Lồng Chim (Bird Box) - Chương 01
1
Malorie đứng trong bếp, suy nghĩ.
Hai tay cô ẩm ướt. Cô đang run rẩy. Cô hồi hộp nhịp ngón chân trên nền nhà lát đá đã nứt vỡ. Vẫn còn sớm, vầng dương có lẽ chỉ vừa ló dạng nơi đường chân trời. Cô nhìn ánh sáng yếu ớt của nó biến những tấm rèm cửa nặng nề thành một màu đen nhờ nhờ và nghĩ:
Đó là sương mù.
Lũ trẻ đang ngủ dưới chiếc màn chụp lưới thép phủ vải đen ở cuối hành lang. Có lẽ chúng đã nghe thấy cô quỳ ngoài sân vài phút trước. Tất cả những âm thanh cô tạo ra hẳn đã truyền qua chiếc micro đến cái loa đặt cạnh giường chúng.
Cô nhìn tay mình và phát hiện lớp sương mỏng lấp lánh trong ánh nến. Phải, chúng bị ướt. Lớp sương buổi sáng vẫn còn tươi mới trên tay cô.
Lúc này, ở trong bếp, Malorie hít thở sâu trước khi thổi tắt nến. Cô nhìn quanh căn phòng nhỏ, ghi nhớ những đồ dùng gỉ sét và mấy cái đĩa sứt mẻ. Hộp các tông dùng làm thùng rác. Những chiếc ghế, vài cái buộc dây lại với nhau. Những bức tường bẩn thỉu, vết bẩn do tay và chân của bọn trẻ. Nhưng còn có những vết bẩn cũ hơn. Chân tường ở hành lang đã đổi màu, những vết đỏ thẫm theo thời gian biến thành nâu. Đó là máu. Thảm phòng khách cũng đã đổi màu, bất chấp Malorie kì cọ mạnh đến đâu. Trong nhà này chẳng có hóa chất nào để tẩy sạch chúng. Rất lâu trước đây, Malorie đã múc bao nhiêu thùng nước giếng và dùng một chiếc áo khoác, ra sức tẩy rửa những vết bẩn trong khắp ngôi nhà. Nhưng chúng không chịu biến mất. Ngay cả những vết bẩn có vẻ ít cứng đầu hơn cũng còn đấy, để lại bóng dáng mờ mờ gần bằng kích thước thật nhưng vẫn hữu hình đến đáng sợ. Một hộp nến che đi vết bẩn trong tiền sảnh. Chiếc đi văng trong phòng khách nằm ở vị trí kì lạ, hòng che đi hai vết bẩn mà Malorie thấy giống như đầu sói. Trên tầng hai, cạnh cầu thang dẫn lên gác mái, một chồng áo khoác mốc meo che đi những vết cào thâm tím, hằn sâu vào chân tường. Cách đó ba mét là nơi đáng sợ nhất trong ngôi nhà, cô thường không bén mảng đến khu vực cuối tầng hai đó bởi vì cô không thể bắt mình bước đi.
Chốn này đã từng là một căn nhà xinh đẹp ở vùng ngoại ô xinh đẹp của Detroit. Nó đã từng là nơi an toàn và thích hợp cho hộ gia đình. Chỉ nửa thập kỉ trước, một đại lí bất động sản sẽ tự hào khoe khoang nó. Nhưng sáng nay, những ô cửa sổ bị che kín mít bởi bìa các tông và gỗ. Không có nước máy. Một thùng gỗ lớn đặt trên kệ bếp. Nó bốc mùi ẩm mốc. Không có những món đồ chơi thường thấy cho trẻ con. Những mảnh gỗ của một chiếc ghế đã được đẽo gọt thành người tí hon, trên đó sơn những khuôn mặt nhỏ. Tủ bếp trống trơn. Trên tường không treo tranh. Những sợi dây chạy bên dưới cửa hậu rồi đi vào các phòng ngủ ở tầng một, nơi có những chiếc loa báo động cho Malorie và bọn trẻ bất kì âm thanh nào phát ra từ bên ngoài ngôi nhà. Ba người họ sống như thế. Họ không ra khỏi nhà trong những khoảng thời gian dài. Khi ra ngoài, họ bịt mắt.
Bọn trẻ chưa bao giờ nhìn thấy thế giới bên ngoài ngôi nhà đó. Kể cả qua cửa sổ. Và Malorie cũng không nhìn trong hơn bốn năm qua.
Bốn năm.
Cô không phải đưa ra quyết định trong ngày hôm nay. Bây giờ là tháng Mười ở Michigan. Trời lạnh. Chuyến đi ba mươi hai cây số trên sông sẽ vất vả cho bọn trẻ. Có lẽ chúng vẫn còn quá nhỏ. Nếu một trong hai đứa rơi xuống nước thì sao? Nếu Malorie, đang bịt mắt, rơi xuống nước thì sao?
Một tai nạn, Malorie nghĩ. Thật khủng khiếp. Sau tất cả những vật lộn như thế để sống sót. Rồi chết vì một tai nạn.
Malorie nhìn những tấm rèm cửa. Cô bắt đầu khóc. Cô muốn hét lên với ai đó. Cô muốn cầu xin ai đó lắng nghe. Chuyện này thật bất công, cô sẽ nói. Chuyện này thật tàn nhẫn.
Cô ngoái lại nhìn lối đi vào bếp và hành lang dẫn đến phòng bọn trẻ. Bên kia khung cửa không có cánh, bọn trẻ đang say ngủ dưới tấm vải đen, trốn ánh sáng và tránh bị nhìn thấy. Chúng không động đậy. Không có dấu hiệu nào cho biết chúng đang thức. Nhưng, chúng có thể nghe thấy cô. Đôi khi, vì những áp lực buộc chúng phải lắng nghe, vì tầm quan trọng cô gán cho đôi tai chúng, Malorie tin rằng chúng nghe được suy nghĩ của cô.
Cô có thể chờ đến lúc trời nắng hơn, ấm áp hơn và chuẩn bị cái thuyền cẩn thận hơn. Cô có thể thông báo cho bọn trẻ, lắng nghe những gì chúng phải nói. Gợi ý của chúng có thể hay ho. Mới bốn tuổi, nhưng chúng đã được rèn luyện để lắng nghe. Có thể giúp cô lèo lái một con thuyền trong lúc cô bịt mắt. Malorie không thể thực hiện chuyến đi này nếu không có chúng. Cô cần đôi tai của chúng. Liệu cô có thể dùng đến lời khuyên của chúng không? Ở tuổi lên bốn, liệu chúng có thể tư vấn thời điểm tốt nhất để vĩnh viễn rời xa ngôi nhà này không?
Đổ người xuống chiếc ghế trong bếp, Malorie khổ sở nén nước mắt. Ngón chân không dép vẫn nhịp nhịp trên lớp vải sơn lót sàn bạc màu. Cô chầm chậm ngước mắt nhìn đầu cầu thang dẫn xuống hầm chứa. Ở đó, cô đã từng nói chuyện với người đàn ông tên Tom về người đàn ông tên Don. Cô nhìn vào chậu rửa bát, nơi Don từng mang vào những thùng nước giếng, run rẩy vì phải ở ngoài trời. Vươn người về phía trước, cô có thể nhìn thấy tiền sảnh, nơi Cheryl thường chuẩn bị thức ăn cho lũ chim. Giữa cô và cửa trước là phòng khách, im ắng và tối tăm, nơi có vô vàn kí ức về quá nhiều con người để suy ngẫm.
Bốn năm, cô nghĩ và muốn đấm tay xuyên qua tường.
Malorie biết rằng bốn năm có thể dễ dàng trở thành tám năm. Tám năm sẽ nhanh chóng trở thành mười hai năm. Lúc đó, bọn trẻ sẽ trở thành người lớn. Những người lớn chưa bao giờ nhìn thấy bầu trời. Chưa bao giờ nhìn ra bên ngoài nhà qua một khung cửa sổ. Mười hai năm sống như bò non sẽ ảnh hưởng gì đến đầu óc chúng? Malorie tự hỏi, có ích gì khi mà những đám mây trời trở nên hư ảo và phía sau dải băng đen bịt mắt là nơi duy nhất họ từng cảm thấy là nhà?
Malorie khó nhọc nuốt khan và tưởng tượng ra việc tự mình nuôi nấng lũ trẻ cho đến khi chúng trở thành thiếu niên.
Liệu cô có thể làm điều đó không? Liệu cô có thể bảo vệ chúng mười năm nữa không? Liệu cô có thể trông nom chúng đủ lâu để chúng trông nom được cô? Để làm gì? Cô đang bảo vệ cho chúng một cuộc sống kiểu gì vậy?
Mày là một bà mẹ tồi, cô nghĩ.
Vì không làm sao để chúng biết được sự rộng lớn của bầu trời. Vì không làm sao để chúng được tự do bay nhảy ngoài sân, trước ngõ, trên khu phố có những ngôi nhà trống không và những chiếc xe dầm mưa dãi nắng. Hay cho phép chúng chỉ một lần, chỉ một lần thôi, nhìn vào khoảng không gian khi bầu trời chuyển thành màu đen và bỗng nhiên, lấp lánh những vì sao thật đẹp.
Mày đang bảo vệ tính mạng của chúng để sống một cuộc sống không đáng sống.
Malorie thấy những tấm rèm dịu đi một chút qua ánh nhìn mờ mờ đầy nước mắt. Ngoài kia nếu có sương mù thì chẳng mấy chốc cũng tan. Và nếu nó giúp được cô, nếu nó che chắn được cho cô và bọn trẻ khi họ đi đến dòng sông, đến chỗ con thuyền, thì cô phải đánh thức bọn trẻ ngay bây giờ.
Cô đập một tay lên bàn ăn và lau khô mắt.
Đứng dậy và rời khỏi bếp, Malorie đi hết hành lang rồi bước vào phòng ngủ của bọn trẻ.
“Boy!” cô hét lên. “Girl! Dậy thôi.”
Phòng ngủ tối đen. Cửa sổ duy nhất được che chắn vô số chăn đủ để ngay cả khi nắng gắt nhất, ánh sáng cũng không lọt được vào. Có hai tấm đệm, mỗi cái ở một bên phòng. Bên trên là màn chụp phủ vải đen. Ngày trước, tấm lưới làm khung đỡ mảnh vải này được dùng để rào bao quanh khu vườn nhỏ cạnh giếng ở sân sau. Nhưng trong bốn năm qua, nó được dùng làm áo giáp, không phải để bảo vệ bọn trẻ trước thứ có thể nhìn thấy chúng, mà là thứ chúng có thể nhìn thấy. Malorie nghe thấy chuyển động bên dưới và cô quỳ xuống để nới lỏng những sợi dây thép đang buộc chặt vào đinh đóng xuống sàn gỗ của căn phòng. Cô đã sẵn sàng rút những dải băng bịt mắt từ trong túi ra khi hai đứa trẻ nhìn cô với bộ dạng ngái ngủ và ngạc nhiên.
“Mẹ?”
“Đứng dậy. Ngay bây giờ. Mẹ cần các con di chuyển thật gấp.”
Bọn trẻ phản ứng rất nhanh. Chúng không rên rỉ và phàn nàn.
“Chúng ta sẽ đi đâu?” Đứa con gái hỏi.
Malorie đưa cho nó một dải băng bịt mắt và nói: “Đeo cái này vào. Chúng ta sẽ đi đến dòng sông.”
Hai đứa trẻ cầm lấy và buộc chặt dải vải đen qua mắt. Chúng rất quen với hành động này. Thành thạo, như bất kì việc gì khác mà một đứa trẻ bốn tuổi có thể thành thạo. Điều đó làm trái tim Malorie tan vỡ. Chúng chỉ là trẻ con và chúng lẽ ra phải hiếu kì. Chúng lẽ ra phải hỏi cô tại sao hôm nay họ lại ra sông, dòng sông họ chưa bao giờ đến trước đây.
Nhưng thay vào đó, chúng chỉ làm đúng như được bảo.
Malorie chưa đeo băng bịt mắt cho mình. Cô sẽ chuẩn bị cho bọn trẻ sẵn sàng trước.
“Mang theo trò chơi đố chữ của con,” cô nói với đứa con gái. “Và mang theo chăn, cả hai đứa.”
Sự phấn khích trong cô không thể gọi tên. Nó giống với kích động nhiều hơn. Bước từ phòng này sang phòng khác, Malorie kiểm tra đồ đạc, những vật dụng nhỏ mà họ có thể cần. Đột nhiên, cô cảm thấy như mình chưa chuẩn bị gì. Cô cảm thấy bất an, cứ như ngôi nhà và mặt đất bên dưới vừa mới biến mất, phơi bày cô hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Thế nhưng, trong giây phút điên rồ đó, cô bám chặt vào ý nghĩ về dải băng bịt mắt. Bất chấp cô mang theo cái gì, bất chấp đồ vật gì trong nhà có thể dùng làm vũ khí, cô biết rằng những dải băng bịt mắt là sự bảo vệ mạnh mẽ nhất với họ.
“Mang theo chăn của các con!” Cô nhắc chúng, nghe thấy hai cơ thể nhỏ bé đang tự chuẩn bị. Sau đó, cô bước vào phòng để giúp chúng. Boy, bé nhỏ so với tuổi nhưng có sức khỏe dẻo dai làm Malorie tự hào, đang lựa chọn giữa hai cái áo đều quá khổ đối với nó. Chúng từng thuộc về một người lớn, đã ra đi từ lâu. Malorie chọn thay nó và nhìn cái đầu đen biến mất trong chiếc áo, sau đó lại trồi lên qua cổ áo. Trong tâm trạng lo lắng, Malorie nhận ra rằng đứa con trai gần đây đã lớn thêm một chút.
Girl, vóc dáng trung bình so với lứa tuổi, đang cố gắng tròng một chiếc váy qua đầu, chiếc váy Malorie và con bé đã cùng khâu từ tấm ga trải giường.
“Trời đang lạnh, Girl. Váy không đủ ấm đâu.”
Girl nhăn nhó, mái tóc vàng rối bù vì vừa ngủ dậy.
“Con sẽ mặc cả quần nữa, Mẹ ạ. Chúng con còn có chăn nữa mà.”
Malorie cáu tiết. Cô không muốn đối mặt với bất kì sự phản kháng nào. Không phải hôm nay. Không phải ngay cả khi con bé đúng.
“Hôm nay không váy vóc gì cả.”
Thế giới ngoài kia, những nhà hàng và cửa hiệu trống vắng, nghìn nghịt xe cộ không sử dụng, những hàng hóa bị lãng quên trên giá, tất cả đang đè lên ngôi nhà này. Tất cả đều đang thì thầm về những thứ đang đợi họ.
Cô lấy áo khoác trong tủ phòng ngủ nằm ở cuối hành lang. Sau đó, cô rời khỏi phòng và biết đây là lần cuối cùng cô làm thế.
“Mẹ ơi,” đứa con gái nói khi gặp cô ở hành lang. “Chúng ta có cần mang theo còi xe đạp không?”
Malorie hít một hơi sâu.
“Không cần đâu,” cô trả lời. “Ba chúng ta sẽ đi cùng nhau. Suốt hành trình.”
Khi Girl quay lại phòng ngủ, Malorie nghĩ điều này thật đáng thương làm sao, những chiếc còi xe đạp lại là phương tiện giải trí thú vị nhất đối với bọn trẻ. Chúng đã chơi thứ đó nhiều năm. Cuộc đời chúng dành trọn cho việc bóp còi chạy quanh phòng khách. Âm thanh lớn đó thường làm Malorie thấp thỏm. Nhưng cô không bao giờ lấy chúng đi. Chưa bao giờ giấu chúng đi. Ngay cả trong giai đoạn mới làm mẹ đầy lo lắng, Malorie hiểu rằng trong thế giới này, bất cứ thứ gì làm bọn trẻ cười khúc khích đều tốt cả.
Ngay cả khi chúng làm Victor sợ hãi.
Ôi, Malorie nhớ chú chó đó quá! Trong những ngày đầu tự tay nuôi bọn trẻ, cô đã mơ về chuyến du hành trên sông với Victor, chú chó collie lanh lợi, ngồi bên mình trong khoang thuyền. Victor sẽ báo động cho cô nếu có con thú nào đến gần. Có lẽ nó còn có khả năng dọa đuổi một số thứ.
“Được rồi,” cô nói, cơ thể gầy gò đứng trong ngưỡng cửa phòng ngủ của bọn trẻ. “Thế được rồi. Bây giờ, chúng ta sẽ đi.”
Đôi khi, trong những buổi chiều êm ả, những buổi tối giông tố, Malorie nói với chúng rằng ngày này sẽ đến. Phải, trước đây cô đã nói về dòng sông, về chuyến đi. Cô cẩn thận không bao giờ gọi đó là “cuộc trốn chạy” bởi vì cô không chịu đựng được việc chúng tin rằng cuộc sống hằng ngày của chúng là thứ gì đó phải trốn chạy. Thay vì vậy, cô nói trước với chúng rằng vào một buổi sáng nào đó, khi cô đánh thức chúng dậy một cách vội vã, yêu cầu chúng phải chuẩn bị để rời khỏi ngôi nhà này vĩnh viễn. Cô biết rằng chúng có thể nhận thấy sự bất an của cô, giống như chúng có thể nghe thấy một con nhện bò trên kính cửa sổ che kín rèm. Nhiều năm qua, trong tủ bếp luôn để một bịch thức ăn nhỏ, để trong đó cho đến khi nó bắt đầu bốc mùi, luôn được thay thế, luôn được bổ sung, bằng chứng của Malorie, bằng chứng của việc cô có thể đánh thức chúng như cô đã nói với chúng là mình sẽ làm. Con thấy đấy, cô nghĩ, hồi hộp kiểm tra rèm cửa, thức ăn trong tủ bếp là một phần của kế hoạch.
Và bây giờ, ngày này đã đến. Buổi sáng hôm nay. Giờ phút này. Màn sương mù này.
Boy và Girl bước về phía trước, Malorie quỳ gối trước mặt chúng. Cô kiểm tra băng bịt mắt của chúng. Chúng đã được buộc chặt. Vào giây phút đó, nhìn từ khuôn mặt nhỏ bé này sang khuôn mặt nhỏ bé khác, Malorie nhận thức một cách đầy đủ rằng cuối cùng, cuộc hành trình ra bên ngoài đã bắt đầu.
“Nghe mẹ đây,” cô nắm cằm chúng và nói. “Hôm nay, chúng ta sẽ ngồi thuyền đi trên sông. Đây có thể là một chuyến đi dài. Nhưng điều quan trọng là cả hai con phải làm chính xác những gì mẹ nói. Các con có hiểu không?”
“Vâng ạ.”
“Vâng ạ.”
“Ngoài trời đang lạnh. Các con đã có chăn. Các con đã có băng bịt mắt. Ngay lúc này, các con không cần gì khác nữa. Các con có hiểu không?”
“Vâng ạ.”
“Vâng ạ.”
“Trong bất kì tình huống nào, cả hai con đều không được bỏ băng bịt mắt ra. Nếu các con làm thế, mẹ sẽ đánh các con. Các con có hiểu không?”
“Vâng ạ.”
“Vâng ạ.”
“Mẹ cần đôi tai của các con. Mẹ cần cả hai con lắng nghe cẩn thận hết mức có thể. Trên sông, các con cần lắng nghe ở dưới nước, ở trong rừng. Nếu con nghe thấy thú vật ở trong rừng, hãy nói với mẹ. Nếu con nghe thấy bất kì cái gì ở dưới nước, con sẽ nói với mẹ. Hiểu không?”
“Vâng ạ.”
“Vâng ạ.”
“Đừng hỏi những câu không liên quan đến dòng sông. Con sẽ ngồi đằng trước,” cô vỗ vỗ Boy. Sau đó cô vỗ Girl. “Và con sẽ ngồi đằng sau. Khi chúng ta lên thuyền, mẹ sẽ dẫn các con vào chỗ ngồi. Mẹ sẽ ngồi ở giữa để chèo thuyền. Mẹ không muốn hai con nói chuyện với nhau khi đang ở trên thuyền, ngoại trừ những thứ các con nghe thấy ở trong rừng. Hoặc dưới lòng sông. Hiểu chứ?”
“Vâng ạ.”
“Vâng ạ.”
“Chúng ta sẽ không dừng lại vì bất kì lí do gì. Cho đến khi chúng ta đến được nơi cần đến. Mẹ sẽ cho các con biết đó là nơi nào. Nếu các con đói, lấy đồ ăn ở trong túi này.”
Malorie đặt túi vào bàn tay nhỏ bé của chúng.
“Đừng ngủ gật. Đừng ngủ gật. Mẹ cần đôi tai của các con trong ngày hôm nay hơn bất cứ lúc nào khác.”
“Chúng ta có mang micro theo không?,” đứa con gái hỏi.
“Không.”
Khi Malorie nói, cô nhìn từ khuôn mặt bịt mắt này sang khuôn mặt bịt mắt khác.
“Khi chúng ta rời khỏi căn nhà này, chúng ta sẽ nắm tay nhau và đi bộ theo con đường đến giếng. Chúng ta sẽ đi qua khoảng rừng thưa đằng sau nhà. Cỏ trên con đường dẫn đến sông có thể đã mọc rất cao. Chúng ta có thể phải thả tay nhau ra để đi và nếu chúng ta làm như thế, mẹ muốn các con nắm lấy áo khoác của mẹ hoặc nắm tay nhau. Hiểu không?”
“Vâng ạ.”
“Vâng ạ.”
Chúng có sợ hãi không?
“Nghe mẹ nói này. Chúng ta sẽ đi đến một nơi các con chưa từng đến. Chúng ta sẽ đi khỏi ngôi nhà này xa hơn so với những lần các con từng đi trước đây. Ngoài kia sẽ có những thứ làm các con đau, làm mẹ đau, nếu các con không nghe lời trong lúc này, trong buổi sáng hôm nay.”
Bọn trẻ im lặng.
“Các con có hiểu không?”
“Vâng ạ.”
“Vâng ạ.”
Malorie đã đào tạo chúng rất tốt.
“Được rồi,” cô nói, giọng lộ ra chút kích động. “Chúng ta sẽ đi. Chúng ta sẽ đi ngay bây giờ. Chúng ta sẽ đi.”
Cô áp đầu chúng vào trán mình.
Sau đó, cô cầm tay hai đứa trẻ. Họ đi rất nhanh. Ở trong bếp, Malorie run rẩy quệt mắt và kéo dải băng bịt mắt từ trong túi ra. Cô buộc chặt nó quanh đầu và mái tóc đen dài. Cô dừng lại, bàn tay đặt trên nắm cửa, cánh cửa dẫn đến con đường cô đã đi lấy vô số thùng nước.
Cô chuẩn bị bỏ ngôi nhà này lại phía sau. Sự thực trong giây phút này bóp nghẹt cô.
Khi cô mở cửa, không khí lạnh ùa đến và Malorie bước về phía trước, con mắt trong đầu mờ đi bởi sợ hãi và những cảnh tượng quá hãi hùng để nói ra trước mặt bọn trẻ. Cô lập bập khi nói, gần như hét lên.
“Nắm tay mẹ, cả hai đứa.”
Boy nắm tay trái của Malorie. Girl luồn những ngón tay nhỏ vào tay phải cô.
Họ bước ra khỏi nhà với những đôi mắt bị bịt chặt.
Giếng cách nhà hai mươi mét. Những mẩu gỗ, đã từng là một phần của khung tranh, cắm dọc con đường để định hướng, cả hai đứa trẻ đã chạm đầu mũi giày vào những mẩu gỗ đó vô số lần. Malorie từng nói với chúng rằng nước giếng là loại thuốc duy nhất họ cần. Chính vì thế, Malorie biết rằng lũ trẻ sẽ luôn trân trọng cái giếng. Chúng sẽ không bao giờ than phiền việc đi lấy nước với cô.
Lúc này, họ đã đến chỗ cái giếng, mặt đất gồ ghề dưới chân. Nó có cảm giác mềm mại, không thật.
“Đây là khoảng rừng trống,” Malorie nói.
Cô cẩn thận dắt bọn trẻ. Con đường thứ hai bắt đầu chín mét kể từ giếng. Lối vào con đường này hẹp và nó chia đôi cánh rừng. Dòng sông cách nơi này chưa đến một trăm mét. Trong rừng, Malorie tạm thời thả tay bọn trẻ ra để cô có thể mò mẫm tìm lối vào nhỏ hẹp.
“Nắm áo khoác của mẹ!”
Cô dò dẫm các cành cây cho đến khi tìm thấy một chiếc áo ba lỗ, buộc trên cành cây ở lối vào. Chính cô đã buộc nó ở đây hơn ba năm trước.
Boy nắm lấy túi áo cô và cô cảm thấy Girl nắm lấy tay thằng bé. Malorie gọi chúng khi cô bước đi, liên tục hỏi chúng có nắm tay nhau không. Cành cây đâm vào mặt cô. Cô không kêu la.
Rất nhanh, họ đi đến điểm đánh dấu mà Malorie đã cắm xuống đất. Chân của một chiếc ghế ăn gãy, cắm giữa đường, nằm đó để cô va phải, vấp ngã và nhận ra nó.
Cô phát hiện chiếc thuyền bốn năm trước, neo cách nhà họ năm căn hộ. Dù nó đã ở đó hơn một tháng kể từ lần cuối cùng cô kiểm tra, cô tin nó vẫn ở đó. Nhưng thật khó để không tưởng tượng ra điều tồi tệ nhất. Nếu có người đã lấy nó trước thì sao? Một người phụ nữ khác, giống như cô, sống cách đây năm căn hộ ở phía đối diện, dùng mỗi ngày trong bốn năm qua gom góp đủ lòng can đảm để bỏ chạy. Một phụ nữ từng lạc đến bờ sông trơn trượt này và cũng cảm thấy sự cứu rỗi ấy, mũi nhọn bằng thép của một con thuyền.
Không khí nhấm nháp những vết sẹo trên mặt Malorie. Bọn trẻ không than thở.
Đây không phải thời thơ ấu, Malorie nghĩ, dắt chúng đi về phía dòng sông.
Rồi cô nghe thấy nó. Trước khi đến được bến đậu, cô nghe thấy chiếc thuyền dập dềnh trong nước. Cô dừng lại và kiểm tra dải băng bịt mắt của bọn trẻ, siết lại cho chặt hơn. Cô dẫn chúng bước lên ván gỗ.
Đúng thế, cô nghĩ, nó vẫn còn đây. Giống như xe cộ vẫn đang đỗ trên con phố bên ngoài nhà của họ. Giống như những căn nhà trên phố vẫn trống rỗng.
Trong rừng, cách xa ngôi nhà, trời lạnh hơn. Âm thanh của nước vừa đáng sợ vừa phấn khích. Sau khi quỳ xuống nơi cô nghĩ rằng chiếc thuyền đang đậu, cô thả tay bọn trẻ ra và dò dẫm tìm mũi thuyền bằng thép. Ngón tay cô chạm vào sợi dây buộc thuyền trước.
“Boy,” cô nói, kéo mũi thuyền lạnh giá về phía bến đậu, “Phía trước. Ngồi phía trước.” Cô đỡ nó. Khi nó đã ngồi vững, cô ôm mặt nó bằng cả hai tay và nói lần nữa, “Lắng nghe. Ở dưới nước. Lắng nghe.”
Cô bảo Girl đứng lại trên bến chờ cô mò mẫm tháo sợi dây buộc trước khi cẩn thận trèo vào giữa thuyền. Cô lom khom đỡ đứa bé lên thuyền. Chiếc thuyền lắc lư dữ dội và Malorie siết chặt lấy đứa bé. Nó không khóc.
Đáy thuyền có cả lá, cành cây và nước. Malorie gạt chúng đi để tìm mái chèo cô đã cất ở bên mạn phải thuyền. Hai mái chèo lạnh và ướt. Chúng có mùi nấm mốc. Cô đặt chúng vào rãnh thép. Khi cô dùng một chiếc chống vào bến đậu, có cảm giác mạnh mẽ, chắc chắn. Sau đó…
Họ đã ở trên sông.
Dòng nước ấm áp. Nhưng ngoài kia có những âm thanh. Những chuyển động trong rừng.
Malorie nghĩ đến màn sương mù. Cô hi vọng nó đã che chắn cuộc chạy trốn của họ.
Nhưng sương mù sẽ tan đi.
“Các con,” Malorie nói, thở nặng nề, “lắng nghe.”
Cuối cùng, sau bốn năm chờ đợi, huấn luyện và lấy can đảm để bỏ đi, cô chèo thuyền rời khỏi bến, rời khỏi bờ sông và rời khỏi ngôi nhà đã bảo vệ cô cùng bọn trẻ trong khoảng thời gian dài như cả một đời người.
2
Chín tháng trước khi bọn trẻ ra đời, Malorie sống với chị gái Shannon trong căn nhà trọ khiêm tốn mà không ai trong số họ buồn trang trí. Họ chuyển vào ở ba tuần trước, bất chấp sự lo lắng của bạn bè. Malorie và Shannon đều là những phụ nữ thông minh, quảng giao nhưng ở cạnh nhau lại có xu hướng xích mích, điều đó thể hiện ngay trong ngày họ dọn vào nhà.
“Chị nghĩ chị nên ở phòng ngủ lớn hơn,” Shannon nói, đứng trên chiếu nghỉ tầng hai. “Vì chị có nhiều quần áo hơn.”
“Ôi, thôi nào,” Malorie trả lời, ôm thùng sữa chất đầy sách chưa đọc. “Chẳng qua là cửa sổ phòng đó đẹp hơn thôi.”
Hai chị em tranh cãi một lúc lâu ngay trong buổi chiều đầu tiên ở nhà mới, như để minh chứng cho việc bạn bè và gia đình đã đúng về họ. Cuối cùng, Malorie đồng ý tung đồng xu, kết quả nghiêng về phía Shannon, Malorie tin rằng điều đó phần nào đã có sự tính toán từ trước.
Nhưng hôm nay, Malorie không có tâm trí cho những điều nhỏ nhặt mà chị gái khiến cô phát điên. Cô không lặng lẽ theo sau Shannon để thu dọn, đóng cửa tủ, lần theo những chiếc áo len và tất vương vãi dọc hành lang. Cô không cáu kỉnh một cách bất lực, lắc đầu khi bật máy rửa bát hay đẩy cái thùng đầy đồ của Shannon án ngữ giữa phòng khách ra chỗ khác. Thay vào đó, cô cởi trần đứng trước gương trong phòng tắm tầng một, ngắm nghía bụng mình.
Mày đã lỡ một kì kinh trước đấy, cô tự nhủ. Nhưng điều đó khó có thể là niềm an ủi, bởi vì cô đã lo lắng nhiều tuần rồi, biết rằng lẽ ra nên thận trọng hơn với Henry Martin.
Mái tóc đen của cô ôm lấy bờ vai. Môi mím lại lo lắng. Cô đặt tay lên cái bụng phẳng lì của mình và chầm chậm gật đầu. Cho dù cố biện hộ với bản thân như thế nào, cô vẫn cảm thấy mình đang mang thai.
“Malorie!” Shannon gọi từ phòng khách. “Em đang làm gì trong đó thế?”
Malorie không trả lời. Cô quay nghiêng người và ngả đầu. Đôi mắt xanh ngả sang xám trong ánh điện nhợt nhạt của phòng tắm. Cô chống tay lên chiếc chậu rửa mặt màu hồng và ưỡn lưng. Cô đang cố làm cho eo mình nhỏ đi, như thể làm vậy sẽ chứng minh trong bụng mình không mang một sinh linh bé nhỏ.
“Malorie!” Shannon gọi lần nữa. “Có một tin tức khác trên ti vi! Chuyện gì đó đã xảy ra ở Alaska.”
Malorie nghe thấy tiếng chị nhưng chuyện đang diễn ra ở thế giới bên ngoài không còn quan trọng nhiều với cô vào lúc này nữa.
Những ngày gần đây, Internet đang bùng nổ với câu chuyện mà người ta gọi là “Tin tức Nga.” Trong đó, một người đàn ông đang ngồi ở ghế hành khách của chiếc xe tải chạy dọc đường cao tốc đầy tuyết ngoài St. Petersburg bảo bạn mình lái xe tấp vào lề đường rồi tấn công và dùng móng tay giật hết môi người ấy ra. Sau đó, anh ta tự tử trong tuyết bằng chiếc cưa để trên sàn xe. Một câu chuyện rùng rợn, nhưng Malorie cho rằng đó là do Internet đã khiến những sự kiện ngẫu nhiên trở nên nổi tiếng một cách vô nghĩa. Tuy nhiên, sau đó, câu chuyện thứ hai xuất hiện. Tình huống tương tự. Lần này ở Yakustk, cách St. Petersburg năm nghìn dặm về phía đông. Ở đó, một người mẹ “tỉnh táo” theo mọi nghĩa, chôn sống con mình trong vườn nhà trước khi tự tử bằng mảnh vỡ lởm chởm của một chiếc đĩa. Và câu chuyện thứ ba, ở Omsk, Nga, gần hai nghìn dặm về phía đông nam của St. Peterburg, xuất hiện trên mạng và nhanh chóng trở thành chủ đề được bàn tán nhiều nhất trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Lần này có cả đoạn băng ghi hình. Malorie cố gắng xem thử thì thấy trong đó có một người đàn ông cầm rìu, chùm râu quai nón nhuốm máu đỏ ngầu, ra sức tấn công một người đàn ông cầm máy quay không xuất hiện trong khung hình. Cuối cùng, anh ta cũng thành công. Nhưng Malorie không xem đoạn đó. Cô cố gắng không theo dõi những chủ đề đó nữa. Nhưng Shannon, luôn thích kịch tính hơn, khăng khăng nhai đi nhai lại những tin tức đáng sợ đó.
“Alaska,” Shannon nhắc lại qua cánh cửa phòng tắm. “Đó là ở Mỹ, Malorie!”
Mái tóc vàng của Shannon có nguồn gốc Phần Lan của mẹ họ. Malorie giống bố hơn: mắt sâu và sắc, với làn da trắng mịn của người phương bắc. Được nuôi lớn ở Upper Peninsula, cả hai đều mơ mộng sống ở miền nam, gần Detroit, nơi họ tưởng tượng ra có vô số bữa tiệc, các buổi hòa nhạc, cơ hội việc làm và đàn ông.
Mục cuối cùng chưa được minh chứng là có lợi với Malorie cho đến khi cô gặp Henry Martin.
“Ôi Chúa tôi,” Shannon hét lên. “Chuyện này có lẽ đã xảy ra ở Canada nữa. Thực sự nghiêm trọng đấy, Malorie. Em đang làm gì trong đó thế?”
Malorie mở vòi và để nước lạnh chạy qua những ngón tay. Cô hắt một ít nước lên mặt. Nhìn vào gương, cô nghĩ đến bố mẹ mình vẫn còn ở Upper Peninsula. Họ chưa từng nghe đến Henry Martin. Cô chưa nói chuyện với anh ta kể từ cái hôm tình một đêm của họ. Vậy mà giờ đây, cô có thể đã bị ràng buộc với anh ta mãi mãi.
Đột nhiên, cửa phòng tắm bật mở. Malorie túm lấy một chiếc khăn.
“Chết tiệt, Shannon.”
“Em có nghe chị nói không đấy, Malorie? Câu chuyện đó ở khắp mọi nơi. Người ta đang nói nó liên quan đến việc nhìn thấy thứ gì đó. Không lạ sao? Chị vừa nghe CNN nói rằng đó là điểm giống nhau trong mọi sự cố. Nạn nhân nhìn thấy thứ gì đó trước khi tấn công người khác và tự tử. Em có tin được chuyện này không? Tin được không?”
Malorie từ từ quay lại với chị gái. Khuôn mặt không biểu hiện cảm xúc gì.
“Này, em khỏe không, Malorie? Trông em không được ổn lắm.”
Malorie bắt đầu khóc. Cô cắn môi dưới. Cô đã cầm khăn nhưng chưa che người. Cô vẫn đứng trước gương như đang kiểm tra cái bụng trần của mình. Shannon nhận ra điều này.
“Ôi chết tiệt,” Shannon nói. “Em đang lo rằng em…”
Malorie gật đầu. Hai chị em bước về phía nhau trong phòng tắm màu hồng và Shannon ôm lấy Malorie, vỗ vỗ lưng an ủi.
“Được rồi,” cô nói. “Đừng hoảng hốt. Đi thử đã. Mọi người vẫn làm thế mà. Được không? Đừng lo lắng. Chị cá với em rằng nửa số người thử xong rồi ra kết quả là chả bầu bì gì.”
Malorie không trả lời. Cô chỉ thở dài.
“Được rồi,” Shannon nói. “Đi nào.”