Độc Huyền Cầm (Phần I) - Chương 02 - Phần 2
Một bàn tay nhỏ nhắn níu níu kéo kéo tay áo khiến nàng giật mình nhìn xuống, vờ cầm lấy khung thêu để che đậy sự suy tư của mình trước mặt con trẻ. Ngọc Dao cười hỏi:
- Hôm nay con chơi những gì, vui không?
Hạo nhảy lên cái ghế gỗ gần đó, đung đưa hai chân, đôi mắt nheo nheo lại bắt chước mấy vị nho sinh suy nghĩ, tay còn vờ vuốt vuốt cằm như thể vuốt râu.
- Con chơi đánh khăng, đánh đáo với tụi thằng Hợi, thằng Mão. – Cậu bé cười hì hì. – Chúng nó còn dạy con trèo cây lấy tổ chim nữa.
- Tổ chim? – Ngọc Dao ngẩng lên, hỏi lại. – Mấy đứa lấy tổ chim xuống làm gì?
- Chơi thôi ạ. Mấy cái trứng chim lốm đốm, bé xíu nhìn hay lắm í! – Hạo luyên thuyên một thôi một hồi, đôi mắt sáng lên khi nhớ lại lúc mình nằm ép bụng trên càng cây to cách mặt đất chừng hơn thước, đưa tay ra với với cái tổ con con. – Rồi chị Gái gọi con về ăn cơm. Thế thôi ạ!
Gài cây kim thêu lên mặt vải, người thiếu phụ xoay mình để có thể nhìn thẳng vào mặt cậu bé, ôn tồn hỏi:
- Thế cái tổ chim đó giờ ở đâu?
- Cái này… – Thằng bé đưa tay lên gãi cái đầu tóc để trái đào của mình, mắt như có ý né tránh ánh nhìn của mẹ một cách vụng về – … con… con…
- Làm sao? – Nàng nghiêm giọng.
- Con định cứ để đấy đi về nhưng anh Tuấn không cho. Anh ấy… nói nhiều lắm, nói cái gì gì ý, con cũng không hiểu. Chỉ nhớ anh ấy bảo trứng chim cũng như trẻ con, nếu giờ con đi mất, mẹ không tìm thấy thì sẽ rất lo lắng… Nên… anh ấy bảo đứa nào lấy tổ chim xuống thì trèo lên trả lại chỗ cũ.
Thằng bé cúi đầu, giọng nhỏ dần, bàn tay vân vê gấu áo. Xưa nay nó quen nghe người ta khen mình, cũng tự nghĩ bản thân lanh lợi thông minh, đây là lần đầu bị một đứa lớn hơn vài tuổi thuyết giáo nên không khỏi cảm thấy xấu hổ. Thằng bé tên Tuấn đó mới bắt đầu đi học đã có thể hiểu biết như thế, hôm nào còn chơi đánh trận giả với đám trẻ con, giờ đã lớn thật rồi. Ngọc Dao khẽ giả vờ ho để che đi nụ cười trên môi, cúi xuống ôn tồn:
- Con thấy điều anh Tuấn nói là đúng hay sai?
- Là đúng ạ! – Hạo ngẩng phắt đầu lên, mắt sáng rực như thể từ nãy đến giờ nó đã nghĩ ra một cái gì đó rất hay. – Mẹ, mẹ cho con đi học, con cũng muốn có thể nói hay như thế.
- Học chữ không phải chỉ để nói cho hay. – Nàng cười, xốc thằng bé đứng dậy, chỉnh lại chiếc áo ngoài cho nó. – Chuyện này lớn lên từ từ con sẽ hiểu. Muốn đi học cũng phải để mẹ thu xếp đã. Giờ ra ăn cơm đi.
- Mẹ cũng ra xơi cơm!
Thằng bé con ton ton chạy ra cửa, định trèo qua bậu cửa cao thì ngoái lại, híp mắt cười.
- Con với bà ngoại ăn trước đi. Mẹ còn đang dở việc.
Nàng đứng dậy ngay sau khi Hạo bước ra khỏi buồng, nhanh tay gói lại bọc quần áo đặt trên chiếc sập gỗ với một bên chân đã bị mọt, thỉnh thoảng lại kêu kèn kẹt nỉ non. Bên trong ấy là mấy chiếc áo gấm, áo lụa năm xưa Ngọc Dao từng mặc lúc còn trong cung, may mà ban nãy đứa tò mò như Hạo không để ý đến. Chỉ cần nhác trông thấy, chắc chắn nó sẽ đi theo hỏi nàng đến khi nào có được đáp án vừa lòng mới thôi. Lẫn giữa những lớp nhung y mịn màng là chiếc áo xô tang trắng tinh của Ngọc Dao và một chiếc áo khác nhỏ hơn của Hạo. Sau khi thằng bé chào đời chẳng bao lâu, cha nó đột ngột băng hà. Người vừa nằm xuống, sau ngày rằm năm ấy, ba họ nhà Hành khiển Nguyễn Trãi cũng bị trảm quyết vì tội mưu sát hoàng đế. Án tuyên: chủ mưu là Nguyễn Trãi. Ai cũng nói Thị Lộ là hung thủ giết vua. Những chuyện ấy Ngọc Dao chỉ được người ta kể cho nghe. Ở nơi thôn quê này, tin tức ấy truyền đến cũng gây ra những chấn động, những lời bàn ra tán vào xôn xao sau lũy tre làng. Nhưng với nàng, mọi chuyện chỉ như gió thoảng ngoài song. Màu áo tang trên người là để tiễn biệt phu quân, cũng là để tiễn biệt ân nhân. Ngọc Dao không thể ngờ cái đêm tại chùa Huy Văn ấy là lần gặp gỡ cuối cùng, không thể ngờ những lời mình đã hứa giờ chẳng thể nào thực hiện.
- Ơn của đại nhân và phu nhân không khác gì ơn sinh thành của cha mẹ. Chỉ cần mẹ con ta còn có thể sống trên đời, nhất định sẽ báo đáp công ơn này!
- Tiệp dư, xin người đứng dậy. Người làm thế này lão thần đâu dám nhận! – Nguyễn Trãi có chút bối rối trước hành động của nàng, vội quỳ xuống vái tạ.
- Chuyện của ta sợ rằng không phải chỉ là hậu phi tranh sủng. Nhỡ may lại phạm đến đại nhân… Quan trường hiểm ác, đại nhân, phu nhân xin hãy muôn phần cẩn trọng! – Nàng cố nói nốt những lời tâm can trước khi được Nguyễn Thị Lộ dìu đứng dậy, vội khuyên nàng nên nhanh nhanh chóng chóng dời đi An Bang trong đêm, tránh tai mắt của Nguyễn Thần phi được lúc nào hay lúc đó.
- Hoàng thượng tuy còn trẻ tuổi nhưng là bậc minh quân, chỉ là nhất thời không nhìn ra mưu chước đàn bà nhỏ mọn. Tiệp dư xin cứ an lòng. Phu thê tôi một khi đã chọn làm việc này, thực lòng không sợ gì hết. Giờ xin người đi ngay tránh để có biến, lúc đó e khó bảo toàn.
Nguyễn Trãi cười trấn an, đưa tay nâng tấm rèm rồi giục Ngọc Dao lên kiệu. Tấm vải màu hồng nhàn nhạt phủ xuống làm những hình ảnh trước mắt trở nên mờ ảo tựa như một giấc mơ hay là cơn ác mộng. Thật thật giả giả bện xoắn vào nhau làm lòng người tan tác như cánh hoa tàn trong cơn gió nghịch mùa.
Đời người hóa ra cũng tựa như một canh bạc, được – mất chỉ trong một khắc. Cái đúng, cái sai, trung thần hay nghịch tặc cũng chỉ đến thế mà thôi.
***
Đưa tay đắp lại chiếc chăn cho thằng bé, Ngọc Dao khẽ khàng vén màn, bước xuống giường. Nàng không dám thắp nến, sợ làm mẹ mình thức giấc. Từ lúc nàng về Đô Kỳ, chưa lúc nào bà có thể yên lòng ngủ một giấc không mộng mị. Mấy gian nhà không rộng, không hẹp nhưng có thể nghe thấy rõ tiếng trở mình thao thức, nghe rõ tiếng thở dài ai oán não ruột. Cánh cửa mở hé tạo thành một khe sáng hẹp màu xám xanh trên nền gạch, nàng ngoái nhìn lại rồi mới rón rén bước ra thềm, tựa người vào cây cột gỗ để mộc không sơn. Trời trong không một gợn mây, trăng lại mới nhú trinh nguyên giá lạnh trên nền lam đen mượt như nhung. Ngọc Dao đưa tay kéo lại chiếc áo khoác ngoài, cười nhẹ một mình. Cái áo lụa đẹp đẽ mềm mại năm xưa khoác lên thân hình yểu điệu lúc còn là Tiệp dư so với cái áo sồi bây giờ, cái nào mang lại tự do, nàng đã có lời đáp. Giờ Ngọc Dao như chim sợ cành cong, chỉ mong Hạo có thể bình an trưởng thành, tránh xa mọi thi phi, tranh đoạt đã là quá đủ. Hoàng cung ư? Ngọc Dao mong cả đời đừng khi nào quay lại. Nàng mong thế, cầu trời khấn Phật là thế nhưng từ trong thâm tâm biết rõ, đó chỉ là ảo tưởng. Những sóng gió này đã làm máu tanh tràn thấm đất, nhưng từ sâu trong lòng, bằng linh tính của mình, người thiếu phụ biết đau thương, tang tóc đến thế cũng chỉ mới là khúc dạo đầu. Không phải cứ muốn an phận thủ thường thì được an phận thủ thường, mưa dập sóng dồn ấy là do trời, do người mà kéo đến.
Mùa thu năm ngoái, tin Thái phó Đinh Liệt cùng gia quyến không rõ tội trạng gì mà bị bắt giam truyền đến Đô Kỳ, Ngọc Dao đã cảm thấy những ngày yên ổn của mẹ con mình đang dần dần vuột khỏi tầm tay. Nàng thoáng rùng mình, vội nhắm mắt lại, hai bàn tay xiết chặt lấy nhau. Một Nguyễn Trãi, một Nguyễn Thị Lộ cũng những người vô tội khác bị cuốn vào cuộc chiến này, kết thúc bằng những cái chết thảm khốc nhất, sau họ, liệu còn những ai nữa?
Bóng lá đung đưa trong ánh trăng.
Những năm tháng đã qua tựa như giấc mộng chốn hồng trần, thoắt đến, thoắt đi. Cái còn lại e rằng không phải là vương vấn.
Trải mười năm nếm mật nằm gai, cùng Thái Tổ đánh đuổi quân xâm lược khỏi giang sơn, tưởng rằng cha nàng được phong đến tước Thái bảo đã là vô vàn sủng ái. Ai ngờ được Hoàng đế muốn đoàn kết quân thần trên dưới thành đại gia đình, ngoài việc ban quốc tính[11] còn cho tuyển lựa con gái đến tuổi cập kê, có tư dung xinh đẹp của các bậc công thần vào cung làm con dâu người. Vây quanh Hoàng thái tử Lê Nguyên Long[12] khi ấy nào có con gái Lê Sát là Lê Thị Ngọc Dao, con gái Lê Ngân là Lê Thị Nhật Lệ. Thân phụ của cả hai phi tần ấy đều thuộc hàng trọng thần khai quốc, quyền khuynh thiên hạ. Sau khi đăng cơ, Hoàng đế Nguyên Long còn sủng ái Dương Thị Bí rồi đến Nguyễn Thị Anh. Nhìn qua đã có thể thấy đế vương đa tình đến thế nào, hoa thơm cỏ lạ vốn chẳng thiếu. Hai cô con gái của Ngô Từ là Ngọc Xuân và Ngọc Dao nhập cung chỉ vì lời dụ năm xưa của Thái Tổ, vốn chẳng nuôi hy vọng, đến chữ ái tình khi ấy còn chưa chắc đã dám nói mình hiểu hết.
[11] Ban họ của Hoàng đế cho công thần.
[12] Tức Lê Thái Tông.
Mùa hạ lúc Ngọc Dao tiến cung, ai cũng nói nàng may mắn hơn chị nhưng giờ ngẫm lại, là ai thực may mắn hơn ai? Năm đó, Ngô Thị Ngọc Dao có phúc phận được Hoàng đế trẻ tuổi để mắt đến, phong làm Tiệp dư. Nhưng hai chữ “tình yêu” chỉ như bướm vờn hoa, đậu rồi lại bay.
“Nàng ngẩng mặt lên. Nói cho ta, tên nàng là gì?”
“Thần nữ… là Ngô Thị Ngọc Dao, con gái Thái bảo Ngô Từ, nhà ở…”
“Hóa ra là nàng, ta đã nghe nội quan nhắc đến. Đúng là một cô gái đẹp, lại rất đoan trang. Hoàng cung này của ta, nàng lưu lại được chứ?”
Giờ nhớ lại, Ngọc Dao vẫn thấy vang lên bên tai giọng nói trầm ấm ẩn tiếng cười sảng khoái, nửa như bông đùa, nửa như nghiêm túc ấy; vẫn thấy hiện ra trước mắt gương mặt rạng rỡ, tuấn tú của người. Trong một thoáng, thực lòng nàng không nghĩ đối diện mình là bậc đế vương ngự trên ngai vàng, trị vì cả một quốc gia rộng lớn. Nguyên Long lúc ấy trong mắt Ngọc Dao giống một cậu thiếu niên đang trưởng thành, vô tư vô lo hơn. Và nàng lúc ấy cũng chỉ là thiếu nữ chưa được ai dạy cho biết hậu cung thực sự là chốn thế nào. Một lần gặp gỡ nói nói cười cười. Một lần ái ân hạnh phúc. Chỉ một mà đổi lại đằng sau biết bao ngang trái, chìm nổi, đắng cay.
Từ sau song cửa, một ánh mắt đen lay láy trông ra ngoài hiên, dõi theo cái bóng chênh chếch của người thiếu phụ. Hạo kiễng chân, bám mười đầu ngón tay lên bậu cửa, chăm chú nhìn. Nó từng hỏi mẹ: “Cha ở đâu, sao cha không đến thăm con?”. Ngọc Dao chỉ ôm xiết nó vào lòng, thủ thỉ bằng giọng nói như nghèn nghẹn: “Cha mất rồi. Giờ mẹ chỉ có mình con… nên… con không được được làm mẹ đau lòng, nhớ chưa?”. Thằng bé nghe vậy liền ôm chặt lấy nàng, hỏi điều hiển nhiên đứa trẻ nào cũng muốn biết: “Cha có yêu con không hả mẹ?”.
Câu hỏi ấy Ngọc Dao không có lời đáp.
Hạo từ đó về sau cũng không khi nào nhắc lại cái thắc mắc đó, cũng không khi nào nói về cha trước mặt mẹ nữa.
***
Con cái Gái mới theo hầu Ngọc Dao chưa đầy một năm. U nó cùng với một người phụ nữ ngoại tứ tuần nữa là nhũ mẫu chăm sóc cho mẹ con người thiếu phụ ấy. Giờ Hạo đã lớn, cũng có thêm việc nên u mới gọi con bé từ quê lên phụ giúp. Nói là nói thế nhưng Gái cũng chẳng phải làm gì nhiều. Những việc phu nhân có thể tự làm đều không để hai nhũ mẫu đụng vào. Người còn học cả xe sợi, dệt vải giống hệt những người phụ nữ khác, rồi lại tự tay may quần áo cho con trai mình. Mẹ cái Gái có can, nói đó là chuyện của kẻ dưới nhưng Ngọc Dao nhất quyết không chịu. Đây là lần đầu con bé dời khỏi lũy tre làng nhưng nó nghĩ mình biết rõ rằng vợ lớn, vợ nhỏ trong nhà mấy tay địa chủ ở làng chẳng bao giờ làm mấy việc vặt vãnh đó chứ chưa nói đến những quý phu nhân xuất thân cao sang. Thế nên cái Gái không hiểu, mẹ nó cũng không hiểu cách sống của Ngọc Dao nhưng tuyệt nhiên không dám thắc mắc nhiều.
- Phu nhân đâu con? – Người phụ nữ đứng tuổi tên Hiến bưng khay trà vào, cúi xuống hỏi.
- Phu nhân ở trong buồng ạ. Thôi con ra sân trông chừng cậu… à… em Hạo đây! – Gái nghiêng đầu, cười phô hàm răng sún.
- Liệu mà nhìn nồi canh hầm trong bếp đấy nhớ! – Bà nghển cổ gọi với theo cái bóng như con chim chích của con bé, thoắt cái đã thấy nhảy từ bậc thềm xuống sân rồi.
Chỉnh lại cái áo cánh và dải lụa thắt quanh chiếc váy đụp, bà Hiến gõ nhẹ vào cánh cửa gỗ, thưa:
- Phu nhân, tôi vào được chứ?
- Bác cứ vào! – Bên trong truyền ra giọng nữ ấm áp tựa như đang cười.
Dáng vẻ Ngọc Dao từ cái lần đầu tiên người đàn bà gặp đến bây giờ không hề thay đổi: ung dung, thanh cao, dù trong cơn nguy biến cũng không quên lễ tiết, không để lộ những bất án cho người ngoài thấy bao giờ. Bà Hiến nhớ cái đêm mưa rào đột ngột vào giữa mùa hè ba năm trước, gia đình bà đã đi nghỉ từ lâu mà lại nghe giữa tiếng mưa quất xuống rào rào như ném đá là tiếng đập cửa gấp gáp. Một người đàn ông ăn mặc tuềnh toàng, mình khoác áo tơi ướt sũng, tay chân trắng bợt vì ngấm nước bồn chồn đi đi lại lại trước cửa nhà, mới nhác trông thấy ánh sáng từ đĩa đèn trên tay bà đã vội chạy xô tơi:
“Cô, cô phải đi ngay. Phu nhân nhà tôi đang trở dạ, giờ trong nhà không biết phải làm thế nào!”
Trời mưa lớn quá, đêm cũng đã khuya, thực bụng bà cũng chẳng muốn đội mưa đi làm gì, nhưng phần vì cái tiếng là bà đỡ mát tay nhất đất Diên Hà, Thần Khê, phần vì cũng nghĩ người ta đội gió, đội mưa đến tìm lúc đêm hôm khuya khoắt chắc thực là việc gấp nên bà mới vội khoác áo đi theo. Thân gái dặm trường, bà Hiến không hiểu thiếu phụ chửa vượt mặt ấy tại sao phải khổ sở đi một quãng đường xa đến thế trong lúc đã cận ngày sinh nên đâm ra ái ngại cho nàng. Đường xá xa xôi, xóc nảy đã sớm hành Ngọc Dao không còn sức lực, vất vả mãi đứa trẻ mới ra đời. Lúc ẵm cậu bé đó hỏn ấy trên tay, bà Hiến cũng thấy may mắn cho nàng, mẹ con cuối cùng cũng được vuông tròn. Tuyệt nhiên từ cái đêm ấy đến tận bây giờ, chưa lúc nào Ngọc Dao nhắc đến nhà chồng trước mặt bà, bà cũng ngầm hiểu rằng ắt có ẩn tình trong đó.
- Phu nhân, Hạo rất ngoan, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp cả thôi, người không cần quá bận lòng.
- Hy vọng là vậy! – Ngọc Dao cười nhẹ. – Bác có nghe thấy người từ kinh sư về nói gì về chuyện gia đình Thái phó không? Có tin tức gì mới không?
Người đàn bà thở dài, lắc đầu. Ngón tay nàng miết miết góc chiếc khăn lụa đang thêu, môi mím chặt lại.
- Phu nhân, tôi không biết tại sao người lại đến đây, cũng không biết người phải mang những gánh nặng gì trên vai. Nhưng, phúc đức tại mẫu, phúc đức tại mẫu, trời không nỡ tuyệt đường của người bao giờ.
Trời không nỡ tuyệt đường của người…
Không nỡ?
Cái đêm Ngọc Dao dời chùa, Nguyễn Thị Lộ có ghé sát tai nàng dặn rằng: “Nếu sau này thực có ngày Tiệp dư quay lại Đông Kinh[13], nếu Nguyễn Thần phi vẫn còn trong cung, xin người vạn nhất không được quay lại hoàng cung, bằng giá nào cũng phải xin ra ở chùa Huy Văn.”
[13] Tên gọi Thăng Long dưới thời Lê Sơ, để phân biệt với Tây Kinh (Lam Kinh) ở Thanh Hóa.
Phải chăng vợ chồng Nguyễn Trãi đã nhìn ra điều gì mà nàng không biết? Phải chăng lời căn dặn ấy chắc chắn sẽ có ngày phải dùng đến?
*** Một số sự kiện lịch sử có thật được sử dụng làm tình tiết trong chương 2:
(Thời điểm bắt đầu Độc huyền cầm là năm 1445 – Thái Hòa năm thứ 3.)
- Hoàng thái tử Lê Nguyên Long (Lê Thái Tông) là con thứ của Lê Lợi (Lê Thái Tổ), lên ngôi khi mới 10 tuổi. Lê Sát, Lê Ngân vừa là bố vợ vua, vừa là đại thần phụ chính, phò tá ấu chúa nhưng do quyền khuynh thiên hạ, nhiều lúc lấn át vua, chèn ép những người không cùng phe cánh. Về sau, chính Thái Tông dẹp bọn quyền thần, hai cô con gái của Lê Sát, Lê Ngân cũng thất sủng.
- Lê Nguyên Long có tất cả 5 bà vợ được nhắc đến trong chính sử (Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh, Lê (Thị) Nhật Lệ, Lê Thị Ngọc Dao, Ngô Thị Ngọc Dao). Vua băng hà khi mới 20 tuổi, có tất cả 4 người con trai (Trong chương này mới nhắc đến Lê Bang Cơ và Lê Hạo)
- Nguyễn Thị Anh gièm pha với vua chuyện Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao dùng bùa chú ám hại Lê Bang Cơ (được lập làm Hoàng thái tử tháng 11/1441), xin khép Tiệp dư vào tội bị voi giày. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ ra sức can gián, xin đổi từ án giết ra lưu đày ở chùa Huy Văn. 20/7/1442 (Đại Bảo năm thứ 3), con trai của Tiệp Dư và Thái Tông ra đời. Nguyễn Trãi từng thu xếp để Tiệp dư lánh ở An Bang. Theo một số tư liệu mới (ngọc phả, gia phả) thì có khẳng định Lê Hạo sinh ở Đô Kỳ.
- Cái chết của Lê Thái Tông gắn với vụ án Lệ Chi Viên. Cuối tháng 7 năm 1442, vua Thái Tông đi tuần phía đông, đầu tháng 8 đến Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 vua về đến trại Vải (Lệ Chi Viên), có Nguyễn Thị Lộ (vợ lẽ Nguyễn Trãi) theo hầu. Sử sách chép: Vua thức suốt đêm hôm đó với Nguyễn Thị Lộ rồi qua đời. Mọi người đều nói Nguyễn Thị Lộ giết vua. 16/8/1442, vợ chồng Nguyễn Trãi và ba họ bị xử tội chết.
- 1442: Lê Bang Cơ (Lê Nhân Tông) lên ngôi khi mới 2 tuổi. Tuyên Từ hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính. 7/1444 (Thái Hòa năm thứ 2) bắt giam thái phó Đinh Liệt, chính sử không nói lý do.