Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 27 phần 2
Tunku thường nói chuyện công khai về những con số, màu sắc và những giấc mơ được coi là may mắn đối với ông. Ông rất coi trọng những ảnh hưởng siêu nhiên ấy. Tại London, ông có một giấc mơ dễ chịu đi kèm với những biểu tượng con giáp, ông bảo điềm này là hên lắm. Vì Thỏa ước Malaysia sẽ được ký vào ngày 1/8, ngày hên của ông, nên ông ra một tiệm kim hoàn gần Burklington Arcade đặt mua một chiếc nhẫn có chạm hình các con giáp để kỷ niệm chuyện này. Tuy nhiên, ngày nhận hàng, ông lại phật ý khi thấy nó có khắc những biểu tượng lạ, chứ không phải những con giáp trong can chi Tây phương mà ông đã quen thuộc như dương cưu, kim ngưu, song nam v.v… Keng Swee đã tới cứu nguy, đoan chắc với ông đấy chính là những biểu tượng con giáp Tây phương, nếu không thì chiếc nhẫn đã bị trả lại để sửa chữa và như thế sẽ không có kịp trước lễ ký kết. Những sự vụ như thế cũng làm bớt đi cảnh buồn chán trong sinh hoạt của các tùy tùng dưới trướng Tunku tại Ritz.
Tuy vậy, Tunku vẫn là một người Hồi giáo thuộc thế hệ trước Thế chiến theo Tây học và có tinh thần tự do. Ông ta vui tính và hoàn toàn cởi mở về chuyện đó. Giống như những người Hồi giáo cùng thế hệ tại Anh, ông ta ăn uống thoải mái, thích ngựa và đàn bà. Ông từng bị nêu tên như kẻ đồng phạm trong một vụ kiện đòi li dị tại Anh do một luật sư Âu lai Á đứng đơn, vì vợ ông này đã ngoại tình với Tunku. Vụ kiện, rất xôn xao ở Malaysia trước khi ông trở thành Thủ tướng năm 1955, chỉ làm tăng thêm sức ủng hộ của dân chúng dành cho ông. Dân quê Malay thán phục khả năng xuất chúng của ông. Năm 1970, sau khi về hưu, Tunku trở thành người Hồi giáo thuần thành, cống hiến toàn bộ sức lực cho việc củng cố khối thống nhất Hồi giáo trong cương vị Tổng thư ký Tổ chức hội nghị Hồi giáo.
Tunku là một người bạn rất dễ ưa trong các buổi tiệc tùng, lúc nào cũng có đủ thứ câu chuyện vui nho nhỏ để kể với một phong cách rất hấp dẫn. Mục tiêu của ông trong cuộc đời là sự sung sướng, và tiêu chuẩn để ông đo lường mọi tình huống là nó có làm ông sung sướng hay không. Khi mọi chuyện tốt đẹp, ông có thể tự hào nói: “Tôi là ông Thủ tướng sung sướng nhất trên đời.” Ông có thể nói thêm rằng mục tiêu của ông cho Malaysia chẳng phải là giàu có, vĩ đại hay vinh quang, mà là sung sướng trên một lãnh thổ không có rối loạn hay thù hằn, và khi tìm cách bảo đảm vị trí cho người Borneo trong Liên bang, ông đã nói với báo chí rằng ông muốn mở rộng mục tiêu này cho toàn Malaysia. Nhưng cách này lại không tác động lắm với người dân ở Borneo và Singapore, vì họ vốn không quen đánh giá chất lượng cuộc sống của mình theo lối đó.
Ông ta không màu mè về các khả năng của chính mình và không áy náy gì khi mô tả các tính khí của người Malay. Ông ta thẳng thắn khi xét tật mình, nói thật rằng cha của ông, một tiểu vương Malay, là một con người yếu đuối và sức mạnh của ông thực ra là kế thừa từ bà mẹ người Thái. Ông bảo người Malay không thông minh sắc sảo và không đòi hỏi cao cho lắm, nên rất dễ thỏa mãn họ. Ông chỉ cần cho họ thêm một chút là họ thấy sung sướng ngay. Những quan điểm này cũng tương tự như những quan điểm do Tiến sĩ Mahathir Mohamad trình bày trong cuốn The Malay Dilemma[29] của ông được xuất bản năm 1971. Ông ta viết: “Bất cứ thứ gì người Malay có thể làm thì người Hoa cũng có thể làm với giá thành rẻ hơn,” và “Họ là kết quả của hai hệ thống ảnh hưởng môi trường và truyền thống hoàn toàn khác biệt nhau”. Nhiều năm sau, vào 1997, khi đã trở thành Thủ tướng Malaysia, Tiến sĩ Mahathir nói rằng ông đã thay đổi cách nhìn và không còn tin vào những gì mình đã viết trong The Malay Dilemma nữa.
[29] Tạm dịch: Tình thế tiến thoái lưỡng nan của người Malay.
Nhưng vào thập niên 1960, Tunku có thể nhìn quanh các viên chức và Bộ trưởng đang ngồi trong phòng khách của ông trước hoặc sau bữa tiệc chiêu đãi và nói: "Những tay này chẳng làm ăn gì được. Họ không có khái niệm về cách nào làm ra tiền. Người Hoa thì làm ăn được. Họ biết cách kiếm tiền và nhờ tiền thuế họ đóng, chúng ta có thể nuôi chính phủ. Nhưng bởi vì người Malay không thông minh và kinh doanh không giỏi, nên họ phải nắm các ban bộ trong chính phủ, cảnh sát và quân đội." Ông ta có một triết lý đơn giản: vai trò của người Malay là kiểm soát guồng máy quốc gia, duyệt cấp giấy phép và thu thuế các loại, và quan trọng hơn cả, là bảo đảm để họ không bị người khác thay thế. Không giống như người Hoa và người Ấn, còn có nước Ấn Độ hay Trung Quốc để trở về, thì họ chẳng có chỗ nào khác mà về. Bằng cách nói nhẹ nhàng và cung cách lịch thiệp, ông ta hoàn toàn công khai về quyết tâm duy trì vị thế thống trị của người Malay và bảo đảm rằng họ và các tiểu vương của họ cứ mãi mãi là người chủ của xứ sở này.
Razak có thể cười bối rối mỗi khi Tunku lặp lại những nhận định thành thật của ông ta về dân Malay. Điều đó làm Razak không thoải mái. Ông nghĩ những nhận định đó đã đánh giá thấp khả năng của họ và sẽ không thể chấp nhận được đối với thế hệ trẻ – xét cho cùng thì chính ông đã từng hoàn tất các kỳ thi của ngành luật trong một thời gian ngắn bằng một nửa so với các sinh viên người Hoa. Tunku có thể đã mất nhiều năm mới hoàn tất các kỳ thi tốt nghiệp, nhưng đó là bởi vì – như chính ông ta vẫn thường nói – ông ta đã dành quá nhiều thời gian khi còn ở Anh cho những con ngựa chạy chậm lụt và những phụ nữ thay đổi quá nhanh.
Vào 7 giờ tối ngày 1/8, Tunku và Macmillan ký bản thỏa ước khai sinh Malaysia, buổi lễ bị hoãn lại một ngày để rơi vào đúng tháng thứ tám trong năm vốn rất may mắn cho Tunku. Các thủ hiến của Bắc Borneo và Sarawak thay mặt chính phủ của các lãnh thổ đó ký vào văn kiện. Singapore và Brunei được đề cập thoáng qua trong một tuyên bố chung tuy rằng chúng là đề tài quan trọng trong suốt hai tuần thương thảo trước khi ký kết. Quốc vương Brunei đã trì hoãn để giành được những điều kiện tốt hơn, và Singapore cũng vậy.
Báo cáo của Ủy ban Cobbold được công bố vào cùng thời điểm ký kết thỏa ước. Nó được viết rất cẩn thận, trình bày tình hình với những chi tiết tốt nhất có thể thu thập được. Đánh giá của Ủy ban về nguyện vọng của dân chúng Borneo là: một phần ba ủng hộ mạnh việc sớm thành lập Liên bang Malaysia mà không quan tâm đến các điều khoản hay điều kiện; một phần ba khác đồng ý gia nhập Liên bang nhưng muốn có những điều khoản bảo vệ; phần ba cuối cùng được chia làm hai nhóm, một nhóm muốn nền cai trị của Anh sẽ kéo dài thêm một số năm nữa, và một số khác “kiên định, năng động về chính trị cũng như ngôn luận, chống đối việc gia nhập liên bang với bất kỳ điều kiện nào trừ khi có được độc lập và tự trị trước đã”. Hay nói cách khác là không bao giờ. Về phần mình, Cobbold bác bỏ thỉnh nguyện của các lãnh thổ Borneo muốn có được quyền rút lui trong một giai đoạn thử nghiệm. Thế là kết thúc.
Keng Swee quyết định trở về Singapore trước tôi, và về đến nơi ngày 3/8. Báo chí tường thuật ông ta ở trạng thái phấn khởi khi xuất hiện ở phi trường. Nâng một cốc sâm banh chúc mừng Liên bang Malaysia, ông ta nói với các nhà báo rằng chính phủ có một quân bài tốt để chơi vào đúng thời điểm của nó.
Mặc dù công việc của tôi đã xong, tôi vẫn ở lại London cùng với Tunku, người vốn rất tin tưởng vào chuyện không để bị thúc đẩy qua hết cuộc sống này. Ngay cả trong giai đoạn thảo luận, ông ta vẫn thích lang thang trong khu Burlington Arcade gần khách sạn Ritz để mua cáo loại áo vét và khăn tay sang trọng như hồi còn trẻ sống phóng túng ở Anh. Tôi đi cùng ông cho có bầu có bạn, và một dịp nọ, tôi cũng mua một chiếc áo khoác len xám mà tôi không cần tới lắm. Trong một bữa trưa do Macmillan mời và có Sandys cùng dự, chúng tôi chụp hình chung với nhau bên ngoài trụ sở bộ hải quân và hai chúng tôi mặc những chiếc áo khoác mới ấy. Khi Tunku đã ra ngoài tầm tai, tôi nói với Macmillan về những khó khăn của tôi trong khi làm việc với Tunku và Macmillan nhận xét: “Tunku cũng giống như một tay quý tộc Tây Ban Nha. Thế giới của ông ta là thế.” Tôi chỉ có nước là đồng ý thôi. Chính Macmillan cũng hành xử như một tay quý tộc nhưng với tư tưởng hiện đại hơn, tính toán thiệt hơn trong từng nước đi đằng sau một phong thái lịch lãm. Còn Tunku là một quý tộc mong muốn thế giới này ăn khớp với kiểu suy nghĩ của ông ta.
Ngày 8/8 – ngày hên gấp đôi đối với Tunku – chúng tôi bay về Singapore bằng máy bay của hãng Qantas, và về đến nơi ngày hôm sau. Ngày kế đó, tôi tháp tùng ông trên một chuyến bay đặc biệt của hãng Malaysian Airways đi Kuala Lumpur, nơi ông được dân chúng chào đón nồng nhiệt tại phi trường. Ông ta hào phóng chia cho tôi những vòng hoa do dân chúng trao tặng, và cho tôi cơ hội phát biểu lần đầu trước công chúng Malay. Và khi ông lên một chiếc xe mui trần để về tư dinh trong khí thế chiến thắng với hàng nghìn người dân đứng dọc hai bên đường, ông lại cho tôi chia sẻ vinh quang bằng cách xếp tôi đứng cạnh ông trên xe. Tôi đã được ông biệt đãi.
Ngày hôm sau, tôi trở về Singapore để kiểm tra lại những chuẩn bị cuối cùng cho cuộc trưng cầu dân ý, kể cả việc công bố các thư từ trao đổi giữa tôi với Tunku. Khi họp báo, chúng tôi cũng không đề cập gì tới thỏa thuận chúng tôi đã đạt được về quyền công dân Malaysia. Tôi muốn dành chuyện này cho một dịp khác.
Nhưng Barisan đã biết rằng có điều gì đó đang nhen nhóm. Khi thỏa ước được ký ở London, Marshall đã nghe tin ở Liên Hiệp Quốc tại New York rằng dưới áp lực của Anh và Úc, Tunku đã đồng ý một chế độ công dân chung cho mọi lãnh thổ, tôi không biết ai đã tiết lộ tin này cho ông ta, nhưng ông ta đã không thể giữ kín tin ấy. Ông ta lập tức nói với các hãng thông tấn, và tin này đã lan tới Singapore. Điều này khiến tôi mất đi cơ hội tạo ngạc nhiên, nhưng vì không có người thẩm quyền xác định lại tin này, nên mọi chuyện vẫn còn nguyên chỗ đó. Một ai đó ở New York đã tiết lộ tin này cho Marshall hẳn đã muốn ông ta bớt chống đối việc thành lập Liên bang đi. Cho dù vì động cơ gì thì tác động của nó đối với ông ta cũng rất sâu xa. Bây giờ ông ta nhận ra rằng mình đang đối đầu với các chính phủ Anh, Úc và Malaysia, và ông ta e rằng nếu tiếp tục theo đường lối chống Malaysia của Barisan, ông ta có thể phải nhận lãnh biện pháp đối phó mà Tunku đã dành sẵn cho họ. Ông ta phải sớm nghĩ cách bảo vệ mình.
Ông ta cũng không lẻ loi trong việc này. Lim Chin Siong cũng đang gặp rắc rối, vì những ủng hộ viên quanh ông ta đều đang suy xét lại. Ngày 3/8, một thành viên trong Hiệp hội sinh viên tốt nghiệp đại học Nanyang cảnh báo rằng nhiều người đã không đồng ý với việc bỏ phiếu trắng. Theo Sở đặc vụ thì Lim đã trả lời rằng không có con đường nào khác. Năm ngày sau, biên tập viên của tờ báo do Câu lạc bộ Xã hội Chủ nghĩa Singapore xuấtbản cũng nói với ông ta rằng tờ báo không thể công khai kêu gọibỏ phiếu trắng vì câu lạc bộ phải giữ thái độ không thiên vị. Kêu gọi như thế sẽ đụng chạm tới khối sinh viên nói tiếng Anh. Biên tập viên ấy nói chỉ có thể đưa ra một lời kêu gọi dưới hình thức một lá thư của độc giả.
Ngày 14/8, tôi phát động chiến dịch hai tuần vận động trưngcầu dân ý vào ngày thứ Bảy 1/9. Tôi bảo đảm với mọi công dânSingapore rằng họ sẽ tự động trở thành công dân Malaysia. Tôi đọc trích đoạn lá thư ngày 30/7 của tôi gửi Tunku và thư tái khẳng định của ông ta ngày 31/7. Đó là một đòn chí tử giáng vào những chống đối trước vấn đề hợp nhất.
Các nghiệp đoàn và hiệp hội văn hóa khuynh tả của Lim ngừng mọi hoạt động khác để tập trung vận động bỏ phiếu trắng. Bích chương, biểu tượng, cờ xí và biểu ngữ tràn ngập thành phố trên các cột đèn và các bức tường, các cuộc mít–tinh diễn ra mỗi đêm, những cuộc lớn nhất là do Barisan tổ chức. Nhưng trong vòng 24 giờ sau lời thông báo của tôi, Ko Teck Kin, Chủ tịch Phòng thương mại Hoa kiều, đã kêu gọi ủng hộ phương án A: mô hình của chính phủ trong việc hợp nhất. Ông ta đã xác định rằng người Hoa ở Singapore không thể để mất quyền công dân vì những mưu toan chính trị của Barisan. Đây quả là một bước ngoặt, khối dân chúng nói tiếng Hoa, không theo hướng khuynh tả và hiện đối mặt với một quyết định quan trọng ảnh hưởng tới vị trí của họ, đã chọn giải pháp là nghe theo lời những lãnh đạo lâu đời của họ.
Ngày 14/8, Lim hỏi một trong những cán bộ của ông ta, một phóng viên của tờ Nanyang Siang Pau, là tại sao không thấy in bài tuyên bố của ông ta về vấn đề hợp nhất. Xem ra ban điều hành tờ báo bây giờ đã sợ chính phủ hơn là bất cứ thế lực nào khác muốn cản trở cuộc trưng cầu dân ý. Lim rơi vào cảnh ngày càng tuyệt vọng, Barisan thậm chí còn dùng tới đòn kết án tôi là muốn tạo một sự đã rồi bất chấp ý kiến của Ủy ban Giải thực Liên Hiệp Quốc mà họ rêu rao rằng sẽ nhóm họp vào tháng 9 để xem xét tố cáo của họ về cuộc trưng cầu dân ý không công bằng.
Trong khi đó, thế lực chống đối đã bị một bước suy thoái nữa. Chúng tôi củng cố được lực lượng của mình trong Hội đồng lập pháp khi S.V. Lingam đã thoát ly phe Ong Eng Guan và UPP vào ngày 17/8 rồi xin tái gia nhập vào PAP. Việc này giúp đảng cầm quyền giành lại đa số 26 chống 25 trong nghị viện (thái độ dao dộng này của Lingam thật kỳ lạ và chỉ được lý giải sau khi chúng tôi gia nhập Malaysia, khi Keng Swee tìm biết được rằng Lingam là nhân viên đặc vụ của Malaysia. Họ muốn biết Ong theo đuổi mục tiêu gì, nhưng đã chỉ thị cho Lingam trở lại với PAP khi đảng cầm quyền có nguy cơ bị lật đổ. Chúng tôi đã đưa Lingam ra ứng cử trong kỳ tổng tuyển cử năm 1963, nhưng khi khám phá ra chuyện này, chúng tôi đã loại bỏ ông ta ra khỏi danh sách.)
Lợi thế của chúng tôi không kéo dài lắm. Sức khỏe của Ahmad Ibrahim ngày càng kém. Ông ta bị viêm gan rồi chuyển qua sơ gan từ nhiều năm trước. Chúng tôi đã đưa ông qua Anh để giải phẫu nhưng bệnh vẫn tiến triển, và ông ta mất vào ngày 21/8, tôi đã có mặt cùng vợ ông ta bên giường bệnh ở phút cuối cùng. Ahmad có một tinh thần lớn. Ông có các phẩm chất của lãnh tụ và đã dùng nó để tạo ảnh hưởng tốt trong Nghiệp đoàn lao động khu căn cứ hải quân. Quan trọng hơn, ông đã có đủ sức tiếp nhận Bộ Lao động từ tay Kenny để đối phó với các thế lực chống đối. Cái chết của ông là một mất mát lớn, và khiến chúng tôi rơi trở lại tình thế 25 chống 25.
Tuy nhiên, tình thế không có chút tuyệt vọng nào. Marshall đang dao động và muốn rời phe chống đối để củng cố uy tín trước mặt Tunku. Tôi mời ông ta tham dự diễn đàn tay đôi trên đài phát thanh với tôi. Ông ta đồng ý, và trong lúc vấn đáp sau khi mở đầu diễn đàn, ông ta đã thừa nhận rằng không hề có khác biệt gì giữa các công dân Singapore và các công dân khác của Malaysia khi mà giờ đây, chúng tôi cũng đã có được tư cách công dân Malaysia. Để giữ trọn thái độ nghi ngại và e dè, ông ta đã yêu cầu tôi xác định, và tôi đã xác định, rằng công dân Singapore sẽ có quyền làm việc và sở hữu tài sản trên toàn liên bang. Họ đủ tư cách để làm việc trong bộ máy hành chính liên bang và hiến pháp bang Singapore sẽ được hình thành theo cùng một cách thực thi ở các bang khác.
Cùng hôm đó, ông ta gặp gỡ các lãnh đạo của Đảng công nhân và thuyết phục họ nhất trí ủng hộ sự thay đổi trong điều khoản quyền công dân. Tuy nhiên, họ vẫn tiếp tục chống đối các dự trù cho cuộc trưng cầu dân ý mà họ coi như “phi đạo đức tới nỗi bất kỳ công dân lương thiện nào, theo bất kỳ quan điểm gì, cũng không thể tham gia trừ khi bị luật pháp cưỡng bách”. Dĩ nhiên Marshall biết việc đi bầu là cưỡng bách, và do đó đã khuyên dân chúng bỏ phiếu trắng để phản đối, vì họ không thể không đi bầu. Một lần nữa ta thấy đây là thủ pháp tiêu biểu của một tay luật sư. Ông ta không hề muốn chống đối và chọc giận Tunku, nhưng đồng thời lại muốn tỏ ra rằng ông không hề thoát ly khỏi lực lượng của Lim Chin Siong.
Vài ngày sau, tôi đã có thể mời ông ta phát biểu trên một diễn đàn tại Viện đại học Singapore: "Cho phép chúng tôi ngắn gọn. Đảng Công nhân không thay đổi lập trường. Các đề nghị hiến định đã được thay đổi để thỏa đáp yêu cầu của Đảng Công nhân theo đúng y mô hình do đảng đưa ra.” Tuy nhiên, trong một cố gắng vô vọng cuối cùng, ông ta đã yêu cầu chính phủ tạm hoãn cuộc trưng cầu dân ý cho đến khi dự thảo hiến pháp Malaysia được chuyển đến cho Hội đồng lập pháp Singapore. Cho dù ông ta có tung hỏa mù để che giấu động cơ của mình, việc ông ta, vừa là luật sư vừa là người chống đối hợp nhất, thừa nhận rằng các công dân Singapore sẽ không trở thành những công dân hạng hai của liên bang, đã là một đòn mạnh đánh vào đường lối tuyên truyền của Barisan.
Còn nhiều đòn tấn công mạnh mẽ nữa. Tiếp theo lời kêu gọi của Ko Teck Kin, lãnh đạo của 12 hiệp hội ngành kinh doanh đã ký một tuyên bố vào ngày 23/8 yêu cầu Phòng thương mại Hoa kiều tổ chức mít-tinh để khuyến cáo dân chúng không nên bỏ phiếu trắng mà hãy chọn phương án A. Hơn nữa, họ còn công bố danh tính của họ để dễ dàng cho việc xác minh, tuy rằng hành động của họ là đối kháng trực tiếp với lá thư ngỏ của MCP.
Để khuyến khích họ rời bỏ phe chống đối, tôi tuyên bố thêm với các lãnh đạo bang hội người Hoa rằng nếu có quá nhiều phiếu trắng thì điều đó có thể được coi như ủng hộ phương án B – hợp nhất trọn vẹn và vô điều kiện – bởi vì điều đó sẽ có nghĩa rằng đa số đã đáp ứng lời kêu gọi của Barisan. Nhưng trong trường hợp đó, những ai không ra đời tại Singapore mà chỉ nhập tịch sau này có thể mất đi quyền công dân của họ. Lý luận này có tác động. Ba ngày sau khi 12 hiệp hội đưa ra bản tuyên bố, có thêm ba tổ chức khác công khai ủng hộ phương án A, trong đó có Liên hiệp giáo viên các trường Hoa tại Singapore, một tổ chức có tiếng là khuynh tả.
Ngày kế tiếp, Ko dẫn một phái đoàn từ Phòng thương mại Hoa kiều đến văn phòng của tôi tại Tòa thị chính để làm rõ tuyên bố của tôi về phương án B. Tôi nói cho ông ta hiểu rõ rằng ông ta không được hành động bất cẩn trước vấn đề quyền công dân của cộng đồng người Hoa. Rồi ông ta yêu cầu các đảng đối lập trình bày rõ ràng xem họ sẽ có biện pháp gì một khi do tác động của họ, con số phiếu trắng trong cuộc trưng cầu dân ý lại đưa tới việc chấp nhận phương án B. Lim Chin Siong trả lời chất vấn của Ko bằng một đe dọa: cộng đồng người Hoa sẽ biết “cách đối phó với các nhân vật được mệnh danh là lãnh đạo lại đi phản bội họ,” ông ta còn kết án Phòng thương mại vì đã đi theo luận điệu tuyên truyền của PAP. Không nao núng, ban điều hành của Phòng thương mại lại yêu cầu các thành viên bỏ phiếu cho giải pháp A, và trong cùng ngày hôm đó, thêm sáu tổ chức của người Hoa ra mặt ủng hộ quan điểm này.
Để đương cự với xu hướng trên, Lim Chin Siong điều động 24 nghiệp đoàn, rồi thêm 12 nghiệp đoàn khác nữa, tái khẳng định với các thành viên là phải bỏ phiếu trắng. Nhưng lãnh đạo các nghiệp đoàn ấy không có sức nặng là mấy: họ dựa vào uy tín của Lim, mà cái này thì đang trên đà suy giảm. Bực bội và bối rối, ông ta đã dùng tới thủ đoạn đe dọa, trở nên rối loạn trong phát biểu và phạm một sai lầm lớn vào ngày 27/8. Trong một cuộc mít–tinh tại Hong Lim Green, ông ta đã nói: “Hợp nhất và thành lập liên bang có ý nghĩa khác nhau đối với những lực lượng khác nhau. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Malaysia và Indonesia, các lực lượng quốc gia của hai lãnh thổ này đã phát triển khái niệm về một Melayu Raya, nghĩa là Đại Malaysia, hoặc Malaysia, bao gồm cả Indonesia…”
Điều này làm kinh hoàng các cử tri người Hoa vốn là những người biết rõ dân Indonesia còn bài Hoa hơn cả người Malay tại Malaysia.
Nhưng điều đó cũng chẳng có tác dụng gì khi Ong Eng Guan, khi được báo chí hỏi rằng ông ta sẽ làm gì khi việc bỏ phiếu trắng được lý giải là ủng hộ hợp nhất trọn vẹn, đã từ chối không đưa ra ý kiến nào. Điều này củng cố thêm niềm tin nơi các lãnh đạo bang hội người Hoa rằng phe thân cộng và chống đối hợp nhất đã bị dồn vào ngõ cụt. Cảm thấy vững bụng hơn, Phòng thương mại Hoa kiều đã cho cậy đăng lời thông báo ủng hộ phương án A trên tất cả các báo tiếng Hoa trong hai ngày liên tiếp. Nỗi sợ hãi cố hữu của họ trước phe đối lập nay đã thay bằng nỗi lo sợ rằng 330.000 người Hoa vốn là chỗ hậu thuẫn của họ sẽ mất đi quyền công dân và làm mất luôn ảnh hưởng của họ đối với các diễn biến chính trị. Hành động của họ có tác động mạnh. Các lãnh đạo đoàn thể khác cũng công khai lên tiếng kêu gọi ủng hộ phương án A, trong đó có 51 công ty thương mại và nghiệp đoàn.
Tuần lễ cuối cùng trước ngày trưng cầu dân ý đã diễn ra vô số cuộc mít–tinh và hội thảo, nhưng tôi tin rằng họ chẳng làm thay đổi được gì nữa. Cuộc tranh luận quanh các điều kiện thống nhất đã kéo dài suốt năm. Vấn đề quốc tịch và tư cách công dân hạng hai mà Barisan khai thác đã dược dàn xếp xong. Ngày 30/8 có một cuộc mít–tinh cuối cùng do PAP tổ chức tại Hong Lim Green, đó là cuộc mít-tinh lớn nhất của chúng tôi, thu hút được một đám đông rất lớn mà không cần phải lấy xe chở họ tới như Barisan đã làm ba tuần trước đó. Khi tôi bắt đầu phát biểu lúc 9 giờ 30, nhạc đột nhiên phát ầm vang từ ba cái loa gắn trên tầng bốn của tòa nhà trụ sở một nghiệp đoàn thân Barisan. Tôi nói ngay: “Đó là kiểu dân chủ của Barisan Sosialis. Chúng tôi đã cho họ cả năm để làm gì thì làm. Nay họ lại sợ tôi nói ra sự thật với các bạn.” Họ dùng nhạc để át tiếng tôi, nhưng tôi cứ tiếp tục. Sau vài phút, một nhóm cảnh sát đi vào tòa nhà đó. Họ thấy các cánh cửa trên tầng bốn đều đóng kín, nhưng tiếng nhạc được ngừng lại.
Cuộc bỏ phiếu bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày 1/9 và kết thúc lúc 8 giờ tối, sau đó bắt đầu kiểm phiếu. Đến 3 giờ sáng, kết quả cho thấy chiến dịch vận động bỏ phiếu trắng của Barisan đã thất bại. Phiếu trắng chiếm chưa tới 30 % số phiếu, 70 % còn lại ủng hộ phương án A, còn một ít ủng hộ cho phương án B và C. Những đám đông rất lớn tụ họp ngoài dinh Badminton trên đường Guillemard, không khí rất căng thẳng, vì tuy rằng có tới 345 địa điểm bầu cử trên toàn Singapore, nhưng mọi thùng phiếu đều được mang về đây để kiểm. Barisan muốn phiếu được kiểm tại từng đơn vị bầu cử, nhưng chúng tôi từ chối điều đó. Chúng tôi không muốn họ biết được rằng đơn vị nào bỏ phiếu trắng nhiều nhất, đó sẽ là thông tin hữu dụng trong kỳ bầu cử kế. Nhưng họ đã khôn ngoan hơn chúng tôi khi dặn dò những người ủng hộ kẹp chung thẻ cử tri vào với lá phiếu. Những thẻ đó cho biết ngay phiếu là từ đơn vị nào.
Khoảng 6 giờ 45, ngay trước khi công bố kết quả, Tiến sĩ Lee Siew Choh gửi một lá thư tới viên giám sát trưng cầu dân ý yêu cầu được kiểm phiếu lại. Nửa giờ sau, viên giám sát đồng ý nhưng quãng thời gian chờ đợi này khiến Tiến sĩ Lee gửi ngay lá thư thứ hai lúc 7 giờ 45, trong đó ông ta cáo buộc rằng viên giám sát đã cho Thủ tướng đọc lá thư thứ nhất trước khi trả lời đồng ý, như thế ông ta chẳng hơn gì tay sai của Thủ tướng. Hơn nữa, vì quy trình thủ tục của lần đếm thứ nhất cũng sẽ áp dụng cho lần đếm thứ hai, nên toàn bộ sự việc cũng khôi hài như chính cuộc trưng cầu dân ý nên ông ta sẽ không chấp nhận điều đó. Viên giám sát đưa ra câu trả lời một giờ sau đó, nhưng do lời khuyên của tôi, ông ta đã cho đọc thư trả lời ấy trên loa phóng thanh cho giới báo chí cùng nghe trước khi trao lá thư cho Tiến sĩ Lee. Thư nói rằng các thùng phiếu đã được mở niêm phong, các lá phiếu đã trộn lẫn lộn và đếm trong khi Tiến sĩ cũng có mặt tại đó suốt thời gian kiểm phiếu nhưng ông ta đã không đưa ra lời phản đối nào về sự hợp cách của quy trình cho đến khi mọi việc hoàn tất và chỉ chờ đến lúc công bố kết quả thôi. Tuy nhiên, viên giám sát cũng ra lệnh cho đếm lại theo lời ông ta yêu cầu.
Đó chỉ là nỗ lực phản đối vô vọng của Tiến sĩ Lee, và trong khi việc kiểm phiếu lần hai còn tiến hành thì ông ta đã đùng đùng bỏ ra ngoài và nói với báo chí: “Thật là lố bịch và khôi hài.” Lim Chin Siong cũng bỏ ra ngoài với ông ta, tiến đến với đám đông ủng hộ phía bên kia đường và nói: “Chúng ta sẽ không chịu thua và sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu đòi các quyền bình đẳng cho nhân dân Singapore.” Nhưng chẳng còn gì cho họ ngoài chuyện giải tán. Họ đã thua cuộc và đành lặng lẽ rút về nhà để tránh phải đối mặt với thất bại.
Lúc 11 giờ 30 sáng Chủ nhật, việc kiểm phiếu lần hai kết thúc: 71 % ủng hộ phương án A và 25 % phiếu trắng. Tôi vui mừng quá độ khi phát biểu với đám đông chờ đợi bên ngoài và mắt tôi đã rưng lệ. Những lời phát biểu của tôi trước dinh Badminton đã được đài phát thanh Singapore truyền trực tiếp trên sóng:
“Lời phán quyết của nhân dân là một điều kinh khủng đối với những kẻ thiếu trung thực về mặt chính trị. Lời phán quyết này có tính quyết định. Đó là con dấu chuẩn y của nhân dân đối với việc hợp nhất và thành lập Liên bang Malaysia… Không tiến hành trưng cầu dân ý có thể sẽ là một sai lầm bi thảm, vì như thế chúng ta có thể đã giúp phe đối lập có cơ hội làm dân chúng tin vào cái được gọi là số đông đã chống lại việc hợp nhất. Với thời gian và kiên trì giải thích, chúng ta sẽ có thể giảm dần số người ủng hộ mà họ đã thu phục được bằng cách dối gạt, bôi nhọ hay đe dọa.”