lại vào tối mai cho chắc chắn. Và rồi cô sẽ thử với lượng nước nhiều hơn và ít hơn tới khi hiểu cho ra nhẽ.

Sau khi viết xong, Toni ngồi đó một phút và đọc lại. Cô hi vọng mai đọc cô sẽ hiểu. Có một lần cách đây hai năm, cô tỉnh dậy giữa đêm và viết gì đó cô nghĩ là thực sự sâu sắc. Nhưng khi cô đọc lại vào sáng hôm sau, trên tờ giấy chỉ vỏn vẹn bảy chữ, Đi bộ qua đồng hồ cát trong cơn bão. Cô đóng khung và treo bên trên máy tính. Giải quyết rắc rối của thế giới trong lúc ngủ là thế đấy. Đến giờ cô vẫn không biết câu mình viết năm nào có nghĩa gì.

Toni mỉm cười khi trở lại giường và chui vào chăn. Cô lại buồn ngủ rồi. Cô dịch về phía bên Mike, định rúc lấy hơi ấm và ngủ lại, nhưng... Toni vỗ chăn. Anh đâu mất rồi? Chỉ mới bốn rưỡi sáng, và anh đã đi mất. Cô xấu lắm khi tỉnh dậy vào ban sáng sao? Không, đó không thể là lí do. Mike chưa từng ở lại tới lúc thấy cô thế nào vào buổi sáng.

Thôi xong. Giờ cô lại tỉnh như sáo rồi. Toni bật đèn và mặc cái áo choàng lông ngỗng ấm áp của mẹ mình vào. Nó từng có màu xanh hoàng gia, nhưng bị giặt quá nhiều nên phai sang màu bò bạc. Cô thấy lạ về sự biến mất của Mike. Cô có một người yêu không muốn ở cả đêm cùng cô. Cô làm gì sai chăng? Cô ngáy ư? Cô bị hôi miệng chăng? Ôi, cầu Chúa phù hộ, cô vừa ngủ vừa thả rắm sao? Phải có lí do gì đó mà Mike luôn bỏ đi trước sáng và cô muốn tìm hiểu cho rõ.

Toni mở rộng cửa và bước vào hành lang trên đôi dép bông màu xanh lơ để ấn chuông cửa nhà Mike. Cô phải làm mọi chuyện ra ngô ra khoai ngay, trước khi nó thực sự trỏ thành một vấn đề.

Không ai mở cửa. Chắc anh ngủ mất rồi. Cô gõ cửa thình thình, rồi lại nghĩ tới chuyện giờ giấc, và ấn chuông liên tục. Dù vậy, cô cũng không nghe thấy tiếng động nào trong nhà, không có tiếng bước chân ra mở cửa. Mike có nhà không? Nếu không có, vậy anh biến đi đâu mà không đi xe hơi mới được chứ? Anh trả chìa khóa cho cô chưa nhỉ? Toni vội chạy đi tìm, nhưng chúng không treo trên móc như thường lệ. Cô phải để mở cửa nhà trong lúc kiểm tra ga-ra. Chìa khóa nhà cô cũng nằm trong chùm chìa khóa kia. Quên nỗi lo sợ trộm viếng nhà đi. Chuyện này quan trọng hơn, và cô chỉ đi có một hai giây chứ mấy.

Toni chạy vội xuống cầu thang và mở cửa ga-ra. Chỗ đậu xe của cô trống không. Có lẽ có lí do cho chuyện Mike lấy xe cô giữa đêm hôm, nhưng cô vẫn chưa nghĩ ra là gì.

Cô trở lên nhà. Toni cố duy trì bình tĩnh và suy nghĩ. Cô nên làm gì? Nếu một người lạ lấy xe của cô, cô sẽ gọi cảnh sát, nhưng trường hợp này lại khác. Cô đã bảo Mike có thể dùng xe của cô bất cứ lúc nào anh muốn.

Rồi cô thấy ví của anh trên bàn bếp và mở ra. Tệ quá. Anh lái xe của cô đi mà quên cầm theo bằng lái. Cô mong anh không bị cảnh sát tuýt lại.

Thư. Anh phải để thư lại cho cô chứ. Cô chẳng thấy gì. Không có gì trong bếp hết. Không có gì bên cạnh máy tính, hoặc bất cứ nơi nào khác cô nghĩ ra mà có. Tất nhiên, có lẽ anh nghĩ cô sẽ không tỉnh dậy. Cô đã bảo với anh rằng cô có thể ngủ dù có bất cứ chuyện gì mà.

Toni pha cho mình một cốc cacao hòa thêm chút brandy để bình tâm lại. Mike hẳn sẽ có lời giải thích khi trở về. Nếu anh còn trở về.

Cô phải ngừng nghĩ như thế đi. Còn quá sớm để đi tìm anh, đấy là nếu cô biết đi đâu để tìm. Cô sẽ đợi Mike tới bình minh trước khi hành động. Nhưng anh ở đâu chứ? Và anh đang làm gì? Anh có một cô bạn gái khác giấu ở đâu đó chăng? Cô đã nghe về những gã chia thời gian cho hai người phụ nữ, nhưng Mike có vẻ không phải dạng đó. Tất nhiên, một gã bắt cá hai tay giỏi không bao giờ để lộ ra mình bắt cả hai tay, hoặc không họ đã chẳng giỏi.

Toni uống thêm một ngụm lớn. Brandy có vẻ không giúp được cô rồi. Nếu Mike lớ xớ với một người phụ nữ nữa, anh sẽ giải thích thời gian anh vắng mặt để ở cùng cô như thế nào? Cô đoán là một công việc làm thêm vào buổi tối. Đó là một cái cớ hơi bị tuyệt miễn là người phụ nữ kia không cố liên lạc với anh trong thời gian đó. Hay là có nhỉ? Anh bảo hôm nào anh cũng nhận cuộc điện thoại lúc chín giờ từ anh trai, nhưng rất có thể người gọi tới là ả kia. Ả trông thế nào? Toni dám cá ả tóc vàng. Cái ngữ đó luôn tóc vàng. Và ả có bộ ngực lớn và săn chắc hơn của Toni nhiều. Mike sẽ về một căn hộ khác của anh... hoặc một ngôi nhà ở ngoại ô... và ả, một nàng thỏ Playboy tóc vàng, đang ở đó đợi anh. Ả sẽ rót rượu và xoa lưng cho anh. Tội cưng quá. Anh làm việc vất vả quá. Và anh sẽ nói ả thật xinh đẹp trong bộ đồ ngủ đen nửa kín nửa hở. Nếu ả hứa dùng tiền anh kiếm thêm được vào những bộ đồ gợi tình thế này, anh sẽ không nề hà chuyện nhận thêm công việc thứ ba. Mà nghĩ lại có lẽ anh không mệt như anh tưởng. Và ả sẽ cười và hôn anh, rồi họ... Cacao bị đổ sánh ra bàn, Toni đi lấy miếng bọt biển để thấm đi. Tưởng tượng của cô thật lố bịch. Cô chắc chắn Mike không ở cùng người phụ nữ khác. Phải có lí do cho việc anh biến mất, và nếu cô động não, cô sẽ có thể đoán ra.

Có lẽ Mike không ngủ được. Anh đã bảo cô rằng anh không quen ăn đồ của quán Szechwan, và anh đã ăn rất nhiều đồ cay. Đám hạt tiêu xay đó hại cho hệ tiêu hóa phải biết. Chắc anh đã thức dậy và lục tủ thuốc tại phòng tắm để kiếm vài viên Alka Seltzer. Và cô biết là không có vì cô chẳng bao giờ cần đến chúng. Cô luôn ăn được mọi món cô muốn mà không bị làm sao hết. Nhưng nếu Mike muốn tìm kì được thứ gì làm dạ dày anh ổn định lại, có lẽ anh sẽ ra ngay mấy cửa hàng tiện lợi mở cửa thông đêm. Cô đã bảo anh rằng có một cửa hàng cách đây chỉ vài dãy nhà, nhưng chắc là anh quên mất. Vậy nên anh lấy xe của cô và quyết định đi vòng vòng tìm. Hẳn là vậy. Cô biết là thế mà. Cô có thể mường tượng anh lúc này đang lái xe qua những con phố tối om tới khi thấy biển hiệu AM/PM Market hay 7-Eleven. Giờ anh vào bãi đậu xe, ra khỏi xe và khóa cửa xe lại. Cô chắc chắn anh sẽ khóa. Mike là người cẩn thận.

Alka Seltzer sẽ ở ngay cái kệ đằng sau quầy thu ngân. Anh chỉ cần mua một vỉ. Không cần mua cả hộp vì anh sẽ thề không bao giờ ăn đồ Szechwan nữa. Ông già ngồi sau quầy sẽ nói, “Đau bụng hả, anh bạn?” Và Mike sẽ nói, “Do đồ ăn Szechwan đấy. Chắc là do tôi ăn nhiều quá.” Người đàn ông sẽ gật đầu và đưa anh một cốc nước để anh có thể được nhẹ bụng ngay tại cửa hàng. Và sau đó ông ta sẽ đề nghị Mike mua gì đó ăn để bụng dạ yên ổn qua đêm. Sữa chua hoặc kem. Chúng bao giờ cũng có tác dụng. Mike sẽ nhớ ra họ đã ăn hết sạch kem từ hai tối trước, và anh lại thèm Rocky Road thế nên anh sẽ mua thêm. Rồi anh sẽ lái xe về đỗ trong ga-ra và lên nhà. Anh sẽ đi qua cửa cầm theo một hộp kem Rocky Road. Tất nhiên, anh sẽ vui vì cô đã dậy, nên họ sẽ ngồi bên bàn và thi nhau ăn kem Rocky Road.

Toni thở dài. Tưởng tượng sai rồi. Uống thuốc đau bụng và mua kem không mất nhiều thời gian đến thế. Đã hơn năm rưỡi sáng, vậy là Mike đã rời nhà phải chừng hơn một tiếng rưỡi. Nếu chẳng may anh bị tai nạn trên đường trở về thì sao? Một gã say có thể đâm thẳng vào anh, có lẽ giờ này anh đang nằm trong viện, bất tỉnh và cần cô. Mà ví của anh lại ở đây, anh sẽ chẳng có giấy tờ tùy thân gì, và họ sẽ không thể biết anh là ai.

Toni vớ lấy cuốn danh bạ. Cô đợi đủ lâu rồi. Ít nhất cô có thể gọi điện đến các bệnh viện gần đây xem có ai giống Mike vừa nhập viện không. Cô vừa ấn số đầu tiên thì nghe tiếng chìa khóa tra vào ổ.

“Mike?” Toni vứt cuốn danh bạ xuống và lao vào vòng tay anh. “Cảm ơn Chúa là anh về! Em cứ tưởng anh bị tai nạn cơ!”

Anh ôm cô, và Toni cũng ôm anh thật chặt. Cô thấy nhẹ cả người.

Michael thì không có được cảm xúc ấy; không hề. Anh thở dài và ôm Toni chặt hơn một chút. Anh phải thú thực với cô thôi. Vậy mới công bằng. Cô rõ ràng đang lo cho anh nhiều lắm.

“Toni? Ngồi xuống đi. Có điều này anh phải nói, và chuyện hơi dài một chút.”

“Là ả tóc vàng.” Toni ngồi sụp xuống ghế. “Em biết mà.Em vừa mới biết rồi.”

“Ả tóc vàng nào?”

“Ả mặc váy ngủ đen ấy. Người phụ nữ khác của anh.”

“Em nói cái gì đấy, Toni? Anh không có người phụ nữ khác. Không ai ngoại trừ em.”

Toni thở dài một hơi run rẩy. “Ơn trời! Em cũng không nghĩ anh có, nhưng em chẳng dám chắc hoàn toàn. Mà... Mike này? Nói thật với em đi. Em có làm gì kinh khủng trong lúc ngủ không? Như... ờ... ngáy hay gì đó?”

“Không, Toni. Em trông rất đáng yêu khi ngủ. Và em không ngáy.”

“Nhẹ cả người! Vậy chắc anh ra ngoài mua thuốc đau bụng và Rocky Road rồi. Và vì anh không mang hộp về, nên chắc anh đã chén sạch trên đường.”

“Rocky Road? Không, Toni. Anh không đi mua kem.”

“Gã say đâm phải anh trước khi anh tới cửa hàng à? Đừng lo, Mike. Em có mua bảo hiểm. Xe của em có được bảo hiểm trong trường hợp bị xe khác không có bảo hiểm đâm phải. Em mừng là anh không bị trầy xước gì. Ai cũng có thể gặp tai nạn. Và em cá lỗi không phải do anh.”

“Không ai đâm vào anh hết, Toni. Chiếc xe vẫn ổn. Anh đã kiểm tra khi trở về và không thấy có dấu hiệu tai nạn.”

“Anh kiểm tra xem có ai đâm anh không à? Em không hiểu. Nếu có ai đâm vào xe anh, anh phải biết chứ?”

“Trừ khi vì thế mà anh tỉnh dậy.” Michael bước tới tủ chạn, lấy ra hai cái cốc rồi rót thật đầy nước vào đó. “Anh không biết ai cần thứ này hơn, Toni, em hay anh. Uống một ngụm và đừng hỏi gì thêm. Anh sẽ kể hết tất cả.”

“Nhưng...” Toni mở miệng, nhưng rồi nghĩ lại. Cô ngậm miệng và chờ đợi.

“Anh mắc chứng mộng du, Toni ạ. Đó là lí do anh không hề ở đây khi em tỉnh dậy mỗi sáng. Đôi lúc giữa đêm anh rời giường và làm gì đó trong lúc ngủ. Anh không biết sao mình bị vậy, nhưng hình như anh không đừng được. Anh đã thử mọi cách anh nghĩ ra rồi. Và tối nay anh phát hiện ra mình còn có thể vừa ngủ vừa lái xe nữa.”

“Sao cơ?” Toni uống thêm một ngụm nước nữa. “Vậy không... ờ... nguy hiểm sao?”

“Chắc là có. Anh nghe còn thấy nguy hiểm nữa là. Nhưng anh đã kiểm tra xe em rồi, Toni. Không hề có lấy một vết xước.”

“Vậy anh đã đi đâu, Mike? Anh có biết không?”

“Không hẳn.” Michael lắc đầu. Anh có cảm giác mình đã tới trường Gateway, nhưng đó chỉ là suy đoán. Anh đã nghĩ về giáo sư Zimmer ngay trước khi ngủ. Chiều nay lúc anh tới trường, anh mới phát hiện ra lớp của giáo sư hôm nay bị hủy. Trên cửa lớp có dán một tờ thông báo. Michael đã gọi cho phòng nhân sự từ bốt điện thoại trong trường, và lần này anh gặp cô Beemer. Đúng, giáo sư Zimmer đi công tác tuần này, nhưng ông sẽ trở lại dạy lớp hôm thứ Hai. Nghe vậy Michael cũng an tâm. Nếu giáo sư đang đi vắng vậy ông sẽ an toàn cho tới thứ hai, và Michael sẽ đến trường cảnh báo ông trước giờ ông lên lớp.

“Mike? Anh ổn không?”

Michael nhận ra Toni vừa hỏi anh gì đó. “Gì vậy, Toni? Chắc anh vừa ngủ gật.”

“Em hỏi anh ở đâu khi tỉnh dậy.”

“Tại đường cao tốc Santa Monica, ngay trước Lincoln. Anh phải xuống xe và xem bản đồ để về đây. May mà em có bản đồ, Toni ạ. Lúc ấy anh chẳng biết mình ở đâu.”

Toni cố không tỏ vẻ hoảng hốt, nhưng cô biết mình không giỏi che giấu cảm xúc. Lái xe trên đường cao tốc Los Angeles khi tỉnh táo đã tệ lắm rồi. Nhưng lái xe lúc ngủ ư? Mike không mất mạng cũng lạ đấy.

“Mike? Anh có biết anh còn làm gì trong khi mộng du không? Ờ thì ngoài lái xe trên đường cao tốc đông đúc ấy?”

Mike gật đầu. “Anh biết anh mặc đồ và cởi đồ. Và một lần khăn tắm bị ướt, vậy chắc anh đã đi tắm.”

“Ồ.” Toni hơi run. “Rất... thú vị.”

“Ý em là đáng sợ, phải không?” Toni gật đầu, và Michael nắm tay cô. “Anh cũng sợ chết khiếp đi được. Anh tỉnh dậy vào ban sáng và không biết mình đã làm gì hay đi đâu. Và anh không nhớ được, Toni. Có những hình ảnh mờ nhạt, nhưng anh không chắc anh mơ thấy chúng hay là chúng thực sự xảy ra nữa.”

Toni nuốt nước bọt, “Anh bắt đầu mộng du từ khi nào, Mike? Anh nhớ không?”

Michael lắc đầu. “Hồi đó anh còn nhỏ quá, Toni ạ. Chắc tầm ba tuổi chứ mấy. Nhưng anh biết là ngay sau khi anh đến ở với dì Alice. Dì lo quá nên đưa anh tới khám bác sĩ, nhưng ông ta bảo đó là phản ứng của anh với môi trường mới thôi. Hiện tượng ấy ngừng sau chừng hai tháng, khi anh đã quen với ngôi nhà.”

“Vậy thì rõ rồi.” Toni gật gù. “Nhà anh là môi trường mới. Nhưng anh chưa từng làm mình bị thương chứ, Mike?

Em nghĩ anh có thể va phải đồ đạc hay ngã cầu thang trong giấc ngủ chứ.”

“Dì anh cũng lo thế, nhưng chuyện đó chưa từng xảy ra. Như thể anh đang trong chế độ lái tự động vậy. Mắt anh mở, vậy chắc anh vẫn nhìn được các vật trên đường và tránh chúng.”

Toni thực chẳng biết nói gì. Tất nhiên, cô đã nghe nhiều chuyện về chứng mộng du, nhưng cô chưa từng gặp ai mộng du cả. Cô nên nói gì đó để an ủi Mike. Anh trông buồn thảm lắm rồi.

“Ờ thì... ít nhất chúng ta cũng có một điểm chung, Mike. Anh vừa nhắc tới chế độ lái tự động làm em tự dưng nhớ ra. Có lúc em thức dậy vào ban sáng và cứ thế mắt nhắm mắt mở rửa bát. Có lần em rửa xong một nửa rồi mới tỉnh hẳn và nhận ra mình đang làm gì. Cũng không khác chứng mộng du của anh là mấy, nhỉ?”

“Có lẽ không.” Michael nhíu mày khi đẩy chìa khóa xe qua bàn. “Em nên cầm lại đi, Toni. Và anh hiểu nếu em không muốn anh ngủ lại đây nữa. Chứng mộng du của anh có lẽ sẽ làm em đâm ra lo lắng.”

Mike tội nghiệp. Toni đau lòng vì anh. Mike nghĩ cô không thích anh nữa khi anh thú nhận vấn đề của mình. Thật ngu xuẩn. Cô cũng có ối vấn đề ra kìa. Mọi người đều có. Và có lẽ họ có thể giúp nhau.

“Trở lại giường thôi, Mike. Chắc anh mệt rồi. Em nên phòng hờ mà giấu chìa khóa xe đi nhỉ?”

“Em không phải làm thế này đâu, Toni. Anh sẽ về nhà. Vậy sẽ dễ chịu hơn cho em.”

“Ôi, không đâu!”

“Nếu anh lại đi lang thang trong nhà em hay làm gì đó thì sao? Em không bực mình à?”

Toni hôn anh. “Không. Em thấy thế cũng hay, dù hơi khùng. Nếu em làm nhiều chuyện lúc nửa tỉnh nữa ngủ, còn anh thì làm trong lúc ngủ, vậy nếu chúng ta chẳng may va vào nhau cũng thú vị lắm chứ. Nói đi, Mike... anh có bao giờ làm việc nhà trong lúc ngủ không? Như rửa bát hay hút bụi ấy?”

“Anh không biết nữa, Toni. Có lẽ có.”

“Tốt, từ giờ em muốn anh nghĩ về tủ lạnh trước khi ngủ. Tủ lạnh của em đã không rã đông cả năm nay rồi.”

* * *

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3