Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 09

Vào ngày thứ sáu đầu tiên Linus Baker trải qua ở trên đảo, anh nhận được một lời mời. Anh đã không ngờ tới việc ấy, và sau khi nghe chi tiết, anh cũng không chắc liệu mình có muốn nhận lời hay không. Anh có thể nghĩ tới sáu, bảy hoặc nhiều khả năng là một trăm việc khác anh muốn làm. Anh phải tự nhủ rằng mình tới Marsyas là có lý do, và mình phải thấy được mọi mặt của trại trẻ mồ côi này.

Lời mời bắt đầu từ tiếng gõ cửa nhà khách nơi Linus đang cố gắng hoàn thành báo cáo đầu tiên cho khoảng thời gian ở Marsyas. Ngày mai phà sẽ đến đưa anh vào đất liền để anh có thể gửi báo cáo này về DICOMY qua đường bưu điện. Anh đang chìm vào câu chữ, thật thận trọng chỉ viết một lời quở trách ở mỗi trang về việc Ban Quản Lý Thượng Tầng thiếu minh bạch trước khi phái anh ra đảo. Anh đã biến việc ấy thành một kiểu trò chơi, cố gắng khiến phản ứng của mình trước những vi phạm của họ khéo léo hết mức có thể. Anh đã thầm cảm ơn tiếng gõ cửa vì đã cắt ngang khi dòng cuối cùng anh viết như sau… Và hơn nữa, việc Ban Quản Lý Thượng Tầng sẽ thất thường đổi ý và trắng trợn lừa gạt nhân viên công tác xã hội là vô cùng kém văn minh.

Có khi tốt nhất là anh nên nghĩ lại câu cuối cùng ấy.

Anh thích thú ngạc nhiên khi thấy anh Parnassus đứng trên hiên nhà khách, trông bù xù vì gió táp và ấm áp trong nắng chiều, một hình ảnh mà Linus nhận ra mình không chỉ đang dần quen thuộc, mà còn mong chờ. Anh tự nhủ đó là vì anh Parnassus là một anh chàng vui tươi, và nếu nơi đây là thế giới thực, có lẽ họ có thể trở thành bạn bè, một mối quan hệ mà Linus luôn thiếu hụt. Tất cả chỉ có vậy thôi.

Cũng chẳng quan trọng gì cái việc anh Parnassus không có chiếc quần nào thực sự vừa với cặp chân dài kia, vì ống quần anh ta mặc luôn quá ngắn. Hôm nay anh ta đi tất xanh da trời có hình những đám mây bên trên. Linus từ chối để cho người này quyến rũ mình.

Suýt nữa thì anh đã thành công.

Vậy nhưng, khi anh Parnassus đưa ra lời mời, Linus cảm thấy họng mình nghẹn lại, và lưỡi mình khô đi như bánh mì nướng cháy. “Sao cơ?” Anh chật vật hỏi ra.

Anh Parnassus mỉm cười vẻ thấu hiểu. “Tôi nói rằng việc anh ngồi dự những tiết học một thầy một trò của tôi với Lucy có lẽ là một ý tưởng hay ho, để anh có thể có được trải nghiệm hoàn chỉnh ở Marsyas. Tôi cho rằng Ban Quản Lý Thượng Tầng mong đợi quan sát của anh về những hoạt động như thế này, anh có thấy vậy không?”

Linus cũng cho là vậy. Thật ra, anh đang bắt đầu nghĩ rằng có lẽ Ban Quản Lý Thượng Tầng quan tâm tới Lucy nhiều hơn là bất kỳ người nào khác trên đảo. Ồ, việc ấy không được viết rõ ra như vậy trong những hồ sơ họ đưa cho anh, nhưng Linus đã làm nghề này từ lâu rồi và anh sâu sắc hơn những gì hầu hết mọi người công nhận ở anh.

Nói vậy không có nghĩa là anh sẽ nhảy cẫng lên khi nhận được lời mời kiểu ấy.

Anh mới chỉ tiến triển được phần nào trong vài ngày đầu ở trên đảo. Sal vẫn sợ anh muốn chết, và Phee vẫn lờ anh đi, nhưng Talia chỉ dọa chôn anh trong vườn một hai lần mỗi ngày, và Chauncey có vẻ hạnh phúc với bất kỳ thứ gì và với mọi việc (đặc biệt là khi thằng bé được đưa khăn tắm sạch hay ga giường tới cho Linus, và luôn lịch sự húng hắng cho đủ để đảm bảo nó được boa tiền). Theodore dĩ nhiên nghĩ rằng Linus là trung tâm của vũ trụ, một điều lẽ ra không nên khiến trái tim anh thổn thức đến vậy. Chỉ là một cái cúc áo thôi mà, (thật ra, giờ đã là bốn cái; Linus đã quyết định rằng anh sẵn sàng cho một trong mấy cái sơ mi của mình về vườn rồi, và mỗi sáng anh sẽ cắt thêm một chiếc cúc) và việc thứ này chỉ làm bằng nhựa chứ không phải đồng có vẻ như chẳng quan trọng vì với Theodore cả.

Mặt khác, Lucy vẫn là một ẩn số. Một ẩn số đáng sợ, chắc chắn là vậy, vì thằng bé là Kẻ Phản Chúa, nhưng vẫn là một ẩn số. Mới hôm qua thôi, Linus đã tìm tới thư viện nhà chính, một căn phòng cổ kính ở tầng một đầy ắp sách xếp từ sàn lên trần. Đang nghiên cứu giá sách thì anh thoáng thấy có gì đó động đậy trong bóng tối. Anh quay ngoắt lại, nhưng chẳng có gì ở đó cả.

Cho tới khi anh ngẩng lên và thấy Lucy ngồi xổm trên nóc một kệ sách, nhìn xuống anh với cặp mắt sáng quắc và cái cười nhếch mép méo mó trên mặt.

Linus thảng thốt, tim đập dồn dập.

Lucy nói, “Xin chào, chú Baker. Ghi nhớ rằng linh hồn con người chỉ là mấy món đồ vặt vãnh rẻ tiền với một kẻ như cháu thì sẽ tốt hơn cho chú đấy.” Nó cười khúc khích và nhảy khỏi kệ sách, đáp đất bằng hai chân. Nó ngước lên nhìn Linus và thì thầm, “Cháu thích đồ vặt vãnh rẻ tiền lắm đấy.” Và rồi nó chạy khỏi thư viện. Chỉ một tiếng sau Linus đã thấy nó nhấm nháp bánh quy yến mạch nho khô trong bếp, đầu gật gù theo lời hát của The Coaster về chuyện họ định làm thế nào để tìm ra nàng, sẽ lùng sục bốn phương tám hướng.

Vậy nên, không, Linus không nhất thiết phải nhảy cẫng lên khi nhận được lời mời ấy.

Nhưng anh có việc phải làm.

Đó là lý do tại sao anh đến đây.

Và càng biết nhiều về Lucy, anh sẽ càng sẵn sàng hơn khi báo cáo với Ban Quản Lý Thượng Tầng.

(Việc này không hề liên quan gì đến ý đồ đồng thời tìm hiểu anh Parnassus rõ hơn một chút. Và kể cả có liên quan đi chăng nữa, đó cũng là vì hồ sơ về vị hiệu trưởng này gần như chẳng cho anh biết điều gì, và anh cần phải làm việc thật kỹ lưỡng. Điều này đã được vạch ra trong cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH, trang 138, đoạn sáu, và anh sẽ tuân thủ chính xác đến từng con chữ.)

“Thằng bé có biết tôi sẽ có mặt không?” Linus hỏi, lau mồ hôi trên trán.

Anh Parnassus cười khúc khích. “Đó là ý của thằng bé đấy.”

“Ôi trời ơi!” Linus yếu ớt nói.

“Tôi có nên bảo nó mong chờ anh tới không?”

Không. Không, anh ta không nên làm vậy. Thật ra, anh ta nên bảo với Lucy rằng Linus đã ốm và sẽ nằm trên giường cả buổi tối. Và rồi Linus có thể trải qua một tối thứ sáu trong bộ đồ ngủ, nghe cái đài phát thanh nho nhỏ trong phòng khách và giả vờ rằng anh đang ở nhà. Thứ đồ kia không phải là đầu chạy đĩa than, nhưng trong lúc cần kíp thì dùng tạm cũng được. “Được,” anh nói. “Tôi sẽ có mặt.”

Anh Parnassus nhoẻn một nụ cười tới tận mang tai. Linus cảm thấy da mình ửng hồng trước khung cảnh ấy. “Tuyệt vời,” anh ta nói. “Tôi nghĩ anh sẽ ngạc nhiên đấy. Đúng năm giờ nhé, anh Baker.” Anh ta xoay một vòng trên gót chân và đi về phía nhà chính, miệng huýt sáo một giai điệu hoạt bát.

Linus đóng cửa lại và đổ sụp lên đó. “Chà chà, anh bạn già ơi, giờ thì mày đã đưa cổ vào tròng rồi, phải không nào?”

Calliope ngồi trên bậu cửa sổ, chậm rãi chớp mắt trong nắng.

Linus Baker chưa bao giờ là một người mộ đạo dù anh không thấy phiền khi người khác theo đạo. Tôn giáo chưa bao giờ dành cho anh. Mẹ anh từng… không hẳn là nhiệt thành nhưng suýt soát mức đó tới nỗi gần như chẳng khác gì cả. Bà dẫn anh đi nhà thờ vào Chủ Nhật, và anh ngồi đó, mặc cái áo sơ mi mới phơi khô khiến mình ngứa ngáy không chịu nổi, và sẽ đứng lên khi phải đứng, và quỳ khi phải quỳ. Anh thích những khúc thánh ca, dù cho tiền anh cũng không hát nổi một điệu, nhưng chỉ có vậy mà thôi. Anh nghĩ tất cả thật vô lý: quan niệm về luyện ngục, rằng kẻ có tội thì xuống địa ngục trong khi những người khác đều lên thiên đường. Những tội ác thì nghe có vẻ chủ quan. Ồ, giết người là xấu xa, và hãm hại người khác cũng vậy, nhưng có so sánh được với một người từng ăn trộm thanh kẹo ở cửa hàng tạp hóa đầu phố hồi chín tuổi không? Vì nếu có, Linus đã được định sẵn là sẽ xuống địa ngục vì thanh Crunchie anh đã tuồn vào túi áo và đêm khuya giở ra ăn trong lúc trốn dưới chăn.

Khi anh đủ lớn để hiểu được quyền lực của chữ không, sau đó anh không phải đi nhà thờ nữa. Không, anh đã bảo mẹ, không, con thấy là con không muốn đi đâu.

Dĩ nhiên, bà đã buồn bực. Bà lo lắng cho linh hồn của anh, bảo anh rằng anh chuẩn bị đi trên con đường mà anh sẽ không thể quay đầu. Rồi sẽ có ma túy và rượu chè và gái gú, và bà sẽ không ở bên anh để dọn dẹp hậu quả vì đó là việc mà người mẹ phải làm (và, anh thầm nghĩ, để mắng anh Mẹ đã bảo mà).

Nhưng, hóa ra ma túy chẳng bao giờ là một vấn nạn với anh, và dù Linus có thưởng thức một ly rượu vang vào bữa tối một lần mỗi tháng thì việc này chưa bao giờ vượt quá mức đó.

Còn về phần gái gú, mẹ anh chẳng cần lo lắng. Tới lúc ấy, Linus đã để ý thấy da mình râm ran lên thế nào khi cậu hàng xóm mười bảy tuổi, Timmy Wellington cởi trần cắt cỏ. Không, gái gú sẽ không khiến Linus Baker đổ đốn được đâu.

Vậy nên không, Linus hoàn toàn chưa bao giờ là một người mộ đạo.

Phải công nhận, đó là trước khi anh biết Kẻ Phản Chúa là một đứa trẻ sáu tuổi sống trên đảo Marsyas. Lần đầu tiên trong đời, Linus ước gì anh có một cái thập giá hay cuốn Kinh Thánh hay cái gì đó để bảo vệ bản thân nếu Lucy quyết định thằng bé cần hiến tế ai đó để đạt được quyền lực trọn vẹn.

Anh chắc chắn chẳng thấy khá khẩm hơn khi đi qua Phee và Talia trong vườn, cả hai đứa dõi theo từng bước chân của anh về phía nhà chính. “Xác sống biết đi,” Talia ngân nga bằng giọng lè nhè. “Ở đây có xác sống biết đi.”

Phee ho lên để che giấu tiếng cười.

“Chào các cháu,” anh cứng nhắc nói.

“Chào chú, chú Baker,” Phee và Talia nói đến là ngọt ngào, dù Linus biết tỏng rồi.

Chúng thì thầm sau lưng anh khi anh đi tới hiên nhà chính. Anh quay lại liếc chúng, và chúng mặt dày vẫy tay với anh.

Lạ lùng làm sao, anh nhận ra mình đang chật vật nhịn cười trước cảnh ấy.

Thay vào đó, anh cau mày.

Anh đi vào trong nhà. Anh nghe thấy tiếng bà Chapelwhite hát trong bếp. Bà già đã thân thiện với anh hơn nhiều kể từ chuyến đi ra bãi biển của họ. Và anh nói vậy có nghĩa là bà đã tỏ vẻ biết đến sự hiện diện của anh bằng một cái gật đầu trông thân mật hơn là lấy lệ.

Anh đóng cửa lại sau lưng và nghe thấy tiếng chiêm chiếp vọng lại từ sô pha trước lò sưởi. Anh nhìn xuống và thấy một cái đuôi đầy vảy thò ra ở dưới ghế. “Chào cháu, Theodore,” anh nói.

Cái đuôi biến mất, và Theodore thò đầu ra, lưỡi ngoe nguẩy. Thằng bé lại chiếp chiếp, lần này là một câu hỏi. Linus không cần biết tiếng Wyvern để hiểu nó đang xin cái gì. “Sáng nay chú đã cho cháu một cái rồi. Có càng nhiều cúc áo thì cháu sẽ càng bớt trân trọng giá trị của chúng đấy.” Anh cảm thấy mình hơi ngớ ngẩn, vì cúc áo nhựa có giá trị gì đâu, nhưng anh vẫn thấy cần phải chia sẻ bài học ấy.

Theodore thở dài ủ ê và lại biến mất vào gầm ghế, càu nhàu một mình.

Anh đi lên cầu thang, bậc gỗ cót két đầy ma quái dưới sức nặng của anh. Những ngọn đèn trên tường trông như đang chớp tắt, và Linus tự nhủ đó chỉ là vì ngôi nhà đã cũ, và đường điện có thể cần sửa sang đôi chút. Anh thầm ghi nhớ trong đầu để hỏi về tình trạng khoản trợ cấp dành cho trại trẻ Marsyas trong bản báo cáo của mình. Anh Parnassus có vẻ tảng lờ trước chuyện trợ cấp, nhưng Linus nghĩ anh hẳn đã nhìn nhầm rồi.

Những cánh cửa phòng ngủ trên tầng hai đóng lại ở cả hai bên, ngoại trừ cửa phòng Chauncey. Linus đang chuẩn bị đi qua phòng thằng bé thì dừng lại, vì nghe thấy Chauncey lên tiếng trong phòng. Anh ngó vào qua cánh cửa hé mở và thấy Chauncey đứng trong vũng nước muối trước một cái gương soi toàn thân đặt gần cửa sổ, mũ lưỡi trai đồng phục khách sạn đội trên đầu giữa hai cuống mắt. “Ông bà Worthington, hai người khỏe cả chứ?” Chauncey hỏi, một trong mấy xúc tu nâng cái mũ lên trong lúc thằng bé cúi thấp xuống. “Chào mừng quý khách trở lại với khách sạn Everland. Tôi xách hành lý cho quý khách được chứ? Ồ! Chà chà cảm ơn vì đã để ý nhé, bà Worthington. Phải, tôi có đồng phục mới thật. Everland chỉ dùng những đồ cao cấp nhất thôi. Tôi mong rằng ông bà sẽ tận hưởng thời gian nghỉ ngơi tại đây.”

Linus để thằng bé tiếp tục.

Anh tự hỏi liệu có quá không khi mua cho Chauncey một cái áo khoác cho đủ bộ. Có lẽ anh có thể xem xem trong làng có gì…

Không. Đó không phải lý do anh tới đây. Anh ở đây là để quan sát, không hơn. Anh không thể gây ảnh hưởng với trại trẻ được. Như vậy là không đúng mực. Cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH đã ghi cụ thể về những vấn đề này rồi.

Anh nghĩ mình nghe được động tĩnh sau cửa phòng Sal, nhưng cánh cửa đã đóng chặt. Tốt nhất là không nên cố chào hỏi. Anh không muốn dọa sợ thằng bé tội nghiệp.

Ngoài việc chưa bao giờ thấy được bên trong phòng Sal, anh cũng chưa bao giờ đi qua cánh cửa cuối cùng trong hành lang. Trước hôm nay, anh Parnassus chưa từng mời anh, dù Lucy đã làm vậy vào nhiều dịp khác nhau, khiến anh vô cùng phiền muộn. Anh biết anh sẽ phải tra xét cả hai phòng trước khi rời đảo, nhưng trong tuần đầu này anh đã trì hoãn việc ấy, mà lẽ ra không nên trì hoãn.

Anh đứng trước cửa một lúc lâu, trước khi hít một hơi thật sâu và giơ cái tay run rẩy lên gõ cửa.

Trước khi anh kịp gõ, then cửa gạt mở và cánh cửa chỉ hé ra một khe nhỏ xíu.

Linus lùi lại một bước. Có vẻ như không có ánh sáng chiếu ra từ trong phòng.

Anh hắng giọng. “Xin chào?”

Không ai trả lời.

Anh xốc lại tinh thần và đẩy cửa mở ra.

Khi anh bước vào nhà nắng chiều đang rực rỡ, gió biển ấm áp. Nhưng trong phòng khiến anh nghĩ đến lúc ở thành phố, một nơi tối tăm, lạnh lẽo và ẩm thấp. Anh bước một bước vào trong phòng. Rồi lại một bước nữa.

Rồi một bước nữa.

Cửa sập lại sau lưng anh.

Anh quay ngoắt lại, tim vọt lên họng. Anh đang với lấy tay nắm cửa thì ánh nến bùng lên xung quanh, những đốm lửa cao tới sáu mươi centimet hoặc còn hơn.

“Chào mừng ngươi tới với lãnh địa của ta,” một giọng trẻ con âm vang sau lưng anh. “Ngươi đã đặt bước vào đây theo lời mời của ta.” Tiếng cười phát ra khùng khục. “Hãy chứng kiến quyền năng thật sự của ta! Ta là Lucifer! Ta là Beelzebub, hoàng tử của quỷ! Ta sẽ…”

“… thấy mình bị tước đi nhiều đặc quyền nếu con quyết định tiếp tục làm trò,” Linus nghe thấy anh Parnassus nói.

Lửa nến vụt tắt.

Bóng tối rút dần.

Ánh nắng tràn vào qua cửa sổ.

Linus chớp mắt trước ánh sáng rực rỡ ấy.

Anh Parnassus ngồi trên cái ghế lưng cao đặt gần cửa sổ, hai chân vắt chéo, tay đặt trên đùi, mặt hiện vẻ khoái chí. Có một cái ghế trống đối diện với anh ta, rõ ràng là dành cho cậu bé đang nằm ngửa trên tấm thảm dày.

“Cháu nó nghe tiếng anh đi tới,” anh Parnassus nói cùng cái nhún vai. “Tôi đã cảnh cáo cháu rằng không được làm vậy, nhưng vì đây là khoảng thời gian để thằng bé làm những việc nó muốn, tôi nghĩ mình không nên đè nén nó.”

Lucy ngước nhìn Linus, người đang dán mình lên cửa phòng ngủ. “Cháu là chính mình mà.”

“Đúng vậy,” Linus nói, giọng chin chít, hầu như không tách nổi mình ra khỏi cửa.

Bản thân căn phòng khá to và rộng. Có một chiếc giường bốn cọc kê áp vào bức tường phía xa, làm bằng gỗ mun, các cọc được chạm khắc dây và lá nho trang trí. Có một bàn làm việc, cổ xưa hơn những cái khác trong nhà, phủ đầy tập giấy và chồng sách. Một cái lò sưởi đang tắt đặt đối diện với giường. Nếu không phải Linus vừa bị dọa cho suýt phát điên, anh cũng sẽ nghĩ rằng căn phòng này thật hoàn hảo cho những đêm đông giá lạnh.

“Con có muốn dẫn chú Baker đi xem phòng mình không?” anh Parnassus hỏi Lucy. “Chắc là chú ấy muốn xem lắm đấy. Phải không, anh Baker?”

Không. Không, anh không muốn. Không muốn xem lắm đâu. “Phả… ải,” Linus nói. “Việc ấy rõ ràng có vẻ… khả thi đấy.”

Lucy lật người lại, chống cằm lên hai tay. “Chú chắc không, chú Baker? Giọng chú nghe không chắc chắn lắm đâu.”

“Chú chắc mà,” Linus kiên quyết nói.

Lucy chống người dậy khỏi sàn. “Vậy thì, đừng trách sao cháu không cảnh báo chú trước nhé.”

Anh Parnassus thở dài. “Lucy, con đang khiến chú Baker hiểu lầm đấy.”

“Và chú ấy đang hiểu thành thế nào vậy?”

“Con biết mà.”

Lucy giơ hai tay lên. “Con chỉ đang cố gắng làm tăng sự háo hức thôi. Hãy đón chờ những điều nằm ngoài mong đợi! Thầy bảo con là cuộc sống sẽ làm con kinh ngạc kia mà. Con đang cố khiến chú ấy ngạc nhiên đấy.”

“Ta nghĩ con đang vất vả mà chẳng được việc gì ngoài thất vọng đấy.”

Mắt Lucy nheo lại. “Và đấy là lỗi của ai chứ? Nếu thầy nghe theo ý tưởng trang trí của con, sẽ không có thất vọng gì cả. Sẽ chỉ có vui vẻ mà thôi.” Thằng bé liếc Linus. “À, với con thì là vậy.”

Anh Parnassus xòe hai tay ra làm một cử chỉ xoa dịu. “Ta không nghĩ treo đầu người đứt lìa sẽ giúp chú Baker ngủ ngon hay có lợi với sức khỏe và tinh thần của chú ấy đâu, ngay cả khi đầu đó được làm từ giấy báo.”

“Đầu người đứt lìa à?” Linus hỏi bằng giọng tắc nghẹn.

Lucy thở dài. “Chỉ biểu trưng cho những kẻ thù của cháu thôi. Giáo Hoàng này. Những kẻ theo đạo Chúa đi lễ nhà thờ siêu khủng này. Chú biết mà, giống như người bình thường cũng có kẻ thù đó.”

Linus nghi Lucy hoàn toàn không hiểu được cái gì là bình thường, nhưng anh giữ kín được suy nghĩ đó cho riêng mình. “Vậy thì, không có đầu người chứ hả?”

“Không có cái nào hết,” Lucy vừa nói vừa cau mày. “Kể cả sọ của một con thú sống trong rừng mà cháu không hề giết, chỉ tìm thấy thôi.” Nó lườm anh Parnassus một cái.

“Ta đã nói gì về động vật nhỉ?” anh Parnassus hỏi.

Lucy vùng vằng đi tới cánh cửa đang đóng ở gần hai cái ghế. “Con không được giết chúng vì chỉ có những tên sát nhân hàng loạt mới làm vậy, và nếu chúng đã chết, con không được nghịch xác chúng vì nếu không thì con sẽ ám mùi hôi hám.”

“Và?”

“Và như vậy là sai trái.”

“Lần sau mở đầu bằng câu ấy nhé,” anh Parnassus nói. “Có lẽ nghe sẽ nhân văn hơn đấy.”

“Chỉ có bóp nghẹt sự sáng tạo của con,” Lucy lầm bầm. Thằng bé đặt tay lên nắm đấm cửa và ngoái lại nhìn Linus. Vẻ mặt cáu kỉnh của nó biến mất, và nụ cười ngọt như mía lùi trở lại khiến những cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Linus. “Chú đi chứ, chú Baker?”

Linus cố gắng ép chân mình nhúc nhích, nhưng chúng vẫn kiên quyết bám trụ gần cửa phòng ngủ. “Thầy Parnassus có đi cùng chúng ta không nhỉ?” anh hỏi.

Anh Parnassus lắc đầu. “Tôi sẽ để cháu nó dẫn anh đi thăm quan, như những đứa khác.” Anh ta khựng lại. Và rồi, “Tôi vẫn đang thuyết phục Sal.”

“Tuyệt,” Linus yếu ớt nói. “Không… Không sao đâu.”

“Sao chú toát mồ hôi thế?” Lucy hỏi, nụ cười ngoác rộng thêm. “Có gì không ổn à, chú Baker?”

“Không, không,” Linus nói. “Chỉ… có hơi ấm quá, thế thôi. Khí hậu ôn hòa ấy mà cháu. Khi còn ở trong thành phố thì chú không quen với khí hậu này.”

“Ồ, dĩ nhiên rồi,” Lucy nói. “Hẳn là vậy đó. Tới đây nào, chú Baker. Cháu có thứ muốn cho chú xem.”

Linus khó nhọc nuốt khan. Anh tự nhủ mình đang thật ngớ ngẩn, anh Parnassus đang ngồi ngay đằng kia, và Lucy sẽ không dám làm gì không phải trước mặt anh ta đâu.

Vấn đề với việc này là não Linus chọn đúng giây phút này để tự vấn liệu trước đây có từng có nhân viên công tác xã hội khác tới thăm đảo này chưa, và chuyện gì đã xảy ra với họ. Hẳn là phải có chứ, đúng không nào? Anh không thể là người đầu tiên được. Chà, vậy thì phi lý quá.

Và nếu từng có người khác trước anh, vậy thì chuyện gì đã xảy ra với họ? Có phải họ cũng vào phòng Lucy, để rồi không ai còn thấy họ nữa? Liệu Linus có đi theo Lucy qua cánh cửa và phát hiện ra xác của những người đi trước đóng đinh lên trần phía trên giường không? Linus chắc chắn có thể mạnh mẽ khi cần, nhưng anh quả thật có một cơ thể yếu ớt, và nhìn thấy máu thường khiến anh thấy chóng mặt. Anh không biết điều gì sẽ xảy ra nếu phải thấy mấy bộ lòng giăng khắp nơi như những dây hoa trang trí ướt nhẹp.

Anh liếc anh Parnassus, và anh ta gật đầu cổ vũ anh. Làm vậy chẳng xoa dịu tinh thần Linus chút nào. Theo những gì anh biết, anh Parnassus cũng tà ác như Lucy vậy, mặc xác mấy đôi tất màu mè và nụ cười diệu kỳ ấy.

Anh suýt trượt ngã ở nụ cười diệu kỳ.

Anh gạt nó qua một bên.

Anh làm được việc này.

Anh làm được.

Kia chỉ là một đứa trẻ mà thôi.

Anh treo vẻ vui tươi (không hơn cau có là bao) lên mặt và nói, “Chú rất sẵn lòng thăm quan phòng cháu, Lucy ạ. Chú thật sự mong rằng nơi ấy gọn gàng. Một căn phòng bừa bộn là dấu hiệu của một cái đầu hỗn độn. Tốt nhất là nên giữ cho mọi thứ sạch sẽ khi có thể.”

Ánh mắt Lucy nhảy múa. “Thế ạ, chú Baker? Chà, thế thì hãy cùng xem trong đầu cháu như thế nào nhé.”

Linus chắc chắn đây là một trong những yếu tố gây căng thẳng mà bác sĩ đã cảnh báo với anh. Giờ anh chẳng làm được gì về chuyện ấy cả.

Anh dừng bước cạnh Lucy.

Anh cúi đầu nhìn thằng bé.

Lucy cười toe toét. Linus nghĩ thằng bé có nhiều răng hơn số con người có thể có.

Nó xoay nắm đấm cửa.

Nó đẩy cửa mở ra.

Cánh cửa cót két đu trên bản lề và…

Để lộ một không gian nho nhỏ với một chiếc giường đôi đặt một bên tường, chăn kẻ ca rô, vỏ gối màu trắng. Phòng có đủ chỗ để đặt một tủ ngăn kéo, nhưng không đủ cho thứ đồ gì khác. Trên mặt tủ là một bộ sưu tập những cục đá bóng loáng vằn vện vân thạch anh.

Trên tường là những đĩa than, từng cái treo trên đinh ghim qua lỗ ở chính giữa. Có đĩa Little Richard, The Big Bopper, Frankie Lymon và The Tennagers, Ritchie Valens và Buddy Holly. Thật ra, đĩa của Buddy Holly nhiều hơn của bất kỳ nghệ sĩ nào khác.

Linus giật mình trước cảnh ấy. Anh nhận ra hầu hết số đĩa này, vì anh có hết ở nhà mình trong thành phố. Anh đã dành rất nhiều đêm để nghe “Peggy Sue” và “That’ll Be the Day” và “Chantilly Lace.”

Nhưng ngoài Little Richard và Frankie Lymon, tất cả những nghệ sĩ này đều có một điểm tương đồng khác. Chuyện này có hơi chết chóc, một khi anh nghĩ tới đó. Nhưng khá hợp lý.

Anh còn không để ý thấy Lucy đã đóng cửa lại sau lưng họ. “Ngày âm nhạc tạ thế,” Lucy nói.

Linus quay ngoắt lại, tim lộn nhào. Lucy đứng ở cửa, tựa lưng lên đó. “Sao cơ?”

Thằng bé khua tay về phía đĩa than. “Buddy Holly, Ritchie Valens và The Big Bopper ấy.”

“Một vụ tai nạn máy bay,” Linus khẽ nói.

Lucy gật đầu và đứng dậy khỏi cửa. “Ritchie và Bopper lẽ ra còn không ở trên chiếc máy bay đó, chú có biết việc ấy không?”

Anh biết. Anh nói, “Chú nghĩ là có.”

“Bopper bị ốm và lấy vé của người khác.”

Wayion Jennings, nhưng Linus giữ chuyện ấy cho riêng mình.

“Và Ritchie thắng được vé máy bay trong trò tung đồng xu. Buddy không muốn bị kẹt trong xe buýt vì trời lạnh, và họ phải tới Montana.” Lucy vươn tay lên chạm vào “Chantilly Lace.” Thằng bé trông có vẻ gần như tôn kính. “Phi công không được báo cho thông tin chính xác về thời tiết, và chuyến bay không có những bộ phận thích đáng cần có để cất cánh. Thật là lạ, phải không?” Nó mỉm cười với Linus. “Cháu thích thứ âm nhạc khiến cháu hạnh phúc. Và cháu thích chết chóc. Thật lạ lùng rằng người ta có thể kết hợp hai điều ấy như vậy. Họ đều tình cờ mà chết, và rồi sau đó người ta đều hát về họ. Cháu thích những bài hát đó, nhưng không thích nhiều bằng những bài được hát bởi người đã chết.”

Linus đằng hắng dữ dội. “Chú… Chú cũng thích âm nhạc. Chú có vài cái đĩa này ở nhà.”

Lucy phấn khởi hẳn lên khi nghe vậy. “Đĩa nhạc của người chết ư?”

Anh nhún vai. “Chú… đoán vậy? Nhạc càng cổ xưa, nghệ sĩ càng có khả năng đã qua đời.”

“Phải,” Lucy thì thào. Mắt thằng bé bắt đầu ánh đỏ. “Đúng thế. Đối với âm nhạc thì cái chết thật diệu kỳ. Nó khiến giọng các nghệ sĩ nghe như những hồn ma vậy.”

Linus nghĩ đây có lẽ là lúc thích hợp để đổi chủ đề sang chuyện gì đó ít chết chóc hơn. “Chú thích phòng cháu đấy.”

Lucy nhìn quanh, ánh sáng trong mắt nó phai đi. “Phòng này tuyệt nhất quả đất. Cháu thích có phòng riêng. Arthur nói rằng cháu phải có tính tự lập.” Nó liếc Linus rồi quay đi, và Linus có thể thề rằng trông thằng bé gần như là lo lắng. “Miễn là thầy không đi quá xa.” Nó mở to mắt. “Nhưng cháu không phải là trẻ con! Cháu ở một mình được mà! Thật ra, cháu ở một mình suốt đấy!”

Linus nhướn mày. “Suốt à? Ồ, không. Không, không không. Như thế không được. Trong trường hợp đó, chú sẽ phải nói chuyện với chú Parnassus. Một đứa trẻ ở tuổi của cháu không bao giờ nên ở một mình suốt…”

“Ý cháu không phải vậy,” Lucy la lên. “Ý cháu là cháu không bao giờ ở một mình hết! Dù cháu đi đến đâu, thầy cũng có mặt ở đấy! Thầy như một cái bóng vậy. Thật là phiền phức.”

“Ừ, nếu cháu đã nói vậy.”

Lucy điên cuồng gật đầu. “Cháu nói vậy thật mà. Đó chính xác là những gì cháu đã nói. Vậy nên, không cần phải nói chuyện với Arthur về vấn đề này hay ghi vào báo cáo và nói những điều xấu xa về cháu đâu.” Nụ cười của nó hoàn toàn thánh thiện. “Cháu thề cháu là người tốt mà.” Nụ cười héo đi. “Và chú không cần phải lo đến chuyện nhìn xuống gầm giường cháu đâu. Và nếu chú có làm vậy, xương chim ở dưới đó không phải của cháu đâu, và cháu không biết ai đã để thứ ấy ở đó, nhưng họ nên bị phạt vì làm vậy là sai trái.” Nó lại mỉm cười.

Linus nhìn thằng bé chằm chằm.

“Được rồi!” nó nói, bước tới và túm tay Linus. “Thế đấy! Phòng cháu như thế đấy! Không cần xem cái gì khác đâu!” Nó kéo Linus về phía cửa và mở tung ra. “Arthur! Chú ấy thấy phòng của con rồi và đã nói mọi thứ trông rất ổn và hoàn toàn không có gì xấu xa trong này cả và con là một người tốt. Và chú ấy thích cùng một loại nhạc với con! Âm nhạc của người chết ấy.”

Anh Parnassus ngẩng lên từ cuốn sách đặt trên đùi. “Thật ư? Nhạc của người chết à?”

Lucy ngẩng đầu nhìn Linus, vẫn nắm chặt tay anh. “Chúng ta đều thích những thứ đã chết, phải không, chú Baker?”

Linus lắp bắp.

Lucy thả tay anh ra và buông mình xuống sàn ở bên chân anh Parnassus, nơi nó đã nằm khi Linus tới. Nó khoanh tay trên bụng và nhìn lên trần nhà. “Trong đầu con đầy nhền nhện vùi trứng vào chất xám. Chẳng mấy chốc trứng sẽ nở và ăn mòn con thôi.”

Linus không biết phải phản ứng thế nào với chuyện ấy.

May thay, có vẻ như anh Parnassus biết. Anh ta gập sách trên đùi lại và đặt lên cái bàn nhỏ cạnh ghế. Anh ta gõ gõ một trong hai mũi giày wing-tip lên vai Lucy. “Thật gợi tả làm sao. Lát nữa thôi chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn về việc đó nhé. Việc đầu tiên, là chú Baker muốn quan sát chúng ta. Con thấy như vậy có ổn không?”

Lucy liếc Linus trước khi lại nhìn lên trần. “Được thôi. Chú ấy thích những thứ đã chết gần bằng con rồi.”

Điều ấy còn khuya mới đúng.

“Quả vậy,” anh Parnassus nói, ra hiệu cho Linus ngồi vào ghế trống. “Thật tình cờ làm sao. Chúng ta dừng ở đâu trước khi chú Baker đến nhỉ?”

Linus ngồi xuống. Anh lấy sổ ra, cùng cây bút chì. Anh không biết tại sao ngón tay mình lại run rẩy nữa.

“Mệnh lệnh nhất quyết,” Lucy nói, “của Kant.”

“À, đúng rồi,” anh Parnassus nói. “Cảm ơn con vì đã nhắc ta.” Linus có suy nghĩ rằng anh ta hoàn toàn không cần thằng bé nhắc. “Và Kant đã nói gì về Mệnh lệnh nhất quyết?”

Lucy thở dài. “Rằng đó là nguyên tắc đạo đức tối thượng. Đó là một mục tiêu. Một nguyên tắc vô điều kiện và cần thiết về mặt lý trí mà chúng ta luôn phải tuân thủ bất chấp mọi khát khao nguyên thủy hay khuynh hướng đối lập.”

“Và Kant có nói đúng không?”

“Rằng không có đạo đức là không có lý trí?”

“Phải.”

Lucy chun mũi. “Không đúng?”

“Và tại sao lại không nhỉ?”

“Vì con người không phải hắc bạch phân minh. Dù có cố gắng đến đâu, chúng ta cũng không thể đi trên một đường thẳng mà không chệch hướng được. Và như vậy không có nghĩa là chúng ta là người xấu.”

Anh Parnassus gật đầu. “Cả khi con có nhền nhện trong đầu?”

Lucy nhún vai. “Có lẽ vậy. Nhưng Kant đang nói về người bình thường. Con có bình thường đâu.”

“Tại sao lại vậy?”

Nó vỗ vỗ bụng. “Vì xuất xứ của con.”

“Và con từ đâu tới?”

“Một cái âm đạo sau khi dương vật thâm nhập vào đó.”

“Lucy,” anh Parnassus quở trách, trong khi Linus sặc sụa.

Lucy đảo mắt. Nó cựa quậy như thể nằm không thoải mái.

“Con tới từ một nơi mà mọi thứ không được tốt cho lắm.”

“Giờ mọi thứ có tốt hơn chưa?”

“Phần lớn là vậy.”

“Con nghĩ tại sao lại như vậy?”

Lucy nheo mắt nhìn Linus trước khi quay đầu sang anh Parnassus. “Vì ở đây con có phòng riêng. Và đĩa nhạc của con. Có thầy và có các bạn khác, dù Theodore không cho con xem kho tàng của bạn ấy.”

“Còn lũ nhện thì sao?”

“Vẫn trong đây thôi.”

“Nhưng?”

“Nhưng con có thể có nhền nhện ở trong đầu miễn là con không để chúng nuốt chửng con và rồi phá hủy thế giới mà chúng ta biết này.”

Linus gần như không thở nổi.

Anh Parnassus có vẻ không gặp vấn đề đó. Anh ta đang mỉm cười. “Chính xác. Làm người là sẽ phạm sai lầm, dù có lý trí hay không. Và dù có vài lỗi lầm to lớn hơn những lỗi lầm khác, nhưng nếu chúng ta học được gì từ chúng, chúng ta sẽ trở thành những người tốt hơn. Ngay cả khi chúng ta có nhền nhện trong đầu.”

“Người con đầy lỗi mà.”

“Một số người nói vậy.”

Mặt Lucy nhăn nhúm lại như thể nó đang vất vả suy nghĩ. “Arthur?”

“Ừ?”

“Thầy có biết tên thầy là tên một ngọn núi không?”

Anh Parnassus chớp mắt, như thể không ngờ tới chuyện ấy. “Ta biết. Làm sao con biết điều ấy?”

Lucy nhún vai. “Con biết nhiều thứ lắm, nhưng không phải lúc nào cũng biết làm sao con biết được những việc ấy. Nghe có hợp lý không?”

“Tàm tạm.”

“Núi Parnassus là ngọn núi thiêng của Apollo.”

“Ta biết.”

“Và thầy có biết Linus thành Thrace không?”

Anh Parnassus cựa quậy trên ghế. “Ta… nghĩ là không.”

“Ồ! Chà, Apollo giết Linus bằng một mũi tên vì một cuộc thi âm nhạc. Thầy sẽ giết chú Baker ư?” Lucy chậm rãi quay đầu sang nhìn Linus. “Nếu vậy, thầy đảm bảo là sẽ dùng cung tên được không? Con muốn người chú ấy cũng đầy lỗi cơ.”

Nó bắt đầu cười khành khạch.

Anh Parnassus thở dài trong khi ngực Linus giật cục. “Con vừa kể toàn bộ câu chuyện kia chỉ để có thể pha trò thôi à?”

“Đúng thế,” Lucy nói, lau mắt. “Vì thầy từng nói với con rằng nếu không tự cười vào mặt mình được, thì chúng ta đang sống sai cách rồi.” Thằng bé cau mày. “Con đang sống sai cách rồi à? Hình như không có ai cười thì phải.”

“Khiếu hài hước là một điều chủ quan, ta e là vậy,” anh Parnassus nói.

“Thật đáng tiếc,” Lucy nói, lại nhìn lên trần nhà. “Nhân loại thật kỳ quặc. Nếu chúng ta không cười, chúng ta lại khóc hoặc chạy thục mạng vì quái vật đang cố ăn thịt chúng ta. Và chúng còn không phải là quái vật thứ thiệt nữa. Chúng có thể là những thứ chúng ta tạo ra trong đầu mình. Thầy không thấy như vậy là kỳ quặc à?”

“Ta nghĩ vậy. Nhưng ta thà như vậy còn hơn là ngược lại.”

“Tức là?”

“Hoàn toàn không cảm thấy gì hết.”

Linus quay đi.

Lucy sung sướng khi anh Parnassus kết thúc giờ học sớm hơn vào lúc sáu rưỡi. Anh ta bảo thằng bé rằng nó có thể xuống bếp để xem bà Chapelwhite có cần nó giúp đỡ không. Thằng bé nhảy cẫng lên và vừa xoay một vòng nhỏ vừa giậm chân rồi đi ra cửa, rống lên qua vai rằng nó hy vọng Linus thấy thời gian họ ở chung đã khai sáng cho anh.

Linus không chắc rằng dùng từ khai sáng là đúng đắn.

Họ ngồi trong im lặng khi Lucy xuống cầu thang, tạo ra quá nhiều tiếng ồn đối với một cậu bé ở kích cỡ của nó. Nghe như thể nó nhảy tưng tưng trên mọi bề mặt nó tìm ra được trên đường xuống tầng một.

Linus biết anh Parnassus đang đợi anh, và anh nhân cơ hội này tìm lại mạch suy nghĩ của mình hết mức có thể. Cuốn sổ của anh trống trơn đến âu sầu. Anh đã quên ghi chép lại dù chỉ một điều quan sát được. Như vậy là không ổn đối với một người làm chức vụ như của anh, nhưng anh nghĩ anh xứng đáng được tự do đôi chút sau tất cả những gì mình đã thấy và nghe kể từ khi lên đảo.

“Cậu bé không như những gì tôi đã tưởng,” cuối cùng Linus nói, nhìn chằm chằm vào hư không.

“Không ư?”

Anh lắc đầu. “Có… nhiều hàm ý đằng sau cái tên kia. Kẻ Phản Chúa ấy.” anh hối lỗi nhìn anh Parnassus. “Nếu tôi phải thành thật.”

“Thật à?” Anh Parnassus ráo hoảnh hỏi. “Tôi không để ý đấy.”

“Tôi không hối hận vì đã tưởng là vậy.”

“Và tôi không mong anh hối hận.” Anh Parnassus cúi đầu nhìn hai tay. “Tôi kể với anh một bí mật được không?”

Lời này khiến Linus giật mình. Anh đã hiểu ra rằng hiệu trưởng trường Marsyas không thường xuyên tiết lộ những bí mật của mình. Việc này thật khó chịu, nhưng cũng có thể hiểu được. “Vâng? Dĩ nhiên rồi.”

“Tôi cũng đã lo lắng, khi tôi nghe tin rằng nó sẽ được gửi lên đảo.”

Linus nhìn anh ta chằm chằm. “Anh lo lắng ấy à?”

Anh Parnassus nhướn mày. Linus nhận ra anh phải tự nhắc nhở mình là theo hồ sơ, người đàn ông này lớn hơn anh năm tuổi. Trông anh ta trẻ đến kỳ cục. Linus không biết tại sao, nhưng anh thẳng lưng lên đôi chút, và nếu anh có hơi hóp bụng vào, thì đó không phải là việc của người nào ngoài anh ra. “Sao giọng anh nghe có vẻ phẫn nộ thế nhỉ?”

“Tôi lo lắng khi xe buýt đến muộn. Tôi lo lắng khi tôi ngủ qua tiếng chuông báo thức. Tôi lo lắng khi tôi đi chợ vào cuối tuần, và quả bơ quá đắt đỏ. Đó mới là lo lắng, anh Parnassus ạ.”

“Đó là những lo toan thường nhật,” anh ta nhẹ nhàng chỉnh lại. “Là những cạm bẫy phủ lên một cuộc đời bình thường. Và chẳng có vấn đề gì với những điều ấy cả. Tôi nói là lo lắng vì đó là cách biểu đạt cảm xúc tốt nhất mà tôi biết. Tôi lo vì thằng bé cô độc, nhưng tôi cũng cảm thấy như vậy với mọi đứa trẻ khác. Tôi lo không biết thằng bé sẽ hòa hợp thế nào với những đứa khác đã ở đây. Tôi lo rằng tôi sẽ không thể cho nó thứ nó cần.”

“Và việc nó là thứ kia!” Linus hỏi. “Anh có lo cả việc đó nữa không? Tôi thấy dường như đó nên là vấn đề hàng đầu trong tất cả các nỗi lo của anh.”

Anh ta nhún vai. “Dĩ nhiên rồi, nhưng chuyện ấy không nặng nề hơn bất kỳ chuyện gì khác. Tôi hiểu mức độ nghiêm trọng của tình huống này, anh Baker ạ. Nhưng tôi không thể để chuyện kia trở thành trọng điểm ở đây được. Đó là tất cả những gì thằng bé từng biết, rằng người ta lo lắng về chuyện nó là cái gì, nó có thể làm được những gì. Vì lo lắng của họ chỉ là một vỏ bọc mong manh để che giấu sợ hãi và chán ghét mà thôi. Và trẻ con tinh ý hơn chúng ta công nhận rất nhiều. Nếu nó cũng nhìn thấy ở tôi những điều nó đã thấy ở bất cứ ai khác, sẽ còn hy vọng nào cho nó đây?”

“Hy vọng ư?” Linus ngớ ngẩn hỏi lại.

“Hy vọng,” anh Parnassus lặp lại. “Vì đó là điều chúng ta phải trao cho nó, điều chúng ta phải trao cho tất cả lũ trẻ. Hy vọng, chỉ dẫn và một nơi để gọi là của mình, một mái nhà nơi chúng có thể là chính mình mà không phải e sợ hậu quả.”

“Xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi nghĩ đánh đồng Lucy với những đứa trẻ khác là hơi thiển cận. Nó không giống bất kỳ ai cả.”

“Và Talia cũng vậy,” anh Parnassus cấm cảu. “Hay Theodore. Hay Phee. Hay Sal. Hay Chauncey. Chúng ở đây vì chúng không giống những người khác. Nhưng nói thế không có nghĩa là tình hình phải được giữ nguyên như vậy.”

“Anh nói nghe ngây ngô quá.”

“Tôi sốt ruột,” anh Parnassus nói. “Những đứa trẻ này phải đối mặt với rặt những thành kiến về con người chúng. Và chúng lớn lên thành những người trưởng thành cũng chỉ biết tới những điều ấy. Chính anh cũng nói vậy còn gì: Lucy không như những gì anh tưởng, có nghĩa là anh vốn đã định ra trong đầu mình nó là người như thế nào. Làm sao chúng ta có thể chống lại định kiến nếu không làm gì để thay đổi nó? Nếu chúng ta để nó mưng mủ lên thì còn nói chuyện gì?”

“Vậy nhưng anh ở đây, trên đảo này,” Linus nói vẻ phòng bị. “Anh có rời đi đâu. Anh có để lũ trẻ rời đảo đâu.”

“Tôi đang bảo vệ chúng khỏi một thế giới không hiểu chúng. Phải tiến dần từng bước, anh Baker ạ. Nếu tôi có thể truyền cho chúng sự tự tin, ý niệm về bản thân chúng, thì hy vọng rằng những điều đó sẽ trao cho chúng những công cụ chúng cần để đối mặt với thế giới thực, đặc biệt là khi việc ấy cũng khó nhọc với chúng đến vậy. Càng chẳng ích gì khi DICOMY phái người như anh tới can thiệp.”

“Người như tôi?” Linus hỏi. “Anh nói vậy là có ý…”

Anh Parnassus thở hắt một hơi. “Tôi xin lỗi. Nói vậy thật không công bằng. Tôi biết anh chỉ đang làm việc của anh mà thôi.” Nụ cười của anh ta thật mong manh. “Dù người thuê anh có thế nào, tôi nghĩ anh vẫn có thể nhìn xa hơn một tập hồ sơ hay một cái tên cụ thể nào đó.”

Linus không rõ mình vừa bị xúc phạm hay được khen ngợi. “Đã có những người khác ư? Trước tôi ấy? Nhân viên công tác xã hội ấy.”

Anh Parnassus chậm rãi gật đầu. “Có một lần. Khi ấy tôi chỉ có Talia và Phee, dù Zoe, bà Chapelwhite, đã đề nghị giúp đỡ chúng tôi rồi. Mới có tin đồn về những đứa khác, không có gì chắc chắn cả. Nhưng tôi đã biến ngôi nhà này thành một mái ấm cho những đứa trẻ tôi đang nuôi nấng, và đang chuẩn bị cho trường hợp nhiều đứa nữa sẽ tới. Người tới trước anh, cậu ta đã… thay đổi. Cậu ta thật dễ thương, và tôi đã nghĩ cậu ta sẽ ở lại. Nhưng rồi cậu ta thay lòng đổi dạ.”

Linus đã nghe ra tất cả những điều không được nói nên lời. Giờ thì anh đã hiểu tại sao bà Chapelwhite đã cười vào mặt anh khi anh ngượng nghịu hỏi có phải bà và anh Parnassus là một đôi không. Và dù đây chắc chắn không phải việc của mình, anh vẫn hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta?”

“Cậu ta được thăng chức,” anh Parnassus khẽ nói. “Đầu tiên là lên cấp Quản lý. Và rồi, lần cuối tôi nghe được, là lên Ban Quản Lý Thượng Tầng. Đúng như những gì cậu ta hằng mong muốn. Khi ấy tôi đã học được một bài học vô cùng chua chát: Đôi khi chúng ta không bao giờ nên nói ra ước muốn của mình vì những điều ấy sẽ không bao giờ trở thành sự thực.”

Linus chớp mắt. Chắc chắn ý anh ta không thể là… “Không phải người đàn ông má xệ đấy chứ?”

Anh Parnassus khúc khích. “Không đâu.”

“Hay người đàn ông đeo kính?”

“Không, anh Baker ạ. Không phải người đàn ông đeo kính.”

Như vậy còn lại người đàn ông tóc gợn sóng điển trai. Ngài Werner. Người đã bảo Linus rằng người ta quan ngại về năng lực của Arthur Parnassus. Linus cảm thấy như bị xúc phạm, dù anh không biết được là tại sao. “Nhưng anh ta rất… rất…”

“Rất?” Anh Parnassus hỏi.

Linus bám lấy điều duy nhất anh nghĩ ra được. “Anh ta phân phát giăm bông hun khói ở các bữa tiệc Giáng Sinh! Nó rất tệ.”

Anh Parnassus nhìn anh chằm chằm trong chốc lát rồi phá lên cười. Linus giật mình khi nghe thấy âm thanh ấy ấm áp và giòn tan đến thế nào, như sóng xô lên bãi đá cuội mượt mà. “Ôi! Anh Baker yêu quý của tôi ơi! Tôi thật sự ngỡ ngàng vì anh đấy.”

Linus cảm thấy tự hào một cách kỳ lạ. “Tôi cũng có chút cố gắng.”

“Quả là vậy,” anh ta nói, lau mắt.

Họ lại ngồi trong im lặng, và đây là lúc Linus cảm thấy thoải mái nhất kể từ khi lên đảo. Anh không dám săm soi gì nhiều, vì sợ rằng làm vậy sẽ cho anh thấy những điều mình chưa sẵn sàng thấy, nhưng biết là có tồn tại. Nhưng, như mọi sự trên đời, chuyện ấy chỉ là nhất thời. Khoảng thời gian của anh ở đây, cũng như ở trên thế gian này, là hữu hạn. Nghĩ theo chiều hướng khác là không ổn.

Rồi, còn chẳng suy nghĩ gì, anh nói, “Kant à, Arthur? Thật đấy à? Bao nhiêu triết gia không chọn.”

Mắt anh Parnassus lấp lánh trong ánh nắng dần tàn. “Ông ấy có mắc vài lỗi ngụy biện.”

“Ồ, đó quả thật là một lời nói giảm nói tránh đấy. Schopenhauer nói rằng…”

“Schopenhauer! Tôi rút lại mọi điều tử tế tôi từng nói về anh, Linus ạ. Anh bị trục xuất khỏi đảo này. Hãy đi ngay.”

“Ông ấy có những bài phê bình rất sắc bén! Và ông ấy làm vậy chỉ để khiến tác phẩm của Kant hợp lý hơn!”

Anh Parnassus khinh bỉ. “Sự công nhận không phải là điều mà Kant…”

“Anh bạn tốt của tôi ơi, đó là chỗ anh chắc chắn đã nhầm to rồi.”

Và câu chuyện cứ thế tiếp tục.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3