Bản Kháng Cáo Cuối Cùng - Chương 22
22
M>ãi hai giờ chiều Michael mới về nhà. Cảm giác lần đầu tiên được thức dậy cùng Toni thật tuyệt.
Họ ra ngoài chạy bộ rồi thư thả ăn sáng. Cô rất thông cảm cho chứng mộng du của anh. Tất nhiên, anh không kể hết, nhưng quả là nhẹ nhõm khi được thành thật với ai đó, cho dù anh mới kể một nửa câu chuyện.
Michael tắm qua loa rồi mặc quần bò và áo nỉ vàng in dòng chữ ĐẠI HỌC AUCKLAND ở mặt trước mà anh tìm thấy trong một ngăn kéo nọ. Theo như anh biết, Stan chưa từng tới New Zealand, vậy chắc anh ấy mua nó ở một cửa hàng nào đó rồi.
Có cả một chồng áo nỉ, và Michael cầm lên xem xét. Có một cái màu đỏ của trường đại học Moscow. Màu nhìn cũng được. Và một cái màu đen của đại học Tasmania với hình con sư tử cầm đuốc. Cái màu xanh da trời là của Swaziland. Còn chiếc màu trắng có cái cây xanh ở mặt trước là từ Beirut, Lebanon.
Có mười hai cái áo nỉ tất cả, một số thuộc về những trường đại học Michael chưa nghe tên bao giờ, như Bophuthatswana và Senegal. Cũng thú vị ra phết. Anh nhớ đã gặp hai người sưu tầm áo nỉ đại học, nhưng cả hai đều không theo học những trường đại học đó hoặc có bạn bè học ở đấy. Chồng áo này có vẻ là một kiểu hòa trộn kì cục của những trường đại học không có liên quan gì đến nhau.
Stan chưa từng có hứng sưu tập cái gì. Có lẽ đây là một phản ứng sinh ra từ bộ sưu tập thú nhồi bông mà dì Alice mua cho Michael. Dù vì lí do gì, Stan cũng luôn cho rằng các nhà sưu tập là đồ khắc kỉ. Michael tin đám áo nỉ này không phải một phần của bộ sưu tập thuộc về Stan. Có thể Stan mua cả đống áo nỉ đồng phục đại học mà chẳng ai muốn mua này với giá hời hơn.
Michael định tiếp tục viết sách thì điện thoại đổ chuông. Toni hoặc Stan đây mà. Không ai khác gọi cho anh. Anh cá là Toni. Stan chưa từng liên lạc giữa thanh thiên bạch nhật trừ khi có chuyện nghiêm trọng. Và dạo này chỉ có mấy vụ án mạng. Mike nhấc điện thoại. Ngay khi nghe thấy giọng ở đầu dây bên kia, anh bắt đầu nhíu mày.
“Mike à? Stan đây.”
“Ôi, chết tiệt!” Michael buột miệng, nhưng Stan đã cười khanh khách.
“Ôi, chết tiệt à? Đấy là cách chú chào đón ông anh đang đốt đít đẩy nhanh bản kháng cáo của chú hử?”
“Xin lỗi nhé, Stan. Em buột miệng thôi. Làm ơn nói là không phải có vụ án mạng nữa đi.”
Stan thở dài. “Xin lỗi nhé, Mikey. Có một vụ án mạng nữa thật. Nhớ anh chàng Mexico trong bồi thẩm đoàn tại phiên xử chú không?”
“Jose Sanchez? Nhưng không thể nào!”
“Anh sợ là có thể nào đấy. Anh ta bị đâm chết hồi sáng nay tại quán Crossroads. Sao chú lại nói là không thể nào?”
Michael vội nghĩ cách trả lời. “Em chỉ bàng hoàng quá thôi. Em cứ mong không có thêm vụ sát hại bồi thẩm nào nữa. Chuyện xảy ra thế nào?”
“Cảnh sát đoán Sanchez cố ngăn một gã lang thang trộm đồ trong kho. Anh ta có dao, nhưng gã kia nhanh hơn. Sanchez còn chẳng có cơ hội phản kháng.”
Đầu óc Michael quay cuồng. Một vụ án mạng nữa. Và anh đã đích thân cảnh báo Jose Sanchez rồi. Sau đây, Stan phải tin có mối liên hệ giữa các bồi thẩm và những vụ án mạng.
“Nghe em nói đã này, Stan. Margo Jantzen, Neal Wallace, Lester Robinson, và giờ đến Jose Sanchez. Bốn trong số mười hai người, vậy đây không thể nào là chuyện tình cờ. Chúng hẳn là một phần của mưu đồ điên rồ hòng giết sạch các bồi thẩm trong phiên xử em. Nếu không thì là gì đây?”
“Đừng buồn quá, Mikey. Đồng ý là chú nói cũng có lí. Nhưng đừng quên Neal Wallce không bị giết. Người của anh ở đồn cảnh sát bảo rằng họ đã xem xét kĩ càng giàn giáo đó và nó gãy do chịu tải lớn quá. Họ cam đoan đấy.”
Michael cố lắm mới giữ được giọng bình tĩnh. Thi thoảng Stan chậm hiểu chết đi được.
“Điều đấy có thể đúng, Stan. Nhưng anh đang quên mất chuyện xảy tới với thi thể anh ta tại nhà tang lễ. Có lẽ cái chết của anh ta là ngẫu nhiên, nhưng có kẻ sau đó đã băm xác anh ta đấy thôi. Và vì thế em nghĩ chúng ta nên tính anh ta vào cùng ba người kia.”
“Ừ, có lẽ. Hình như anh hơi hơi hiểu giả thuyết của chú rồi, Mike. Nó sáng tỏ theo một cách kì cục. Nhưng sao có người muốn giết bồi thẩm đoàn của chú?”
“Em không biết, nhưng hung thủ ắt hẳn có lí do. Chúng ta phải làm gì đây, Stan? Em biết không thể báo cảnh sát. Nếu chúng ta chỉ ra mối liên hệ, họ sẽ bắt đầu tìm kiếm Michael Hart. Nhưng anh không nghĩ em chí ít cũng nên cảnh báo cho các bồi thẩm còn lại ư?”
“Đừng nói chuyện điên khùng thế chứ, Mikey!” Stan có vẻ bực. “Chú cứ ngồi im đấy và để mọi chuyện cho anh. Anh biết họ ở đâu. Anh đã bảo chú là anh vẫn để mắt tới họ mà. Chú cứ hứa tránh xa chuyện này ra, nếu không chú sẽ làm mọi chuyện anh làm được tới thời điểm này đổ xuống sông xuống biển cả đấy. Chú hiểu chứ?”
Michael vội vàng thoái lui. Stan có vẻ bực thật. “Em hiểu, Stan. Anh là sếp, và em hứa sẽ không nhúc nhích lấy một ngón tay. Nhưng anh thật sự sẽ cảnh báo họ chứ?”
“Tất nhiên rồi.” Stan có vẻ đã bớt giận đôi chút. “Anh sẽ bắt đầu ngay đây, Mike. Khi anh gọi cho chú tối nay, mọi người còn lại đã được báo phải cẩn thận.” Dừng một chút rồi Stan nói tiếp. “Mikey? Chú ổn đấy chứ? Ý anh là chú nói cứ là lạ thế nào ấy khi anh báo tin Sanchez.”
“Em ổn, Stan à. Em chỉ bàng hoàng quá thôi. Em nhớ mình từng nghĩ Sanchez giống dạng người có thể tự mình lo liệu trong mọi tình huống.”
“Trông anh ta đúng là vậy, nhỉ?” Stan có vẻ hài lòng. “Chú nhớ rõ các bồi thẩm thật, Mike. Anh nghĩ chú nhớ được nhiều điều về họ hơn anh.”
Michael im lặng. Tất nhiên anh nhớ rồi. Anh nhớ họ rõ tới độ đêm nào cũng mơ thấy họ cơ mà.
Stan hắng giọng. “Anh cúp máy đây, nếu chú đã chắc chắn là mình ổn. Anh có cả núi việc phải làm. Chú biết nghề này là thế nào mà. Phải không, Mike?”
“Vâng, mà Stan này. Chuyện kháng cáo ra sao rồi? Vừa rồi anh nói anh đang đốt đít lo vụ đó mà.”
“Đúng thế. Đáng ra anh nên nói chuyện đó trước khi báo tin về anh chàng bồi thẩm người Mexico. Anh rất tiếc, Mikey. Anh biết lúc nào chú cũng đau đáu nghĩ tới nó, nhưng anh còn cả triệu việc khác phải xử lí và đôi lúc anh quên báo chú biết tiến độ.”
“Không sao đâu, Stan. Em biết anh rất bận.”
“Đúng thế. Nhưng chuyện bản kháng cáo của chú khá trôi chảy. Anh đã đưa cuốn băng anh từng kể với chú với một chuyên gia, và ông ấy đồng ý làm chứng rằng người trong hình là chú. Anh đã nhờ một phòng thí nghiệm phóng to bức hình tĩnh rõ ràng nhất, và độ phân giải sắc nét lắm. Người của anh đã so sánh nó với hình chú chụp cho lần tuyển vai cuối cùng. Nhớ hình ấy chứ?”
“Em nhớ. Gã thợ ảnh kiếm của em cũng kha khá. Mà cụ thể anh dùng bức nào thế?”
“Anh không nhớ nhiều đến mức đó đâu, Mikey. Hình như chú mặc áo sơ mi xanh da trời thì phải. Mà nói chung là chuyên gia của anh không nghi ngờ gì chuyện người trong hai bức ảnh là một. Và thẩm phán chắc cũng sẽ nghĩ như thế thôi. Nghe thế nào?”
“Tuyệt, Stan.” Michael nhíu mày. Anh nhớ rõ những bức hình đó, và không có tấm nào anh mặc áo sơ mi xanh. Thôi kệ. Stan chẳng bao giờ để ý nhiều tới màu sắc. “Vậy chắc anh sẽ sớm đệ đơn kháng cáo cho em, nhỉ?”
“Ừ. Nếu họ lên lịch ngay, và anh sẽ thúc đẩy tiến độ, có lẽ vào cuối tháng là được thôi. Vậy giờ chú nghĩ gì về ông anh trai này đây, Mikey?”
“Em nghĩ bố mẹ nhầm rồi. Họ nên đặt tên anh là Clarence Darrow [37] Gerhardt mới phải.” Mike đợi nghe tiếng cười của Stan. “Thật tuyệt vời, Stan. Hôm nay đã là hai mươi ba rồi, vậy chắc cuối tuần này em sẽ được trắng án!”
“Bình tĩnh đã, Mike. Anh bảo nó được lên lịch xem xét vào cuối tháng. Nhưng rất có thể nó sẽ bị hoãn lại. Lúc nào chẳng có chuyện như thế xảy ra. Nhưng cùng lắm cũng chỉ mất ba hay bốn tuần thôi. Chú kiên nhẫn đợi được tới lúc đó chứ, Mikey?”
“Tất nhiên rồi, Stan. Em là bệnh nhân [38] bao nhiêu năm nay rồi cơ mà. Chính xác là bệnh nhân một năm sáu ba.”
“Là sao cơ, Mike?”
“Em đùa ấy mà, Stan. Một năm sáu ba là mã bệnh nhân của em ở Oakdale.”
“Ừ, hài quá, Mike. Chú ổn thật chứ?”
Michael thở dài. Anh phải nhớ không đùa cợt gì thêm với Stan mới được. Ông anh của anh không bao giờ có nổi tí ti óc hài hước.
“Em ổn, Stan. Đừng lo cho em. Và cảm ơn đã cố hết sức minh oan cho em nhé.”
“Có gì đâu, Mikey. Vụ của chú là ưu tiên hàng đầu của anh. Nhưng anh hơi lo cho chú. Chú nghe có vẻ mệt. Có lẽ chú nên uống hai viên aspirin và nghỉ ngơi chút đi. Chắc chú hoảng hốt lắm sau khi nghe tin Sanchez, rồi bản kháng cáo, và đủ thứ.”
“Em không mệt tới mức đó đâu, Stan, nhưng có lẽ sắp rồi. Anh có định gọi cho em lúc chín giờ tối không đấy?”
“Như thường lệ. Được rồi, Mikey. Chú ngủ đi, và anh sẽ nói chuyện với chú sau nhé?”
Họ tạm biệt và Michael cúp máy. Tính ra anh đã ngủ được hai tiếng rồi mới lấy xe Toni đi mất, sau đó trở lại giường ngủ thêm sáu giờ nữa. Người ta ngày ngủ tám tiếng là đủ rồi. Anh thấy thư thái nhất từ trước tới nay, và anh chắc chắn giọng không hề uể oải chút nào. Stan không chỉ hoang tưởng, mà còn hay lo nữa.
Michael bật máy tính và ngồi xuống. Anh thật sự không nên quá xét nét anh mình. Stan cũng có những thiếu sót, nhưng anh ấy là một luật sư có tài. Và anh ấy đã hứa sẽ cảnh báo các bồi thẩm còn lại. Michael chỉ mong lời cảnh báo của Stan có hiệu quả hơn lời cảnh báo của anh với Jose Sanchez.
Toni vừa làm xong tính toán phần trăm số nữ giới giữ vị trí quản lý trong một khu vực được định trước, và chèn số liệu vào bảng. Cô đã làm được kha khá với dự án nghiên cứu chiều nay. Giờ cô chỉ cần kiểm tên vài thống kê khác, vẽ biểu đồ và in tất cả ra. Trong lúc lưu dữ liệu, cô nhận ra kênh radio cô chọn trong phòng làm việc đang phát tin thời sự. Vì khó mà tập trung vào số má khi có giọng nói bên tai, nên cô đứng dậy định lấy một đĩa CD cô thích nghe.
Cô lắng nghe bản tin trong lúc rút đĩa Four Seasons của Vivaldi ra khỏi ngăn kéo và nhét vào ổ đĩa. Lại rắc rối ở Lebanon. Và Iran. Và El Salvador. Một đường dây buôn ma túy bị khui ra ở Los Angeles, rồi một tiệm trang sức lớn tại đại lộ Ventura bị trộm viếng thăm. Thành phố này đúng là cái gì cũng có. Một vụ án mạng nữa, tất nhiên rồi. Nơi này nhan nhản những tay sát nhân, lũ gạ gẫm trẻ con, trộm ôtô, và phường cướp đường cướp chợ. Tin tức nghe mà não cả ruột, chính vì thế mà cô chẳng mấy khi nghe.
Gì vậy? Toni vặn to âm lượng, nhưng cô chỉ nghe được đoạn cuối bản tin. Có anh Sanchez nào đấy bị giết tối qua. Tên nghe quen quen. Cô từng nghe ở đâu rồi nhỉ?
Toni bật đĩa CD và thở dài nhẹ nhõm khi bản Mùa đông của Vivaldi vang lên. Hay đó là Mùa hè nhỉ? Cô chẳng bao giờ phân biệt được giai điệu bốn bản nhạc này trừ khi đọc thông tin trên vỏ đĩa. Sao tên nạn nhân quen thế nhỉ? Sanchez. Không phải đó là cái tên Mike nhờ cô tìm trong ngân hàng dữ liệu sao? Tất nhiên, có rất nhiều người tên Sanchez. Cô biết vậy nhờ số lượng kết quả cô tìm thấy trong ngân hàng. Và kể cả nếu nạn nhân là Jose Sanchez đi nữa, đó vẫn có thể là một trong một trăm anh trùng tên sống trong vùng này. Nếu lúc gặp lại Michael mà cô còn nhớ được, cô sẽ hỏi anh.
Giờ khi nhạc của Vivaldi đang vang lên và Toni có thể tiếp tục tập trung làm việc, cô lại không muốn quay về với các dự án nữa. Có lẽ cô cần nghỉ giải lao. Cô tới tủ lạnh để lấy cho mình một cốc trà đá, nhưng cũng chẳng giúp được cô.
Chứng mộng du của Mike khiến cô phiền lòng. Cô đã cố tỏ vẻ chẳng để tâm, nhưng đó cũng chỉ vì Mike thôi. Cô có thể làm gì để giúp anh không?
Nghĩ đến đó, Toni thử kết nối với ngân hàng điện toán tiểu bang Ohio. Cô biết mình đang chõ mũi vào đời tư của Mike, nhưng có lẽ cô sẽ phát hiện ra gì đó trong quá khứ của anh đã gây ra chứng mộng du. Rồi họ có thể cùng nhau đối mặt và giải quyết nó. Tất nhiên, cô không nhận được ủy nhiệm thư nào cho loại công việc này, nhưng cô có nghe về một nghiên cứu của một trường đại học uy tín rằng những nhân viên quán rượu và thợ cắt tóc hóa ra lại có tỉ lệ giúp người ta giải quyết những vấn đề của mình hơn cả các bác sĩ chuyên khoa có chuyên môn.
Toni ngồi ngả ra ghế và đợi kết nối. Hình như dạo này ai ai cũng dùng máy tính cả. Cô may mắn vì có thói quen vô thức ghi nhớ các con số. Cô có thể đọc vanh vách số thẻ cảnh sát cũ của Harry và số thẻ của thanh tra thang máy, dù cô chẳng có lí do gì để ghi nhớ chúng. Khả năng ghi nhớ số của cô thường là một tài năng vô dụng, nhưng đây là lần đầu tiên nó hữu ích.
Đêm qua, khi mở ví của Mike, cô đã nhớ luôn số bằng lái và số an sinh xã hội của anh. Chỉ cần nhập những mã số đó vào hệ thống điện toán của tiểu bang Ohio, cô có thể tìm hiểu nhiều hơn về đời tư của Mike Kruger mà chẳng cần hỏi anh.
Cuối cùng kết nối cũng thông. Nếu biết cách thì truy cập hồ sơ DMV cũng đơn giản thôi. Cô gõ tên Mike và số bằng lái rồi đợi chương trình tìm kiếm hoạt động. Lát sau, một thông báo xuất hiện trên màn hình. KHÔNG TÌM THẤY. THỬ LẠI? Cô gõ lại, nhưng thông báo vẫn thế. Được thôi.
Hồ sơ DMV của ngân hàng điện toán bang Ohio rõ ràng có vấn đề rồi. Cô chỉ gõ tên thôi vậy. Chí ít cô cũng biết cái tên là đúng. Cô gõ KRUGER, MICHAEL S., đúng như trên bằng lái và đợi. Sau một lát, thông báo cũ lại hiện lên. KHÔNG TÌM THẤY. THỬ LẠI?
Toni thở dài. Được thôi. Cô sẽ thử cách khác. Có lẽ có lỗi do gõ chữ và cái tên bị nhập sai vào ngân hàng dữ liệu. Chuyện đó cũng thường xảy ra, đôi lúc gây ra những hậu quả nghiêm trọng nếu nhập thông tin tín dụng bị sai. Cô đánh số và chờ đợi. Vẫn có cách để tránh lỗi kĩ thuật nếu bạn biết mình đang làm gì.
A ha! Được rồi! Toni nhoài tới khi cái tên xuất hiện trên màn hình. Mã số bằng lái được cấp cho Harriet B. Mathews ở Akron, Ohio.
Toni nhíu mày khi ấn nút in thông tin Harriet Mathews. Cô nhớ trong đầu rằng sẽ gọi cho DMV Ohio để bảo họ rằng nên tìm người rà lại lỗi hệ thống đi. Cô thử số an sinh xã hội của Michael và mong Chính phủ liên bang sẽ nhập thông tin cẩn thận hơn.
Khó truy nhập trái phép vào ngân hàng an sinh xã hội hơn, nhưng Toni biết cách. Hồ sơ của họ thuộc hàng tuyệt mật, nhưng không được bảo vệ nghiêm ngặt như một vài ngân hàng khác. Cô gõ tên Mike và số rồi đợi.
Phải mất một lúc. Phải tìm kiếm thêm nhiều thư mục hơn mà. Với luật lệ IRS mới, hầu hết cha mẹ đều xin số an sinh xã hội cho con mình sớm sau khi chúng ra đời. Cuối cùng, sau khoảng thời gian tưởng chừng như vài giờ mà có lẽ chẳng hơn một phút, một thông báo hiện lên trên màn hình.
THƯ MỤC KHÔNG PHÙ HỢP. CHỈ NHẬP THAM SỐ ĐẦU. Toni gõ tên Mike mà không gõ số. Đợi một lúc lâu nữa, và một danh sách xuất hiện. Có hơn bốn mươi thư mục tên Michael Kruger, và ở khắp nước Mỹ. Cô in ra và xem xét cẩn thận. Không một ngày sinh nào gần với ngày sinh của anh. Nếu cô không thể tìm ra cái gì với tham số đầu tiên, vậy cô thử cái thứ hai thôi.
Cô rất cẩn thận khi nhập chín chữ số an sinh xã hội trên thẻ của Mike. Tìm kiếm bắt đầu, và cuối cùng thông tin cho số đó đã xuất hiện trên màn hình. Toni xem xét mà nhíu mày, rồi in ra. Số an sinh xã hội của Mike thuộc về Harriet B. Mathews.
“Ôi, mẹ ơi!” Toni tắt máy và đọc thông tin in ra. Theo như DMV Ohio, cô Mathews ba mươi chín tuổi. Giờ nghĩ lại, cô thấy Mike cũng chừng đó. Và Harriet độc thân, tóc nâu mắt nâu. Cô ta đô con, cao sáu foot mốt, và nặng một trăm sáu chục pound, theo như thông tin trên bằng lái. Toni nghĩ có khi cô ta phải nặng hơn. Hầu hết phụ nữ đều khai man cân nặng trên giấy phép lái xe mà. Harriet Mathews đã nhận hai vé phạt đỗ xe vào năm ngoái, một ở Cleveland và trả ngay. Cô ta không có tiền án tiền sự. Vậy là tốt.
Toni nhún vai và chuyển sang chú ý tới bản in an sinh xã hội. Cô Mathews này đã làm việc ngay khi tốt nghiệp trung học. Cô ta không kiếm đủ để đạt điều kiện nhận những ích lợi an sinh xã hội trong năm năm đầu tiên. Vì hồi đó cô ta kiếm được chẳng bao nhiêu, nên chắc cô ta vừa học vừa làm đây.
Có rất nhiều thông tin về cô Mathews, và Toni đọc qua một lượt. Và cô nhận ra vài điều thú vị. Cô ta trả một lần khoảng hơn mười hai phần trăm tổng thu nhập cô ta đăng kí. Chắc cô ta có đi làm, vì hầu hết mọi người sẽ trả khoảng chừng một nửa và ông chủ trả nửa còn lại. Đây là một điểm chung giữa Harriet B. Mathews và Mike. Điểm khác nhau duy nhất giữa họ có vẻ chỉ là giới tính.
“Ôi Chúa ơi!” Toni há hốc miệng khi một suy nghĩ kinh khủng nảy ra trong đầu cô. Có phải Mike đã chuyển đổi giới tính không? Cô đã từng gặp đàn ông chuyển giới thành đàn bà, nhưng chưa từng nghĩ người ta có thể biến đàn bà thành đàn ông. Tất nhiên, với những phép màu của y học hiện đại, ai mà biết người ta có thể cấy ghép những gì.
“Không thể nào!” Toni nói thành tiếng. Không thể. Cô đã ngủ cùng Mike, thấy từng li từng tấc cơ thể anh, và không thể nào có chuyện người anh có chất tổng hợp cấy ghép gì hết!
Toni nghĩ đi nghĩ lại và chỉ có một kết luật hợp lý. Mike dùng nhân thân giả, và cả hai số kia đều thuộc về một người phụ nữ ở Ohio có rất nhiều điểm chung với anh. Đấy là chị gái của anh chăng? Harriet B. Mathews độc thân, vậy có lẽ vẫn dùng họ của mình, không hề có thay đổi gì do li dị hay kết hôn. Cô thử tìm tên Michael Mathews xem khai thác được gì không.
Ba mươi phút sau, Toni bỏ cuộc. Cô kết luận rằng Michael Mathews không tồn tại trong bất cứ ngân hàng nào cô có thể truy cập. Kruger rõ ràng là tên giả, nhưng vì lí gì mà Mike sử dụng nhân thân giả chứ? Anh phải chạy trốn người thân họ hàng ư? Anh gặp rắc rối với lũ du thủ du thực? Hay với luật pháp?
Toni sử dụng số Harry cho, và truy cập ngân hàng cảnh sát. Không có thông tin về Michael S. Krguer hay Michael Mathews. Harry đã bảo rằng tên trong ngân hàng dữ liệu này được đối chiếu chéo với những biệt danh được biết, vậy có nghĩa là cô đi vào ngõ cụt rồi. Vì lí do gì đó, Mike đang che giấu quá khứ, và cô không thể truy ra nguyên nhân nếu không biết tên thật của anh. Cô đoán có thể anh là nhân chứng của liên bang và FBI đã thay đổi nhân thân của anh. Nhưng họ chắc chắn sẽ không dùng các mã số thuộc về một người khác khi mà họ có thể cấp cho anh những mã số mới toanh và nhập ngay vào các ngân hàng dữ liệu hợp lí.
Cô nên làm gì? Cô không muốn chất vấn Mike về những cái mình vừa tìm hiểu được. Anh đã nói với cô về chứng mộng du và về dì Alice. Đó là lần đầu tiên anh thú thật với cô, và nếu cô thừa nhận đang chọc ngoáy vào quá khứ của anh, anh sẽ không bao giờ tin cô nữa. Hẳn phải có một lí do tốt cho việc Mike giấu thân phận thật sự của mình, và cô phải đợi tới khi anh tin cô đủ để nói ra tất cả.
Toni thở dài. Cô biết sẽ thế nào khi phải thú thực với người khác về quá khứ của mình. Cô đã lên dây cót tinh thần để thử một lần, nhưng người kia đã hoảng hốt và rời bỏ cô. Và mối quan hệ giữa họ không bao giờ được như cũ. Toni đã học được bài học đau thương rồi. Có những điều tốt hơn hết nên giữ lại cho riêng ta. Mike chắc cũng từng nhận đòn đau đó. Khi cả hai đều thấy tin tưởng để hoàn toàn thực lòng với nhau không phải rất tuyệt vời sao?
* * *