Chiếc Rìu - Chương 17
17
Cậu quay trở lại lán và nhìn đống đổ nát. Cậu có rất nhiều việc cần làm, dựng lại lán và nhóm lại lửa, tìm thức ăn hoặc sẵn sàng cho việc đi tìm thức ăn, làm vũ khí - và cậu phải làm việc thật chậm rãi bởi xương sườn vẫn rất đau.
Việc gì cần làm trước thì làm trước. Cậu cố gắng tìm những cành cây nhỏ và ngọn cỏ khô, sau đó cậu lột vỏ cây bulô gần đó và cắt vụn ra tạo thành một cái tổ bắt lửa. Cậu làm từ từ nhưng kể cả như vậy, với kỹ năng mới của mình, cậu chỉ mất chưa đầy một giờ đồng hồ đã nhóm được lửa. Ngọn lửa xua tan buổi sáng ẩm ướt lạnh lẽo, lửa kêu tanh tách và hơn thế nữa, còn cổ vũ tinh thần cậu, đấy là chưa kể nó còn giúp đuổi lũ muỗi dai dẳng nữa. Có lửa rồi, cậu đi tìm củi khô - cơn mưa đã trút nước lên gần như toàn bộ cành củi mà cậu có thể tìm thấy - rồi cuối cùng cậu cũng tìm được một ít củi trong đám cây thường xanh rậm rạp, nơi những cành bên trên đã che cho những cành đã chết phía dưới, giữ chúng không bị ướt.
Cậu đã rất vất vả để đến những cành cây đó, dùng cánh tay hay cơ ngực cậu để kéo chúng thật không dễ dàng gì, nhưng cuối cùng cậu cũng có thể kiếm đủ củi đốt cho cả ngày lẫn đêm. Với từng đó cậu có thể nghỉ một chút, thư giãn lồng ngực, và sau đó sẽ sửa sang căn lán đâu ra đó.
Phần lớn mảnh gỗ ghép vách lán cũ vẫn nằm rải rác gần đó và phía trên đằng sau dãy đá cậu tìm thấy một mảnh liếp lớn vẫn còn nguyên vẹn. Gió đã xé nó ra, thổi tung rồi ném nó lên trên đỉnh dãy đá và Brian một lần nữa cảm thấy thật may mắn khi cậu đã không bị chết hay bị thương nặng hơn - hai điều này chẳng khác gì nhau, cậu nghĩ. Nếu không thể đi săn cậu sẽ chết mà nếu bị thương nặng thì cậu sẽ không thể đi săn.
Cậu đẩy và kéo gỗ cho tới khi vách lán một lần nữa được dựng lên - vẫn còn thô sơ, nhưng cậu có thể cải thiện nó sau. Cậu không gặp khó khăn nào khi đi tìm những cành thông để làm một tấm phản mới. Cơn bão đã oanh tạc khu rừng tơi tả - phía sau dãy đá, trông như đã có một tên khổng lồ nổi cơn giận dữ và dùng một loại máy xay khổng lồ để nghiền nát cây cối. Những cây thông lớn bị xoáy gãy và bị thổi dạt sang một bên. Mặt đất vô cùng ngổn ngang với cành và ngọn cây lấp đầy mọi lối đi, rất khó bước qua. Cậu lôi về số cành to đủ để làm phản, xanh và dậy mùi nhựa của cành cây mới gãy, đến tối thì cậu đã kiệt sức, đói, và đau đớn, nhưng cậu lại đã có thứ gì đó gần như là một nơi cậu có thể sống, một nơi để sống.
Ngày mai, cậu nghĩ khi nằm trong bóng đêm. Ngày mai có thể cá sẽ quay về và cậu phải làm cái xiên và cung mới rồi kiếm thức ăn. Ngày mai cậu sẽ tìm thức ăn và sửa lại lán và làm cho mọi thứ trở lại trật tự từ cái ngày hoàn toàn điên rồ ấy.
Cậu quay mặt về phía ngọn lửa. Co người, cậu kê đầu lên tay, và bắt đầu ngủ với một bức tranh hiện lên trong đầu. Cái đuôi của chiếc máy bay nổi trên mặt nước. Nó ở đó, cái đuôi nổi trên mặt nước. Và bên trong máy bay, đâu đó ở gần cái đuôi, là túi cứu sinh. Nó hẳn vẫn còn ở đó khi vụ va chạm xảy ra vì phần thân chính của máy bay vẫn còn nguyên. Đó chính là bức tranh - đuôi máy bay nổi trên mặt nước và túi cứu sinh ở bên trong - vẫn ở ngay kia trong tâm trí cậu khi cậu thiếp đi. Mắt cậu nhay nháy. Nếu mình có thể lấy được cái túi đó, cậu nghĩ. Ôi, nếu mình có thể lấy được cái túi đó. Trong đó có thể có thức ăn, dao và diêm nữa. Trong đó cũng có thể có túi ngủ. Có thể có đồ câu cá. Ôi, trong đó hẳn sẽ có rất nhiều thứ kỳ diệu - giá mà mình có thể lấy được cái túi để lấy một vài thứ trong số đó. Mình sẽ giàu có. Sẽ rất giàu có nếu mình lấy được cái túi.
Ngày mai. Cậu nhìn vào đống lửa và mỉm cười. Ngày mai mình sẽ thấy. Tất cả sẽ đến vào ngày mai.
Cậu ngủ, chìm sâu với một hình ảnh duy nhất trong tâm trí là chiếc đuôi máy bay nổi trên mặt nước. Một giấc ngủ hồi sức.
Vào sáng hôm sau cậu bò ra ngoài khi trời còn chưa sáng hẳn. Trong màu xám bình minh cậu vun lại đống lửa và tìm thêm củi cho cả ngày, thấy hoạt bát hơn hẳn vì xương sườn của cậu đã khá hơn rất nhiều. Khi mọi thứ trong lán xong xuôi cậu nhìn ra phía hồ. Một phần trong cậu lo lắng hoài nghi là cái đuôi máy bay sẽ biến mất, chìm xuống dưới sâu, nhưng rồi cậu vẫn nhìn thấy nó ở đó, dường như không hề di chuyển một chút nào.
Cậu nhìn xuống chân và thấy trong ao của cậu một vài con cá đang tìm kiếm những mẩu mồi còn sót lại từ trước khi cơn lốc tới. Cậu kiềm chế sự nôn nóng tiếp tục theo đuổi những gì liên quan đến chiếc máy bay và nhớ lại cảm giác, nhớ lại những gì cậu đã học được. Thức ăn trước đã, vì có ăn thì mới có sức mà làm việc; thức ăn là đầu tiên, sau đó là suy nghĩ, rồi mới tới hành động. Ở đây có cá ở trong tầm tay, trong khi có thể cậu sẽ không lấy được gì từ chiếc máy bay. Tất cả chỉ là một giấc mơ.
Cá mới là thực và cái dạ dày của cậu, kể cả cái dạ dày mới teo tóp này, như đang truyền đi tín hiệu rằng nó hoàn toàn trống rỗng.
Cậu làm một cái xiên với hai đầu nhọn, không gọt bỏ đi phần vỏ cây ở cán cầm, chỉ gọt ở phần đầu nhọn. Cậu mất khoảng một giờ đồng hồ và trong toàn bộ thời gian ấy cậu cứ ngồi nhìn phần đuôi của chiếc máy bay chổng lên trời, tay làm cái xiên, còn tâm trí thì lại đang nghĩ cách giải quyết vấn đề chiếc máy bay.
Khi cái xiên được làm xong, mặc dù còn thô sơ, cậu kẹp một cái nêm vào giữa để tách rời hai đầu nhọn và đi ra hồ cá. Không còn những đàn cá, nhưng ít ra vẫn có mười con, và cậu chọn một trong những con to hơn, một con cá mình tròn, dài khoảng mười lăm phân, và để đầu xiên xuống nước, giữ cái xiên, sau đó đâm xuống với một cảm giác giật nhẹ trên cổ tay khi con cá đi qua điểm ngắm.
Con cá được móc lại gọn gàng rồi cậu bắt thêm hai con cũng dễ dàng không kém, sau đó mang cả ba con lại chỗ đống lửa. Lúc này cậu đã có một tấm ván nướng cá - một mảnh gỗ mà cậu đã dùng chiếc rìu đẽo phẳng - nghiêng về phía lửa để nướng chín cá, như vậy cậu sẽ không phải liên tục giữ que nướng nữa. Cậu đặt ba con cá lên tấm ván, dùng những cái móc nhọn móc đuôi chúng vào những khe nứt của tấm ván, rồi cậu đặt tấm ván gần phía phần than đỏ nhất. Trong chốc lát, cá nướng xì xèo trên ngọn lửa nóng và ngay khi chúng chín, hoặc khi cậu không còn kiềm chế nổi trước mùi cá nướng thơm phức, cậu nhón những miếng thịt bốc khói dưới lớp da đã tróc và ăn.
Cá không giúp cậu no bụng, thậm chí gần no cũng không, thịt cá quá thanh đạm để làm được điều đó. Nhưng nó mang lại cho cậu sức mạnh - cậu có thể cảm nhận sức mạnh đang chạy trong cánh tay và đôi chân của cậu - và cậu bắt tay vào công việc với chiếc máy bay.
Trong khi làm cái xiên cá cậu đã quyết định rằng cậu sẽ phải làm một cái bè và chèo bè ra chỗ máy bay, buộc cái bè ở đó để lấy chỗ làm việc. Bằng cách nào đó cậu sẽ phải vào phía trong đuôi máy bay, vào bên trong máy bay - xẻ hay cắt để lấy lối vào - và dù thực hiện điều đó bằng cách nào đi nữa thì cậu vẫn cần một chỗ làm việc. Cái bè.
Cậu buồn rầu phát hiện ra việc này nói dễ hơn làm rất nhiều. Có vô số thân cây gỗ xung quanh. Bờ hồ đầy gỗ trôi dạt, cả cũ lẫn mới, bị cơn lốc làm văng ra khắp nơi. Vì vậy rất đơn giản để tìm bốn khúc có chiều dài bằng nhau và xếp chúng lại.
Gắn chúng lại với nhau mới là vấn đề. Không có dây hay nẹp và đinh, những khúc gỗ cứ lăn tròn và rời nhau. Cậu thử chèn chúng lại với nhau, xếp miếng nọ lên trên miếng kia đan xen như nong mốt - nhưng tất cả đều vô ích. Và cậu cần một chỗ nền ổn định để làm việc. Việc này đã dần trở nên khó chịu và có lúc cậu đã nổi cáu - như cậu đã từng nổi cáu trước kia, khi cậu là con người khác.
Lúc đó cậu ngồi lại phía trên bờ và nghiên cứu rắc rối này lần nữa. Trí óc, cậu phải sử dụng trí óc của mình. Chỉ cần có nó là có thể giải quyết những rắc rối - trí óc.
Đây rồi. Những khúc gỗ cậu dùng đều trơn và tròn, không có cành nhánh. Thứ cậu cần là những khúc gỗ có cành chìa ra, như vậy cậu có thể móc cành của khúc này với cành của khúc kia và “dệt” chúng với nhau giống như cậu đã làm với vách lán, cái đậy giá thức ăn và cả cổng ao cá nữa. Quan sát xung quanh bờ, cậu tìm thấy bốn ngọn cây khô đã bị cơn bão quật gãy. Chúng có cành và cậu kéo chúng xuống nơi cậu làm bè sát gần mép nước để gắn chúng lại với nhau.
Mất cả một ngày. Những cái cành mọc thành cụm và mắc với nhau lộn xộn nên cậu phải cắt bỏ cành này để cành khác đan được vào chỗ ấy, sau đó lại cắt cành của khúc gỗ khác để ghép vào khúc thứ nhất, rồi cả cành khác ở khúc thứ ba cũng cần phải ghép vào.
Nhưng cuối cùng vào lúc chiều tà, cậu cũng đã làm xong và cái bè - cậu đặt tên nó là Bó Cây Một theo vẻ dáng bề ngoài của nó - gắn chắc vào nhau ngay cả khi cậu kéo nó xuống nước ra xa bờ. Nó có thể nổi tốt khi hạ thủy, và trong sự phấn khích cậu bắt đầu đến chỗ máy bay. Cậu không thể đứng trên bè, nhưng cậu có thể bơi theo nó.
Cậu tiến ra chỗ nước sâu tới ngực và nhận ra rằng cậu không có cách nào để cố định cái bè cạnh chiếc máy bay cả. Cậu cần tìm cách buộc nó lại để cậu có thể đứng trên đó mà làm việc.
Trong giây lát cậu cảm thấy lúng túng. Cậu không có chiếc dây nào, chỉ có dây cung và chiếc dây khác đã cắt làm đôi của đôi giày tennis - trông đôi giày bây giờ thật thảm hại, ngón chân cậu hở ra cả ngoài mõm giày. Rồi cậu nhớ ra chiếc áo khoác gió và cậu tìm được miếng vải rách mà cậu đã dùng làm túi đựng mũi tên. Cậu xé nó ra thành nhiều mảnh nhỏ rồi nối lại với nhau để làm thành một sợi thừng hay dây chảo dài khoảng mét rưỡi. Nó không được chắc lắm, cậu không thể dùng nó để làm chàng Tarzan đu trên cây, nhưng nó có thể giữ cái bè sát máy bay.
Một lần nữa cậu đẩy cái bè ra xa bờ đến chỗ nước sâu ngang ngực. Cậu để đôi giày tennis lại trong lán và khi cậu cảm thấy dưới những kẽ chân mình cát đã chuyển sang bùn thì cậu rướn người lên và bắt đầu bơi.
Đẩy cái bè đi, cậu phỏng đoán, cũng khá giống như là đang cố đẩy một cái tàu sân bay. Tất cả những cành cây chìm dưới nước cứ ì ra còn bản thân các thân gỗ lại đẩy lùi mọi động lực tiến lên phía trước khiến cho chưa đi được chục mét cậu đã nhận ra rằng đưa cái bè tới chỗ máy bay là việc khó hơn nhiều so với cậu nghĩ ban đầu. Nó hầu như không di chuyển và nếu cứ tiếp tục theo cách này thì đến lúc trời tối cậu mới có thể tới chỗ máy bay. Cậu quyết định quay lại một lần nữa, nghỉ qua đêm và bắt đầu lại vào sáng sớm hôm sau, thế là cậu kéo cái bè trở lại trên cát và dùng tay lau khô.
Kiên nhẫn. Giờ đây cậu đã tốt hơn ở khoản này nhưng sự mất kiên trì vẫn còn gặm nhấm cậu chút ít do vậy cậu ngồi xuống bên bờ ao cá với cái xiên mới và bắt thêm ba con cá đem đi nướng ăn, chỗ cá đó có thể cứu đói trong khoảng thời gian từ giờ cho tới khi trời tối. Cậu cũng kéo vào thêm ít củi nữa - củi không bao giờ là đủ - rồi ngồi nghỉ, ngắm nhìn mặt trời lặn qua tán cây đằng sau dãy đá. Phía Tây, cậu nghĩ. Mình đang ngắm mặt trời lặn ở phía Tây. Và đằng kia là phương Bắc nơi cha cậu ở đó, đằng kia là hướng Đông, còn đằng kia là hướng Nam - và đâu đó ở giữa phía Nam và phía Đông là nơi mẹ cậu sống. Trên ti vi chắc đang phát bản tin. Cậu có thể mường tượng những việc mà mẹ cậu đang làm dễ hơn là cha cậu bởi vì cậu chưa bao giờ đặt chân tới nơi cha cậu sống hiện nay. Cậu biết mọi thứ xung quanh cuộc sống của mẹ. Bà có một chiếc ti vi nhỏ trên kệ bếp và hẳn lúc này bà đang theo dõi tin tức và bàn luận về những điều khủng khiếp ở Nam Phi hay về chuyện em bé ở khu thương mại trông dễ thương như thế nào. Tiếng nói, âm thanh của hoạt động, âm thanh của bếp núc.
Cậu đảo suy nghĩ của mình về lại hồ nước. Nơi đây phong cảnh quả là tuyệt đẹp - đẹp đến mức gần như không thể tin nổi. Mặt trời đỏ rực trên bầu trời, thổi lên đó những màu sắc sặc sỡ, và những sắc màu đó chiếu xuống mặt nước, rơi rắc trên cây cối. Một vẻ đẹp kỳ diệu mà cậu ước mình có thể chiêm ngưỡng cùng với ai đó và nói, “Nhìn kia kìa, và đằng kia nữa, thấy không...”
Nhưng thậm chí ngay cả khi ở một mình cảnh vật vẫn rất đẹp và cậu nhóm lửa lên để xua tan giá lạnh ban đêm. Nó lại đến rồi, cậu nghĩ, cái lạnh của ngày hè muộn trong không gian, hương vị của mùa thu. Cậu đi ngủ khi vẫn còn mãi nghĩ về một câu hỏi lật ngược vấn đề. Cậu không biết liệu cậu có thể thoát ra khỏi chuyện này, không thể biết rồi đây sẽ ra sao, nhưng nếu bằng cách nào đó về được nhà và quay lại sống theo cách cậu đã từng sống, cậu có cảm thấy ngược lại? Liệu cậu có ngồi đó xem ti vi rồi đột nhiên nghĩ về hoàng hôn phía sau dãy đá và tự hỏi những sắc màu đó trông thế nào khi phản chiếu xuống hồ?
Ngủ.
Sáng hôm sau, không khí lạnh đã rõ hơn và cậu có thể nhìn thấy những làn khói mỏng thoát ra từ hơi thở của mình. Cậu ném củi vào đống lửa và thổi cho lửa bùng lên, sau đó chất thêm củi vào để duy trì và đi xuống hồ nước. Có lẽ vì không khí quá lạnh nên khi xuống nước cậu cảm thấy nước ấm hơn. Cậu kiểm tra lại để biết chiếc rìu vẫn giắt ở thắt lưng và cái bè vẫn được gắn liền, rồi đẩy cái bè đi và quẫy người bơi về phía đuôi máy bay.
Như lần trước, rất khó để di chuyển. Có lần gặp cơn gió bấc thổi ngược chiều, cậu dường như đứng im tại chỗ, và khi cậu đã đến gần được chỗ đuôi máy bay tới mức nhìn thấy được những cái đinh tán trong lớp vỏ nhôm, cậu vẫn còn phải đẩy và quẫy mình hơn hai tiếng đồng hồ nữa, gần như kiệt sức và thầm ước giá mà mình đã dành thời gian bắt một hay hai con cá cho bữa sáng. Da cậu nhăn lại như một quả mận khô và cậu phải nghỉ.
Đuôi máy bay nhìn gần trông lớn hơn nhiều, một bộ phận chính của bộ thăng bằng dựng thẳng đứng ở đuôi và có lẽ cả nửa cái bánh lái độ cao nữa lộ ra trên mặt nước. Chỉ một phần ngắn phía trên của thân máy bay, phần thân về phía đuôi, nổi trên mặt nước, chỉ là cái vành nhôm, và thoạt tiên cậu không thấy chỗ nào để buộc bè lại cả. Nhưng cậu đẩy người dọc theo bánh lái độ cao về phía cuối máy bay thì thấy ở đó có một khe hở sát bản lề, nơi cậu có thể luồn dây buộc qua.
Khi đã cố định được bè, cậu trèo lên phía trên và đặt lưng xuống trong khoảng mười lăm phút, thư giãn và để mặt trời sưởi ấm cậu. Công việc này, cậu nghĩ, có vẻ bất khả thi. Để có được bất kỳ cơ hội thành công nào cậu sẽ phải thật mạnh mẽ khi bắt tay vào thực hiện.
Bằng cách nào đó cậu phải vào được bên trong máy bay. Tất cả cửa, kể cả cửa khoang chứa hàng nhỏ ở đằng sau, đều chìm dưới nước vì vậy cậu không thể không lặn xuống để vào trong máy bay.
Trong đó cậu có thể bị mắc kẹt.
Cậu rùng mình với ý nghĩ đó, và rồi cậu nhớ ra thứ ở phía trước máy bay, đang chìm sâu dưới lòng hồ, vẫn bị mắc kẹt ở ghế ngồi, cái xác của viên phi công. Ngồi đó dưới nước - Brian có thể nhìn thấy ông ta, một người đàn ông cao lớn với mái tóc bập bềnh theo sóng nước, mắt ông ta vẫn đang mở...
Dừng lại, cậu nghĩ. Dừng lại ngay. Dừng ngay cái ý nghĩ đó lại. Cậu suýt chút nữa đã bơi trở lại bờ và quên đi tất cả mọi thứ. Nhưng hình ảnh của cái túi cứu sinh đã níu cậu lại. Nếu cậu có thể lấy được nó ra khỏi máy bay, hoặc cậu có thể với tới nó và lấy một số thứ. Một thanh kẹo.
Dù chỉ có vậy - chỉ một thanh kẹo. Cũng là đáng giá lắm rồi.
Nhưng làm cách nào cậu có thể vào trong chiếc máy bay đây?
Cậu lăn xuống khỏi cái bè và bơi quanh chiếc máy bay. Không có chỗ nào mở cả. Ba lần cậu đã ngụp xuống nước và mở mắt ra để nhìn xuống. Dưới nước tối om nhưng có lẽ cậu vẫn có thể nhìn sâu phía dưới được khoảng gần hai mét và thấy không có một lối nào để vào được trong chiếc máy bay đó. Cậu đã bị khóa bên ngoài.