Lồng Chim (Bird Box) - Chương 14

27

Malorie thức dậy khỏi những giấc mơ về bọn trẻ. Lúc đó là đầu giờ sáng hoặc đêm muộn, cô đoán thế. Căn nhà im lặng. Thời gian mang thai càng lâu, thực tế càng trở nên sống động đối với cô. Cả hai cuốn Mang thai và Cuối cùng… Một đứa bé! đều bàn luận ngắn gọn về việc sinh đẻ ở nhà. Tất nhiên, có thể thực hiện việc đó mà không cần hỗ trợ chuyên môn, nhưng cuốn sách nào cũng quan ngại về việc này. Vấn đề vệ sinh, họ viết thế. Những tình huống không thể đoán trước. Olympia ghét đọc những đoạn này nhưng Malorie biết họ phải đọc.

Một ngày, nỗi đau mà mẹ bạn và mọi người mẹ khác từng nói sẽ đến với bạn trong hình dạng y như thế: sinh con. Chỉ có phụ nữ mới trải qua việc này và bởi vậy mà mọi phụ nữ đều có mối liên kết với nhau.

Thời điểm đó đang đến. Bây giờ. Và ai sẽ ở đó khi nó diễn ra? Trong thế giới cũ, câu trả lời thật dễ. Shannon, tất nhiên. Mẹ và Bố. Bạn bè. Một y tá cam đoan với cô rằng cô đang làm rất đúng. Sẽ có hoa trên bàn. Chăn ga có mùi sạch sẽ. Cô sẽ được chăm sóc bởi những người đã sinh con trước đây, họ sẽ hành động như thể đây là việc tách quả hồ trăn ra khỏi vỏ. Và biểu hiện nhẹ nhõm của họ chính là thứ xoa dịu nỗi lo lắng không thể chịu đựng nổi của cô.

Nhưng đó không còn là câu trả lời nữa. Bây giờ, việc sinh nở Malorie đang chờ đón giống như việc sinh nở của một con sói mẹ: tàn nhẫn, độc ác, vô nhân tính. Sẽ không có bác sĩ. Không y tá.

Không thuốc thang.

Ôi, làm sao cô có thể hình dung ra mình biết phải làm gì! Làm sao cô có thể nghĩ rằng mình đã được chuẩn bị! Báo chí, trang web, đoạn phim, lời khuyên từ chuyên gia, câu chuyện của những người mẹ khác. Nhưng lúc này cô không có gì. Không gì cả! Cô sẽ không sinh con trong bệnh viện, chuyện đó sẽ diễn ra ngay trong ngôi nhà này. Tại một trong những căn phòng của ngôi nhà này! Và điều cô có thể mong đợi nhiều nhất là Tom giúp mình, còn Olympia nắm tay và nhìn cô trong nỗi kinh hoàng. Những tấm vải che kín cửa sổ. Chắc sẽ có một cái áo phông lót dưới mông cô. Cô sẽ uống một cốc nước giếng đục.

Và chính thế. Đó là chuyện sẽ diễn ra.

Cô xoay người nằm ngửa. Thớ thật mạnh và chậm, cô nhìn chằm chằm lên trần nhà. Cô nhắm mắt, sau đó lại mở ra. Cô có thể làm việc này không? Cô có thể không?

Và cô phải làm. Vì thế cô nhắc đi nhắc lại câu thần chú, những lời giúp cô sẵn sàng.

Đến cuối cùng, việc này diễn ra trong bệnh viện hay trên sàn bếp không thành vấn đề. Cơ thể biết nó phải làm gì. Cơ thể biết nó phải làm gì. Cơ thể biết nó phải làm gì.

Đứa bé sắp ra đời là điều duy nhất quan trọng và vượt lên tất cả.

Đột nhiên, như thể nhại lại âm thanh của đứa bé Malorie đang chờ đón, cô nghe thấy tiếng chim hót bên ngoài cửa ra vào. Cô thoát khỏi suy nghĩ của mình và quay về phía âm thanh phát ra. Trong lúc từ từ ngồi dậy trên giường, cô nghe thấy tiếng gõ cửa vang lên.

Người cô đông cứng.

Cái gì đang ở ngoài cửa? Có phải Tom không? Có người ra ngoài sao?

Cô lại nghe thấy âm thanh đó và ngạc nhiên, cô ngồi dậy. Cô đặt một bàn tay lên bụng và lắng nghe.

Nó lại vang lên.

Malorie từ từ đặt chân xuống sàn, đứng lên rồi đi ngang phòng. Cô dừng lại ở cửa, một tay đặt trên bụng, một tay tựa vào khung cửa gỗ và lắng nghe.

Một tiếng gõ nữa. Lần này to hơn.

Cô đi đến đầu cầu thang và dừng lại.

Ai thế?

Trong bộ pijama, cơ thể cô lạnh buốt. Đứa bé cựa quậy. Malorie cảm thấy hơi choáng váng. Lũ chim vẫn đang ầm ĩ.

Đó có phải một trong những người cùng nhà không?

Cô quay lại phòng ngủ và lấy một chiếc đèn pin. Cô đến phòng Olympia và chiếu đèn vào giường cô ấy. Cô ấy đang ngủ. Trong căn phòng ở cuối hành lang, cô thấy Cheryl đang nằm trên giường.

Malorie từ từ đi qua hành lang, xuống phòng khách.

Tom.

Tom đang ngủ trên thảm. Felix nằm trên đi văng.

“Tom,” Malorie nói, chạm vào vai anh. “Tom, dậy đi.”

Tom trở mình. Rồi anh đột nhiên nhìn Malorie.

“Tom,” cô gọi.

“Mọi chuyện ổn chứ?”

“Có người đang gõ cửa.”

“Cái gì? Lúc này ư?”

“Ngay lúc này.”

Một tiếng gõ nữa vang lên. Tom ngoảnh mặt về phía hành lang.

“Ôi trời. Mấy giờ rồi?”

“Tôi không biết. Muộn rồi.”

“Được rồi.”

Tom nhanh nhẹn đứng lên. Anh dừng lại, như thể cố tỉnh giấc hoàn toàn, bỏ lại giấc ngủ trên sàn nhà. Anh vẫn đang mặc quần áo chỉnh tề. Bên cạnh chỗ anh ngủ, Malorie thấy những mảnh ghép của một chiếc mũ bảo hiểm khác. Tom bật đèn phòng khách.

Rồi hai người họ đi đến cửa chính. Họ dừng lại ở hành lang. Một loạt tiếng gõ cửa nữa vang lên.

“Xin chào?” Một người đàn ông nói.

Malorie túm tay Tom. Tom bật đèn hành lang.

“Xin chào?” Người đàn ông đó nói lần nữa.

Thêm những tiếng gõ cửa.

“Tôi cần được vào nhà!” Người đàn ông đó nói. “Tôi không có chỗ nào khác để đi. Xin chào?”

Cuối cùng, Tom bước về phía cửa. Từ cuối hành lang, Malorie thấy một bóng người chuyển động. Đó là Don.

“Chuyện gì thế?” Anh hỏi.

“Có người ở cửa,” Tom nói.

Don, gần như chưa tỉnh, có vẻ bối rối. Rồi anh quát: “À, thế anh định làm gì?”

“Tôi sẽ nói chuyện với anh ta,” Tom nói.

“Chúng ta không phải là một cái nhà trọ chết dẫm đâu Tom,” Don gằn giọng.

“Tôi chỉ nói chuyện với anh ta thôi mà.”

Rồi Don bước về phía họ. Malorie nghe thấy tiếng sột soạt ở tầng trên.

“Liệu có ai ở đó để tôi có thể…”

“Anh là ai?” Cuối cùng, Tom hỏi.

Một thoáng im lặng. Rồi, “Ôi, tạ ơn Chúa là có người trong đó! Tên tôi là Gary.”

“Anh ta có thể là người xấu,” Don nói. “Anh ta có thể bị điên.”

Felix và Cheryl xuất hiện ở cuối hành lang. Họ có vẻ kiệt sức. Lúc này Jules cũng đã ở đây. Những chú chó ở đằng sau họ.

“Chuyện gì thế, Tom?”

“Này, Gary,” Tom nói, “kể với chúng tôi thêm một chút về anh đi?”

Những chú chim đang gù.

“Ai thế?” Felix hỏi.

“Tên tôi là Gary và tôi bốn mươi sáu tuổi. Tôi có râu quai nón màu nâu. Tôi đã không mở mắt trong một thời gian rất dài.”

“Tôi không thích giọng nói của anh ta,” Cheryl nói.

Bây giờ, Olympia cũng đã ở đây.

Tom hỏi: “Vì sao anh ở ngoài đó?”

Gary nói: “Tôi phải rời khỏi ngôi nhà đang sống. Những người ở đó không tốt. Một chuyện đã xảy ra.”

“Ý anh là thế quái nào?” Don hỏi.

Gary dừng lại. Rồi, “Họ trở nên bạo lực.”

“Như thế chưa đủ thuyết phục,” Don nói với những người khác. “Đừng mở cửa.”

“Gary,” Tom gọi, “anh ở ngoài đó bao lâu rồi?”

“Hai ngày, tôi nghĩ thế. Có thể gần ba ngày.”

“Anh đã ở đâu?”

“Ở đâu á? Trên bãi cỏ. Dưới bụi cây.”

“Chết tiệt,” Cheryl nói.

“Nghe này,” Gary nói. “Tôi đang đói. Tôi có một mình. Và tôi rất sợ. Tôi hiểu rằng các anh phải thận trọng nhưng tôi không có nơi nào khác để đi nữa.”

“Anh thử đến những ngôi nhà khác chưa?” Tom hỏi.

“Có! Tôi đã gõ cửa rất nhiều nhà. Các anh là người đầu tiên trả lời.”

“Sao anh ta biết mình ở đây?” Malorie hỏi mọi người.

“Có lẽ anh ta không biết,” Tom nói.

“Anh ta gõ cửa một lúc lâu. Anh ta biết mình ở đây.”

Tom quay sang Don. Vẻ mặt anh như muốn hỏi Don đang nghĩ gì.

“Không đời nào.”

Giờ Tom đang toát mồ hôi.

“Tôi biết anh muốn thế,” Don giận dữ nói tiếp. “Anh đang hi vọng anh ta cung cấp thông tin.”

“Đúng thế,” Tom nói. “Tôi đang hi vọng anh ta có thông tin. Tôi cũng nghĩ anh ta cần sự giúp đỡ của chúng ta.”

“Phải rồi. Chà, tôi nghĩ ngoài kia có thể có bảy người đàn ông, sẵn sàng cắt cổ chúng ta.”

“Ôi Chúa tôi,” Olympia nói.

“Jules và tôi đã ở ngoài đó hai ngày trước,” Tom nói. “Anh ta đã đúng về việc những ngôi nhà khác không có người.”

“Vậy tại sao anh ta không ngủ ở một trong những ngôi nhà đó?”

“Tôi không biết, Don. Vì đói chẳng hạn?”

“Và các anh ở ngoài đó cùng lúc. Nhưng anh ta không nghe thấy các anh ư?”

“Chết tiệt,” Tom nói. “Tôi không biết trả lời câu hỏi đó kiểu gì. Anh ta có thể ở cách đó một con phố.”

“Các anh không xem xét những ngôi nhà đó. Làm sao các anh biết anh ta đang nói thật?”

“Cho anh ta vào đi,” Jules nói.

Don đối mặt với anh.

“Ở đây không làm thế được, anh bạn.”

“Vậy thì biểu quyết đi.”

“Thôi cái trò quái quỷ ấy đi,” Don nói, nổi giận đùng đùng. “Nếu một trong số chúng ta không muốn mở cánh cửa chết tiệt kia, chúng ta không nên mở cánh cửa chết tiệt kia.”

Malorie nghĩ đến người đàn ông trên mái hiên. Cô tưởng tượng mắt anh ta đang nhắm. Anh ta đang run rẩy.

Lũ chim vẫn đang gù.

“Xin chào?” Gary lại nói. Giọng anh ta có vẻ căng thẳng, mất bình tĩnh.

“Ừm,” Tom nói. “Tôi xin lỗi, Gary. Chúng tôi vẫn đang bàn bạc.” Sau đó, anh quay sang những người khác. “Biểu quyết,” anh quyết định.

“Có,” Felix nói.

Jules gật đầu.

“Tôi xin lỗi,” Cheryl nói. “Không.”

Tom nhìn sang Olympia. Cô ấy lắc đầu bảo không.

“Tôi ghét phải làm việc này với cô, Malorie,” anh ấy nói, “nhưng tỉ số đang hòa nhau. Chúng ta sẽ làm gì?”

Malorie không muốn trả lời. Cô không muốn thứ quyền lực này. Số phận người lạ mặt đang phụ thuộc vào cô.

“Có lẽ anh ta cần giúp đỡ,” cô nói. Nhưng, ngay sau khi cất lời, cô ước mình đã không làm thế.

Tom quay ra cửa. Don lao đến và túm cổ tay anh.

“Tôi không muốn mở cánh cửa đó,” anh rít lên.

“Don,” Tom nói, từ từ gỡ tay mình khỏi tay Don, “chúng ta đã biểu quyết, chúng ta sẽ cho anh ta vào. Giống như chúng ta đã cho Olympia và Malorie vào. Giống như George đã cho tôi và anh vào.”

Don nhìn Tom chằm chằm trong một khoảng thời gian mà Malorie cảm thấy rất lâu. Liệu sự việc lần này có dẫn đến một cuộc ẩu đả không?

“Hãy nghe tôi,” Don nói. “Nếu chuyện này mà gây ra hậu quả tồi tệ nào đó, nếu tính mạng tôi bị đe dọa bởi cái trò biểu quyết chết giẫm này, tôi sẽ không dừng lại để giúp mấy người trên đường ra khỏi ngôi nhà này đâu.”

“Don,” Tom hét lên.

“Xin chào?” Gary gọi.

“Cứ nhắm mắt!” Tom hét lên. “Chúng tôi sẽ cho anh vào nhà.”

Bàn tay Tom đặt trên nắm đấm.

“Jules, Felix,” Tom nói, “dùng chổi. Cheryl, Malorie, các cô cần đến gần anh ta, kiểm tra anh ta. Được chứ? Giờ mọi người, nhắm mắt lại.”

Trong bóng tối, Malorie nghe tiếng cửa mở.

Im lặng. Rồi Gary nói.

“Cửa mở chưa?” Anh ta nôn nóng hỏi.

“Nhanh lên,” Tom nói.

Malorie nghe thấy tiếng sột soạt, cửa ra vào đóng lại. Cô bước về phía trước.

“Vẫn nhắm mắt, Gary,” cô nói.

Cô với tay về phía anh ta, tìm anh ta và đưa tay lên mặt anh ta. Cô sờ thấy mũi, má, hốc mắt của anh ta. Cô chạm vào vai anh ta và bảo anh ta đưa một tay cho mình.

“Chuyện này thật mới mẻ đối với tôi,” anh ta nói, “Cô đang tìm…”

“Suỵt!”

Cô sờ tay anh ta và đếm ngón tay. Cô sờ móng tay và một ít lông trên đốt ngón tay.

“Được rồi,” Felix nói. “Tôi nghĩ anh ta có một mình.”

“Đúng thế,” Jules nói. “Anh ta có một mình.”

Malorie mở mắt ra.

Cô nhìn thấy một người đàn ông, lớn tuổi hơn mình rất nhiều, với hàng râu quai nón màu nâu và chiếc áo khoác vải tuýt mặc ngoài áo len đen. Anh ta có mùi như đã ở bên ngoài nhiều tuần rồi.

“Cám ơn,” anh ta vừa nói vừa thở hổn hển.

Ban đầu, không ai trả lời. Họ chỉ quan sát anh ta.

Mái tóc nâu rối bù chải hết sang một bên. Anh ta lớn tuổi và to con hơn bất kì người nào trong nhà. Trong tay anh ta là một chiếc vali nâu.

“Cái gì ở trong đó?” Don hỏi.

Gary nhìn chiếc vali như thể anh ta đã quên là mình đang cầm nó.

“Đồ đạc của tôi,” anh ta nói. “Những thứ tôi túm vội được trong lúc bỏ đi.”

“Thứ gì?” Don hỏi.

Gary, vừa có vẻ ngạc nhiên vừa có vẻ thông cảm, mở vali ra. Anh quay nó về phía những người trong nhà. Giấy tờ. Bàn chải đánh răng. Một chiếc áo sơ mi. Một cái đồng hồ.

Don gật đầu.

Khi Gary đóng vali lại, anh ta nhận ra bụng của Malorie. “Ôi trời,” anh ta nói. “Cô sắp đến ngày rồi, đúng không?”

“Phải,” cô điềm tĩnh nói, không biết liệu họ có thể tin tưởng người đàn ông này hay không.

“Những chú chim đó để làm gì?” Anh ta hỏi.

“Báo động,” Tom nói.

“Hẳn là thế,” Gary nói. “Chim bạch yến trong mỏ(*). Các bạn thật thông minh. Tôi nghe thấy chúng khi đến gần.”

Sau đó, Tom mời Gary dạo một vòng quanh nhà. Những chú chó ngửi người anh ta. Tom chỉ chiếc ghế bành trong phòng khách.

“Anh có thể ngủ ở đó đêm nay,” anh nói. “Nó ngả ra được. Anh cần ăn gì không?”

“Có,” Gary nói và thở phào.

Tom dẫn anh ta đi qua bếp vào phòng ăn.

“Chúng tôi cất đồ hộp dưới tầng hầm. Tôi sẽ lấy cho anh thứ gì đó.”

Tom lặng lẽ ra hiệu cho Malorie đi theo anh vào bếp. Cô đi theo.

“Tôi sẽ thức cùng anh ta một lúc,” Tom nói. “Ngủ thêm một chút nếu cô muốn. Mọi người đều kiệt sức rồi. Không sao đâu. Tôi sẽ lấy cho anh ta một ít thức ăn, nước uống và chúng ta sẽ nói chuyện với anh ta vào ngày mai. Tất cả chúng ta.”

“Tôi chẳng thể ngủ nghê gì nữa vào lúc này,” Malorie nói.

Tom mỉm cười, vẻ mệt mỏi.

“Được thôi.”

Anh đi xuống hầm. Malorie tụ tập với những người khác trong phòng ăn. Khi Tom quay lại, anh mang theo một hộp đào.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ,” Gary nói, “một ngày nào đó dụng cụ quý giá nhất trên thế giới này sẽ là cái mở hộp.”

Mọi người ngồi cùng nhau trong phòng ăn. Tom hỏi Gary. Anh thoát khỏi nơi đó bằng cách nào? Anh đã ngủ ở đâu? Rõ ràng Gary đã kiệt sức. Dần dần, từng người một, bắt đầu từ Don, về phòng ngủ của họ. Khi Tom cùng Gary trở lại phòng khách, Malorie và Olympia đứng dậy khỏi bàn. Ở cầu thang, Olympia đặt tay lên tay Malorie.

“Malorie,” cô ấy nói, “cô có phiền nếu tôi ngủ cùng cô tối nay không?”

Malorie quay sang.

“Không,” cô đáp lại. “Tôi không phiền gì cả.”

28

Sáng hôm sau, Malorie tỉnh dậy và mặc quần áo. Có vẻ như mọi người đều ở tầng dưới.

“Các anh cũng có điện à?” Felix đang hỏi khi Malorie bước vào phòng khách.

Gary đang ngồi trên đi văng. Nhìn thấy Malorie, anh ta mỉm cười.

“Đây là,” Gary nói, khua tay về phía cô, “thiên thần đã sờ mặt tôi khi tôi bước vào nhà. Tôi phải thừa nhận rằng, sự tiếp xúc với con người suýt nữa làm tôi bật khóc.”

Malorie nghĩ Gary nói gần giống như một diễn viên. Màu mè hoa lá.

“Và cũng là lá phiếu quyết định số phận của tôi nhỉ?” Gary hỏi.

“Đúng thế,” Tom trả lời.

Gary gật đầu.

“Ngôi nhà tôi ở trước đây, không hề có sự khách khí như thế. Nếu ai có ý tưởng gì, họ thực hiện nó, rất quyết đoán, cho dù mọi người có tán thành hay không. Gặp được những người vẫn còn giữ lại sự văn minh của cuộc sống cũ thật là mới mẻ.”

“Tôi đã biểu quyết phản đối,” Don đột ngột nói.

“Thế à?” Gary hỏi.

“Phải, đúng thế. Bảy người sống dưới một mái nhà là đủ rồi.”

“Tôi hiểu.”

Một con husky nhổm dậy và đi đến chỗ Gary. Gary gãi đám lông sau tai nó.

Tom bắt đầu giải thích với anh ta những điều anh đã từng giải thích cho Malorie. Thủy điện. Nguồn cung ứng trong hầm. Việc thiếu một cuốn danh bạ. George chết như thế nào. Một lúc sau, Gary bắt đầu kể về những người bạn cùng nhà cũ. Một “người phiền toái” tin rằng những sinh vật này chẳng có hại gì.

“Anh ta tin rằng phản ứng của con người đối với chúng là do chứng căng thẳng thần kinh. Nói cách khác, tất cả sự om sòm mất trí này không phải do các sinh vật gây ra, mà bởi những người nhìn thấy chúng vốn đã thái quá.”

Sự om sòm mất trí, Malorie nghĩ. Những lời phủ nhận này thuộc về bạn cùng nhà cũ của Gary sao? Hay là của Gary?

“Tôi muốn kể cho các bạn nghe những trải nghiệm của tôi ở nhà cũ,” Gary tiếp tục. “Nhưng tôi xin cảnh báo đó là những trải nghiệm đen tối.”

Malorie muốn nghe chuyện đó. Tất cả bọn họ. Gary lùa tay vào tóc. Rồi anh ta bắt đầu.

“Chúng tôi không đáp lại lời kêu gọi nào trên báo và chúng tôi không trẻ như các bạn. Chúng tôi không có ý thức cộng đồng, không chung lưng đấu cật. Anh trai Duncan của tôi có một người bạn cho rằng những Tin tức Nga rất nghiêm trọng. Anh ta là một trong những người sớm tin vào chuyện đó. Nó phù hợp với thuyết âm mưu và trí tưởng tượng hoang đường của anh ta rằng chính phủ hay người nào đó đang ở ngoài kia để bắt giữ tất cả chúng ta. Tôi thì vẫn có những lúc không thể tin vào chuyện đang xảy ra. Và ai có thể trách tôi chứ? Tôi hơn bốn mươi tuổi. Quá quen với cuộc sống hiện tại nên tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra một chuyện như thế này. Tôi chống lại nó. Nhưng Kirk, bạn của anh trai tôi, rất chắc chắn về nó ngay từ ban đầu. Và dường như không gì có thể lung lay anh ta. Một buổi chiều, Duncan gọi và nói với tôi rằng Kirk đề nghị chúng tôi đến chỗ anh ta ở vài ngày, hoặc cho đến khi chúng tôi biết thêm về ‘thứ’ này.”

“Thứ gì?” Tôi hỏi.

“Gary, trên ti vi nói suốt đấy.”

“Thứ gì, Duncan? Chuyện xảy ra ở Nga á? Chắc anh đang nói đùa.”

“Thôi nào,” Duncan nói. “Chúng ta sẽ nốc một ít bia, ăn pizza và chiều lòng cậu ấy. Tôi chẳng có gì để mất cả.”

“Tôi nói với anh ấy không, cám ơn. Tụ tập với Kirk điên khùng khi anh ta phân tích những câu chuyện giật gân có vẻ không phải là một khoảng thời gian hay ho đối với tôi. Nhưng không lâu sau tôi đã có mặt ở đó.

Tôi nghe tin tức y như mọi người trên đất nước này. Chúng bắt đầu làm tôi lo lắng. Có quá nhiều tin tức như thế. Nhưng tôi vẫn ngu ngốc cố gắng duy trì sự phủ nhận của mình. Những thứ kiểu như thế không thể nào xảy ra được. Nhưng rồi một tin tức xuất hiện buộc tôi phải hành động. Đó là tin tức về hai chị em ở Alaska. Các bạn có thể thắc mắc vì sao tôi mất quá nhiều thời gian mới bị thuyết phục, chuyện ở Alaska xảy ra khá muộn nhưng Alaska cũng là Mỹ và khoảng cách vừa đủ để tôi không lo lắng cho đến khi chuyện xảy ra ngay gần nhà. Thậm chí, tay phóng viên rõ ràng cũng sợ hãi điều anh ta đang nói. Đúng thế, ngay cả người đưa tin cũng run rẩy.

Các bạn biết tin tức đó rồi đấy. Một cô gái thấy hai chị em người hàng xóm lớn tuổi rời khỏi nhà. Cô ấy cho rằng họ đi dạo như thường ngày. Ba giờ đồng hồ sau, cô ấy nghe đài đưa tin rằng hai chị em đó đang ở trước cổng bệnh viện, núp mình trên những bậc thềm đá, cố gắng cắn những người đi qua. Cô gái đó lái xe đến bệnh viện, nghĩ rằng mình gần gũi với hai chị em đó hơn bất kì người nào khác và có thể giúp. Nhưng không phải như thế. Và những tấm ảnh trên CNN cho thấy cô gái đó bị lột hết mặt, theo đúng nghĩa đen, trên lối đi bên cạnh cái sọ máu me. Cạnh xác cô ấy là hai người phụ nữ già, đã bị cảnh sát bắn chết. Hình ảnh đó làm tôi lạnh toát người. Những con người thật bình thường. Những khu ngoại ô bình thường.

Đối với Kirk, tai nạn ở Alaska đã chứng minh tất cả những giả thuyết hoang đường. Bất chấp nỗi sợ ngày càng tăng, tôi vẫn chưa sẵn sàng đánh đổi cuộc sống mình đã biết với sự tồn tại mới như quân đội mà anh ta đang xây dựng. Tôi đã chuẩn bị che kín cửa sổ, khóa cửa và lẩn trốn, nhưng Kirk đã sẵn sàng lên kế hoạch để tác chiến với thứ mà anh ta tin là một ‘cuộc xâm lược’ - của những người ngoài hành tinh hay thứ gì không rõ. Anh ta nói về vũ khí, đồ đạc và súng như một quân nhân. Tất nhiên anh ta không phải, anh ta chưa bao giờ tòng quân.”

Gary dừng lại. Anh ta có có vẻ cân nhắc.

“Rất nhanh, ngôi nhà chật kín những người đóng vai lính. Kirk thích thú với vị trí tướng quân mới và đứng bên lề, tôi đã quan sát thấy rất nhiều trò hề. Tôi cũng có thói quen nhắc nhở Duncan rằng anh ấy phải giữ khoảng cách. Một người đàn ông như Kirk có khả năng đưa bạn mình vào chỗ nguy hiểm. Những người đàn ông đó ngày càng tranh cãi nhiều hơn, hăng hái bởi ảo tưởng lật đổ những kẻ hung ác đến từ ‘cuộc xâm lược’ của Kirk. Ngày lại ngày trôi qua và không có kết quả gì từ những lời tuyên bố hùng hồn rằng họ sẽ bảo vệ thành phố, loại bỏ nguyên nhân dẫn đến sự điên rồ toàn cầu này và nắm chắc vị thế trong lịch sử như là một nhóm người đã xử lí được ‘vấn đề trọng đại’ này. Nhưng, một người đàn ông trong nhà đã hành động vì điều anh ta tin tưởng. Anh ta tên là Frank và Frank tin rằng những sinh vật mà Kirk chuẩn bị chiến đấu chẳng nguy hiểm gì cả. Nhưng anh ta vẫn đến ngôi nhà đó, thừa nhận rằng mình sợ hãi tình trạng lộn xộn hiển nhiên đang quét qua đất nước này.

Khi Kirk lên kế hoạch cho những buổi tập luyện vô ích hằng ngày, Frank càng trở nên khép kín hơn, anh ta hiếm khi rời khỏi phòng ngủ trên tầng hai. Và ở đó, anh ta viết. Frank viết cả ngày lẫn đêm bằng bút chì, bút máy, bút đánh dấu và bút trang điểm. Một ngày nọ, khi đi dọc hành lang tầng hai, tôi nghe thấy tiếng gì đó đằng sau cánh cửa phòng đang đóng của anh ta. Đó là một âm thanh phẫn nộ, nặng nề, hung dữ, với tần suất liên tục. Tôi hé cửa và thấy anh ta đang nhoài người trên bàn, vừa viết vừa lẩm bẩm về cái xã hội ‘mù quáng, phản ứng thái quá’ mà anh ta ghê tởm. Tôi không cách nào biết được anh ta đang viết gì. Nhưng tôi muốn tìm ra.

Tôi nói với Duncan về chuyện đó. Vẻ mặt anh tôi được sơn một lớp ngụy trang lố bịch. Đến lúc đó, anh ấy đã thực sự bị niềm đam mê của Kirk tiêm nhiễm. Anh ấy không tin rằng Frank là một mối đe dọa. Frank, người hô hào những cụm từ như sự quá khích của đám đông và sự thần tượng điên rồ khi Kirk và những người khác diễn vở kịch câm bắn súng vào bia mà không có súng ở trong tầng hầm. Mọi người phớt lờ Frank như một người theo chủ nghĩa hòa bình vô dụng.”

Gary lại lùa tay vào tóc.

“Tôi quyết tâm phải biết được Frank đang làm gì trong phòng. Tôi bắt đầu tìm cơ hội đọc những bản thảo bí mật của anh ta.

Các bạn nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra với một người đã vốn điên khùng nếu anh ta nhìn thấy những sinh vật ở ngoài kia? Các bạn có nghĩ rằng anh ta miễn nhiễm với nó, bởi anh ta đã không còn lí trí? Hay các bạn nghĩ sự điên khùng của anh ta sẽ đạt đến một cấp độ cao hơn? Có lẽ bệnh thần kinh sẽ lây nhiễm trong thế giới mới này, không thể tàn tạ hơn tình trạng vốn có. Tôi cũng không biết nhiều hơn các bạn.”

Gary uống nước.

“Cơ hội của tôi tự đến. Kirk và những người khác bận rộn trong hầm. Frank đang tắm. Tôi quyết định lẻn vào thật nhanh. Tôi bước vào phòng anh ta và thấy tập bản thảo trong ngăn kéo bàn. Việc này không phải là một chiến công nhỏ đâu nhé, bởi lúc đó tôi đã rất sợ người đàn ông đó. Những người khác có thể phớt lờ anh ta, thấy anh ta nực cười, nhưng tôi ngờ rằng ở anh ta tiềm tàng nhiều khả năng bạo lực hơn nữa. Tôi bắt đầu đọc. Không cần nhiều thời gian tôi đã bị từ ngữ của anh ta tấn công ào ạt. Dường như anh ta không thể viết được nhiều đến thế, kể cả khi anh ta đã bắt đầu viết từ lâu. Hàng tá cuốn sổ, với vô số màu sắc, cuốn sau lại phẫn nộ hơn cuốn trước. Những dòng chữ bé tí theo sau những cụm từ thật to được tô đậm, tất cả đều tuyên bố rằng những sinh vật này không đáng sợ. Anh ta coi những người còn lại như chúng tôi là ‘lũ đầu óc hạn hẹp’, cần phải bị hủy diệt. Anh ta thực sự nguy hiểm. Đột nhiên, nghe thấy anh ta đứng dậy từ bồn tắm, tôi vội vã rời khỏi phòng. Có lẽ Duncan không quá sai lầm khi đứng vào hàng ngũ của Kirk. Những cuốn sổ đó cho tôi biết có nhiều phản ứng tệ hại đối với thế giới mới này hơn phản ứng của Kirk rất nhiều.”

Gary hít thở sâu. Anh ta dùng mu bàn tay lau môi.

“Khi chúng tôi thức dậy vào ngày hôm sau, những tấm rèm đã bị giật xuống.”

Cheryl thở dốc.

“Cửa đã mở khóa.”

Don định nói gì đó.

“Và Frank đã bỏ đi. Anh ta mang theo những cuốn sổ.”

“Ôi chết tiệt,” Felix nói.

Gary gật đầu.

“Có người nào bị thương không?” Tom hỏi.

Mắt Gary trở nên ươn ướt, nhưng anh ta kìm lại được.

“Không,” anh ta nói. “Không có ai. Tôi chắc chắn Frank đã ghi điều này trong cuốn sổ của anh ta.”

Malorie đưa một tay lên bụng.

“Tại sao anh lại bỏ đi?” Don sốt ruột hỏi.

“Tôi bỏ đi,” Gary nói, “vì Kirk và những người khác nói rất nhiều về việc truy lùng Frank. Họ muốn giết anh ta vì việc anh ta đã làm.”

Căn phòng trở nên im lặng.

“Lúc đó, tôi biết mình phải bỏ đi. Ngôi nhà đó đã bị phá hủy. Bị ám. Nhà của các bạn, có vẻ không. Vì điều này,” Gary nói, nhìn Malorie, “Cám ơn vì đã tiếp nhận tôi.”

“Tôi không tiếp nhận anh,” Malorie nói. “Tất cả chúng tôi đã làm thế.”

Kiểu người gì mà lại, cô tự hỏi, bỏ rơi anh trai mình?

Cô nhìn Don. Nhìn Cheryl. Nhìn Olympia. Câu chuyện của Gary có khiến anh ta trở nên đáng thương đối với những người đã biểu quyết không cho anh ta vào nhà hay không? Hay nó chỉ chứng minh nỗi sợ hãi của họ?

Sự om sòm mất trí.

Tom và Felix đang hỏi thêm về câu chuyện của Gary. Jules cũng xen vào. Nhưng Cheryl đã rời khỏi phòng. Và Don, người đã định nói gì đó về mọi thứ, lại không nói nhiều. Anh ấy chỉ nhìn chằm chằm.

Sự chia rẽ, Malorie nghĩ, đang lớn lên.

Đối với cô, chuyện đó chính xác bắt đầu từ khi nào không quan trọng. Bây giờ, nó đã rõ ràng. Gary mang đến một cái vali. Một câu chuyện. Và bằng cách nào đó, mang đến cả sự chia rẽ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3