Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 10

Chiếc phà đã đợi ở cầu cảng khi bà Chapelwhite dừng xe lại. Linus có thể thấy Merle đi qua đi lại trên boong, ông ta khó chịu khua tay với họ, mặt cau có. “Quả là một ông bạn thiếu kiên nhẫn, phải không?” Linus cảm thán khi cầu hạ xuống từ trên phà.

“Cậu không biết ông ta tệ đến thế nào đâu,” bà Chapelwhite lầm bầm. “Thằng cha cư xử như thể có việc để làm ở đâu đó khác vậy. Cậu Parnassus là người duy nhất trả tiền cho ông ta để dùng cái tàu cũ kỹ ọp ẹp kia, và ông ta biết là vậy. Chúng tôi thậm chí còn chẳng cần dùng phà, nhưng vẫn trả tiền để giữ hòa khí.”

“Làm sao mà bà… Biết gì không? Tôi không muốn biết chuyện ấy. Vậy, chúng ta đi chứ?”

Bà già thở dài. “Nếu buộc phải vậy.”

“Tôi e rằng ta phải đi thật,” Linus nói vẻ thông thái.

Bà vừa liếc anh vừa vào số xe và chậm rãi đi tới. Anh nghĩ bà sẽ nói gì đó, nhưng bà không mở miệng. Anh tự hỏi liệu mình có đang áp đặt suy nghĩ của mình lên bà không.

Chiếc phà hơi nghiêng ngả khi xe đi lên, và dù Linus cảm thấy hơi nôn nao, cảm giác này không như ngày đầu anh đến đây một tuần trước. Nghĩ đến đây khiến anh khựng lại. Thật sự mới chỉ một tuần thôi ư? Anh đã đến vào một ngày thứ bảy, và… Đúng vậy. Đã được đúng một tuần. Anh không biết tại sao điều ấy lại khiến mình ngạc nhiên. Anh vẫn còn nhớ nhà, nhưng đó chỉ là cơn nhức nhối âm ỉ ở đáy lòng.

Đây có khi chẳng phải dấu hiệu tốt lành gì.

Bà Chapelwhite tắt máy khi cầu phà lại lật lên đằng sau họ. Còi tàu rú ở đâu đó trên cao, và họ rời bến. Linus thò tay ra khỏi xe, để gió biển thổi giữa những ngón tay mình.

Họ mới chỉ ở trên phà được vài phút thì Merle xuất hiện. “Bà có tiền cho tôi chưa?” Ông ta hạch hỏi. “Và nhớ là thù lao đã gấp đôi rồi đấy.”

Bà Chapelwhite cười khẩy. “Có đây, lão già lẩm cẩm này.” Bà nghiêng tới thò tay vào hộc để găng.

Linus hoảng loạn. “Ai đang lái phà vậy?”

Merle cau mày nhìn anh. “Mấy thứ này hầu như có thể tự lái mà. Bằng máy tính ấy, cậu biết mà.”

“Ồ!” Linus không nghĩ gì mà nói. “Đã thế, thì ông được cái tích sự gì?”

Merle lườm. “Cậu nói gì cơ?”

“Tiền của ông này,” Bà Chapelwhite ngọt ngào nói, giúi một phong bì vào tay ông ta. “Và cậu Parnassus nhờ tôi gửi lời nhắn tới ông. Cậu ấy mong là tiền phí không gấp đôi lần nữa trong tương lai gần.”

Tay Merle run lẩy bẩy khi giật cái phong bì khỏi tay bà. “Tôi cá là cậu ta sẽ mong vậy. Giá làm ăn cả thôi, tôi e là vậy. Thời buổi kinh tế khó khăn mà.”

“Thế à? Tôi không để ý đấy.”

Nụ cười của Merle đầy ác độc. “Dĩ nhiên là bà không để ý rồi. Giống loài các bà nghĩ mình thượng đẳng hơn tất cả chúng tôi…”

“Ông nên lui xuống đi thì tốt hơn đấy,” Linus khuyên nhủ. “Và cẩn thận không lại uống rượu hết chỗ tiền kia nhé. Tôi không muốn nghĩ đến việc ông sẽ sống qua thời buổi kinh tế khó khăn này như thế nào nếu làm vậy.”

Merle lườm anh rồi xoay gót và vùng vằng trở lại buồng lái.

“Lão già khốn nạn,” Linus lầm bầm. Anh liếc qua bà Chapelwhite, chỉ để thấy bà đang nhìn anh chằm chằm. “Sao vậy?”

Bà lắc đầu. “Cậu… Thôi không sao đâu.”

“Huỵch toẹt ra đi, bà Chapelwhite.”

“Gọi tôi là Zoe đi, được không? Cái xưng hô bà Chapelwhite này cũ kỹ quá rồi.”

“Zoe,” Linus chậm rãi nói. “Tôi… nghĩ như vậy cũng được.”

“Và cậu sẽ là Linus.”

“Tôi không biết sao việc ấy lại quan trọng đến vậy,” anh càu nhàu, nhưng không từ chối bà.

Bà thả anh trước cửa bưu điện, chỉ xuống mặt tiền cửa hàng thực phẩm cách đó vài dãy nhà. “Khi nào cậu xong việc thì hãy đi xuống chỗ kia nhé. Tôi sẽ cố nhanh nhẹn. Tôi muốn quay lại đảo để chúng ta không đến muộn.”

“Muộn gì cơ?” anh hỏi, một tay đặt trên tay nắm cửa, tay kia cầm cái phong bì to đùng, phẳng lì.

Bà cười toe toét với anh. “Hôm nay là ngày thứ bảy thứ hai trong tháng.”

“Thế thì sao?”

“Chúng ta đi phiêu lưu với bọn trẻ. Đó là truyền thống rồi.”

Linus không thích lời ấy. “Phiêu lưu kiểu gì?”

Bà nhìn anh từ đầu đến chân. “Tôi sẽ cần mua vài thứ cho cậu. Đồ cậu đang mặc đơn giản là không ổn, và tôi đoán rằng đây là tất cả những gì cậu mang theo. Cỡ eo của cậu là gì?”

Anh khựng lại. “Tôi không biết đó là việc của bà cơ đấy!”

Bà xô anh ra khỏi xe. “Tôi có ý này hay lắm. Cứ để tôi. Tôi sẽ gặp cậu ở cửa hàng thực phẩm nhé!”

Lốp xe rít lên khi bà phóng đi mất. Người hai bên đường nhìn anh chằm chằm trong khi khói cao su cháy cuồn cuộn bốc lên. Anh ho sù sụ, xua tay trước mặt. “Mọi người khỏe không?” anh hỏi một cặp đôi đang bước đi tay trong tay. Họ hếch mũi lên với anh rồi vội vã sang đường.

Anh nhìn xuống mình. Anh mặc quần tây, áo sơ mi và cà vạt, bộ trang phục thường ngày của anh. Anh không chắc mình muốn biết bà Chapelwhite - Zoe - nghĩ gì trong đầu. Chẳng quan trọng. Anh sẽ nói vậy với bà già khi họ gặp lại lát sau.

Cũng như phần còn lại của ngôi làng, bên trong bưu điện sáng sủa và ngập nắng. Nó được sơn màu phấn nhạt, và có những dải vỏ sò ngoại cỡ viền dọc các mặt tường. Có một tấm bảng tin ghim một tờ rơi quen mắt: THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI. ĐI GHI DANH LÀ VIỆC ÍCH NƯỚC LỢI NHÀ!

Một người đàn ông đứng sau quầy, cảnh giác nhìn anh. Mắt ông ta nhỏ tí, và ông ta có chùm lông rễ tre rậm rạp thò ra từ hai tai. Da ông ta rám nắng và dãi dầu sương gió. “Giúp gì được anh?”

“Tôi tin là có,” Linus nói, bước tới quầy. “Tôi cần gửi thứ này tới Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu.” Anh đưa ra cái phong bì trong có bản báo cáo hàng tuần đầu tiên của mình. Bản báo cáo ấy khá dài, có lẽ dài hơn mức cần thiết, nhưng anh đã không chỉnh sửa gì nhiều trên hai mươi bảy trang giấy viết tay ấy.

“DICOMY, phải không?” người đàn ông hỏi, nhìn xuống cái phong bì với vẻ thích thú hầu như không che đậy khiến Linus lo lắng. “Đã nghe nói là có người đại diện xuống đây. Cũng đến lúc phải có rồi, nếu anh muốn biết ý tôi.”

“Tôi không muốn biết,” Linus cứng nhắc nói.

Người đàn ông lờ anh đi. Ông ta đặt cái phong bì lên cân trước khi nhìn lại Linus. “Tôi hy vọng anh sẽ làm việc đúng đắn.”

Linus cau mày. “Và việc ấy là gì mới được?”

“Đóng cửa cái chỗ đó. Đó là một mối đe dọa.”

“Đe dọa như thế nào?” Anh tự hào vì giọng mình bình thản đến vậy.

Người đàn ông chồm tới trước và hạ giọng. Hơi thở của ông ta có mùi kẹo quả cơm cháy phát ngấy. “Đã có nhiều tin đồn, anh biết không.”

Linus cố gắng không để mình lùi lại. “Không, tôi không biết. Tin đồn gì?”

“Về những thứ hắc ám,” người đàn ông nói. “Những thứ ma quỷ. Chúng không phải trẻ con. Chúng là những con quái vật làm ra những việc khủng khiếp. Người ta ra đảo và không bao giờ trở lại.”

“Người ta nào?”

Người đàn ông nhún vai. “Anh biết mà. Người ta ấy. Họ đi ra ngoài đó và không ai nghe tin gì về họ nữa. Cả cái tên Parnassus kia nữa. Một thằng cha kỳ quặc, chân chính là vậy. Có trời mới biết hắn cho chúng làm gì một mình ngoài đó.” Ông ta ngừng lại. Thế rồi, “Tôi đã thấy vài đứa bọn chúng đấy.”

“Lũ trẻ ư?”

Ông ta khịt mũi. “Ừ, nếu cậu có thể gọi chúng như vậy.”

Linus nghiêng đầu. “Nghe có vẻ như ông quan sát chúng cẩn thận lắm nhỉ.”

“Ồ phải,” người đàn ông nói. “Chúng không đến đây nữa, nhưng khi chúng đến, cậu có thể chắc chắn rằng tôi đã trông chừng chúng.”

“Thú vị đấy,” Linus nói. “Tôi tin là tôi có thể bổ sung vào báo cáo của mình để DICOMY biết rằng một người đàn ông ở tuổi ông có hứng thú không lành mạnh với trẻ em mồ côi. Như vậy có được không? Đặc biệt là khi họ đã trả tiền để ông giữ im lặng, mà có vẻ như là một việc ông không làm được.”

Người đàn ông lùi lại, mắt trợn tròn. “Đó không phải là điều tôi…”

“Tôi không đến đây để hỏi ý ông, thưa ngài. Tôi ở đây để gửi cái phong bì kia đi. Đó là tất cả những gì tôi yêu cầu từ ông.”

Mắt ông ta nheo lại. “Ba đồng hai lăm.”

“Tôi sẽ cần hóa đơn,” Linus nói khi trả tiền. “Để được hoàn lại. Nói cho cùng, tiền không phải từ trên trời rơi xuống.”

Người đàn ông đập tờ hóa đơn lên quầy. Linus ký vào đó, cầm bản sao và đã quay người rời đi khi, “Anh là Linus Baker phải không?”

Anh ngoái lại nhìn. “Đúng vậy.”

“Có lời nhắn gửi cho anh đây.”

“Nếu đó là cái gì giống những lời ông vừa truyền lại, thì tôi không cần đâu.”

Người đàn ông lắc đầu. “Ngu ngốc. Không phải từ tôi, dù nghe lời tôi để không phải là người tiếp theo biến mất thì sẽ tốt hơn cho cậu đấy. Đây là một tin nhắn chính thức. Từ DICOMY.”

Anh không nghĩ mình sẽ nhận được gì, ít nhất là sớm đến vậy. Anh đợi trong khi ông ta lục lọi trong cái giỏ cạnh mình rồi tìm thấy một phong bì nhỏ và đưa qua. Thư này gửi từ DICOMY, đúng như lời người đàn ông đã nói. Có dấu niêm phong chính thức và những thứ khác.

Anh chuẩn bị xé phong bì thì cảm nhận được ánh mắt ông ta lại dán lên mình.

Một suy nghĩ lóe lên trong đầu anh. “Này, chắc ông không biết gì về việc làm bè đâu, đúng không?”

Trông ông ta bối rối. “Làm bè ấy ư, anh Baker?”

Linus mím môi cười. “Thôi quên đi.” Anh quay đi và rời bưu điện.

Khi đã ra ngoài đường, anh mở phong bì. Trong đó là một tờ giấy duy nhất.

Anh giở nó ra.

Bên trong viết:

SỞ PHỤ TRÁCH THANH THIẾU NIÊN NHIỆM MÀU

LỜI NHẮN TỪ BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG

Anh Baker:

Chúng tôi mong ngóng những báo cáo của anh. Xin nhắc lại, chúng tôi mong anh chớ có bỏ qua chi tiết nào hết.

Không bỏ qua gì hết.

Trân trọng,

CHARLES WERNER

BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG

Linus nhìn chằm chằm xuống tờ giấy một lúc lâu.

Anh tìm thấy Zoe ở cửa hàng thực phẩm, đúng nơi bà nói bà sẽ tới. Bà đẩy một xe đầy đồ ở đằng trước, và có vẻ như đang cự nự với người bán thịt về một miếng thịt to. “Ổn cả chứ?” anh hỏi, tới đứng cạnh bà.

“Ổn,” Zoe lầm bầm, lườm người bán thịt. “Chỉ đang mặc cả thôi.”

“Không mặc cả,” người bán thịt nói bằng giọng địa phương đặc sệt mà Linus không nghe được ra là xứ nào. “Không mặc cả gì hết. Giá gì chẳng tăng.”

Mắt Zoe nheo lại. “Với ai cũng vậy à?”

“Đúng thế.” người bán thịt quả quyết. “Với ai cũng vậy.”

“Tôi không tin anh.”

“Thế thì tôi lấy lại thịt.”

Zoe với tay giựt miếng thịt khỏi mặt quầy. “Không. Tốt thôi. Nhưng tôi sẽ nhớ chuyện này, Marcel ạ. Đừng tưởng là tôi không nhớ.”

Ông ta co rụt lại nhưng không nói gì thêm.

Bà thả thịt vào xe đẩy và bắt đầu đẩy đi. Linus theo sau.

“Chuyện đó là sao vậy?”

Bà mím môi cười với anh. “Chẳng có gì tôi không xử lý được cả. Gửi báo cáo rồi à?”

“Gửi rồi.”

“Và tôi nghĩ cậu sẽ không nói với tôi cậu viết gì trong đó đâu nhỉ.”

Anh há hốc miệng nhìn bà. “Dĩ nhiên là không rồi! Đó là thông tin trao đổi thuộc đặc quyền dành cho…”

Bà xua tay cắt lời anh. “Thử cũng chẳng mất gì mà.”

“… Vả lại, như đã vạch ra ở cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH, trang 519, đoạn mười hai, phân mục…”

Bà thở dài. “Mình còn trách được ai ngoài mình nữa đây.”

Anh nghĩ tới việc kể với Zoe (thật lạ, cái việc ấy, gọi bà bằng tên riêng ấy, thật không quen) điều người đàn ông ở bưu điện đã nói, nhưng anh không làm vậy. Anh không chắc là tại sao. Có lẽ vì anh cảm thấy đó không phải là điều gì bà chưa từng nghe qua trước đây. Vả lại, anh tự nhủ, nắng đang chiếu rọi. Ngày hôm nay mới đẹp trời làm sao. Chẳng việc gì phải làm hôm nay mất vui vì lời nói của một thằng cha thiển cận phiền phức.

Ngày hôm ấy mất vui gần như ngay sau khi họ về đảo.

Thật là. Lẽ ra anh phải lường trước được việc ấy chứ.

Merle không nói gì nhiều ngoài lầm bầm rằng họ đã đi lâu hơn dự kiến, nhưng họ lờ ông ta đi. Trong lúc họ đi phà về đảo, Linus ngắm nhìn con hải âu bay theo họ trên cao, và anh nhớ về miếng lót chuột của mình ở DICOMY, về tấm ảnh chụp bãi biển hỏi anh có ước mình được đến đây không.

Anh đã đến. Anh đã đến đây rồi.

Và đó là một mạch suy nghĩ nguy hiểm. Vì đây không phải là một kỳ nghỉ, một chuyến đi anh xứng đáng có được sau tất cả những làm lụng mệt nhọc. Anh vẫn đang làm việc, và dù đang ở đâu, anh không thể quên điều ấy được. Anh đã đi xa hơn những gì mình quen thuộc rồi, cái vụ Zoe và Arthur này rõ ràng là không chuyên nghiệp, nhưng chỉ trong ba tuần nữa thôi. Căn nhà của anh đang đợi, và khóm hướng dương cũng vậy. Calliope chắc chắn là muốn về nhà, dù anh thường xuyên thấy cô ả nằm ườn dưới nắng trong vườn suốt vài tiếng liền mà không động đậy thế nào. Vậy nên nếu cô ả có lần đầu meo meo với anh khi anh vuốt một ngón tay giữa hai tai nó, và tự hỏi liệu mình có sắp sửa lìa một bàn tay không, thì sao chứ? Việc ấy chẳng có nghĩa lý gì.

Linus đã có cuộc đời của mình.

Một cuộc đời, thật không may, dường như quyết tâm co kéo giới hạn tinh thần của anh.

Anh đứng trước gương trong phòng ngủ của nhà khách và nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu của mình. “Ôi trời ơi!”

Zoe đã giúi một cái túi vào tay anh, bảo anh rằng bà đã mua cho anh trang phục cho cuộc thám hiểm chiều hôm ấy. Bà đã lờ đi những lời phản đối của anh trong khi ôm mọi túi đồ ra khỏi đằng sau xe như thể chúng nhẹ tựa lông hồng. Bà đã bỏ lại anh đứng trên đường xe chạy.

Anh định để mặc cái túi còn nguyên trong nhà khách.

Nếu giả vờ như nó không có ở đó, thì anh sẽ không phải nhìn vào bên trong.

Để đánh lạc hướng mình, anh cất quần áo đã được giặt và trải ra trên giường đi. Có tờ giấy nhắn đặt ở trên ghi: Dịch vụ giặt là hàng tuần của ngài đã được thực hiện! Cảm ơn vì đã nghỉ tại Đảo Marsyas! Nhân viên hành lý của ngài, Chauncey. Việc Chauncey có vẻ như đã giặt hết quần áo, kể cả đồ lót của anh, chắc chắn là không ổn. Linus sẽ phải nói chuyện với thằng bé về các giới hạn. Chắc chắn nó sẽ lại xin tiền boa cho mà xem.

Chính vào lúc đang vuốt phẳng cà vạt của mình thì anh nhận ra mới chỉ ba phút trôi qua, và mình vẫn đang nghĩ về cái túi.

“Chỉ ngó một cái thôi,” anh lẩm bẩm một mình.

Anh ngó vào trong túi.

“Cái quái gì vậy?” Anh hỏi không khí. “Chắc hẳn là không rồi. Bộ đồ này là thứ thiếu đứng đắn nhất. Chà, mình sẽ không bao giờ mặc thứ này. Bà ta nghĩ bà ta là ai chứ? Đúng là Tinh linh. Vô dụng, cả cái loài đấy.”

Anh đóng túi lại và quẳng nó lên sàn trong xó.

Anh ngồi xuống mép giường. Có khi anh sẽ mở cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH để nhắc mình nhớ lại. Rõ ràng là anh cần nhớ lại. Anh đang trở nên quá… thân thuộc với những người ở đây. Một nhân viên công tác xã hội cần phải duy trì một mức độ xa cách nhất định. Khoảng cách ấy giúp họ khách quan hơn và không để quan điểm của mình bị ảnh hưởng hay lung lay. Làm vậy có thể sẽ gây tổn hại tới lũ trẻ. Anh phải chuyên nghiệp lên.

Anh đứng dậy, định bụng thực hiện đúng như vậy. Có lẽ anh có thể ngồi phơi nắng ngoài hiên trong lúc đọc sách. Nghe có vẻ hoàn hảo đấy.

Anh kinh ngạc khi thay vì cầm quyển sách nặng trịch, anh lại nhấc cái túi lên từ trên sàn. Anh mở nó ra, nhìn vào bên trong. Thứ đồ trong túi vẫn không đổi.

“Có khi còn chẳng vừa ấy chứ,” anh lẩm bẩm một mình. “Bà ấy không thể săm soi mình và đoán ra cỡ của mình được. Vả lại lẽ ra bà già không nên săm soi mình mới phải. Như vậy là bất lịch sự.”

Và đã thế, dĩ nhiên, anh cảm thấy mình cần phải chứng minh là bà đã lầm. Như vậy, khi anh gặp lại Zoe (lúc sau, và chắc chắn là không phải sau khi tham gia vào một cuộc thám hiểm ngớ ngẩn nào đó), anh có thể bảo bà rằng bà nên tránh làm nghề tư vấn mua sắm cá nhân, vì bà quá tệ trong khoản đó.

Phải rồi. Anh sẽ làm đúng như vậy.

Anh mặc quần áo vào.

Chúng vừa như in.

Anh lắp bắp khi nhìn mình trong gương.

Trông anh như thể đang trang bị để đi săn ở thảo nguyên Serengeti hoang dã hay thám hiểm rừng già ở Brazil. Anh đang mặc quần cộc màu be và áo sơ mi có cổ màu be cùng bộ. Mấy cúc trên cùng của sơ mi đã bị tháo ra (trông gần như là bị giật ra), nên cổ áo rộng mở quanh cổ anh, để lộ làn da tai tái, mịn màng. Thật ra, anh đang khoe nhiều da thịt hơn bất kỳ lúc nào anh nhớ được, và chân anh trắng như ma vậy. Còn khiến tình hình tồi tệ hơn là đôi tất nâu cao tới giữa bắp chân và đôi bốt cứng cỏi khiến anh đau chân như thể chúng chưa bao giờ được sử dụng.

Nhưng thứ khủng khiếp nhất là cái mũ giống kiểu mũ bảo hiểm đi kèm bộ trang phục. Nó có cảm giác thật kỳ lạ khi đội lên đầu anh.

Vậy nên anh đứng ở đó, nhìn vào hình ảnh phản chiếu của mình, tự hỏi tại sao thay vì giống một nhà thám hiểm trong các câu chuyện thám hiểm anh từng đọc khi còn bé (mẹ anh ghét cay ghét đắng chúng, nên anh phải giấu sách dưới gầm giường và đọc vào lúc đêm khuya trong ánh đèn pin dưới tấm chăn trùm lên), trông anh giống một quả trứng màu nâu có tay chân hơn.

“Không,” anh nói, lắc đầu. “Tuyệt đối không. Mình không mặc đâu. Thật sự không mặc đâu. Thế này thật ngớ ngẩn. Toàn bộ chuyện này đều…”

Có tiếng đập thình thình lên cửa trước.

Anh cau mày và quay đi khỏi gương.

Tiếng đập cửa lại vang lên.

Anh thở dài. Đúng là cái số của anh.

Anh ra cửa, hít một hơi thật sâu, và mở ra.

Ở đó, đứng trên hiên, là năm đứa trẻ, tất cả đều mặc trang phục thám hiểm như anh. Ngay cả Theodore cũng mặc thứ kiểu như áo khoác be được cắt may để có chỗ xòe cánh. Thằng bé lùi lại và om sòm chiêm chiếp với Linus rồi phấn khích xoay một vòng.

“Òa,” Talia hít một hơi, nhìn anh từ đầu đến chân. “Chú tròn thật đấy. Giống cháu này!”

Phee cúi xuống săm soi đầu gối anh vẻ chỉ trích, đôi cánh rung lên sau lưng. “Sao chú trắng thế? Chú không ra đường à? Không bao giờ luôn à? Chú gần trong suốt bằng Chauncey rồi đấy.”

Đôi mắt của Chauncey nhún nhảy trên cuống. “Xin chào! Cháu mong là chú thấy quần áo của mình đã được giặt là tử tế. Nếu chú phát hiện ra bị mất đồ gì, thì đó là vì cháu vô tình làm mất nó và cảm thấy vô cùng hối tiếc về việc ấy. Xin chú vẫn cứ cân nhắc chấm mười điểm cho dịch vụ của cháu nhé.” Nó chìa một xúc tu ra.

Linus nhướn một bên mày với nó.

Chauncey thở dài và rụt xúc tu về. “Ôi! Cái chú này.”

Lucy cười toe toét với Linus dưới bộ ria giả quá to so với mặt nó. Thằng bé cũng mặc trang phục nhà thám hiểm, dù đồ của nó màu đỏ và nó đeo miếng bịt mắt vì nhiều lý do mà Linus không muốn biết. “Xin chào, chú Baker. Cháu là người dẫn đầu cuộc thám hiểm truy tìm kho báu trên đảo Tinh linh này. Cháu mừng là chú đã quyết định tham gia với chúng cháu. Rất có thể chú sẽ có một cái chết khủng khiếp trong tay và miệng của thổ dân ăn thịt người. Họ sẽ xiên cọc nướng sống chú rồi liếm nước thịt chảy ra từ lớp da nứt toác của chú. Nếu may mắn, chú sẽ bị nhiễm khuẩn hoại tử từ một vết côn trùng đốt khủng khiếp trước, và cơ thể chú sẽ thối rữa từ dưới lên trên tới khi không còn gì ngoài một đống xương và máu mủ lẫn lộn. Sẽ tuyệt vời lắm đấy.”

Linus há hốc mồm nhìn nó.

“Các con,” một giọng nói khác vang lên. “Tránh chú Baker ra chút nào, được không?”

Linus ngẩng lên và thấy Arthur đứng trước nhà khách, cùng Sal đang lo lắng ngó ra từ sau mình. Sal cũng mặc như những đứa khác, và trông thằng bé như đang cố che giấu thân hình đồ sộ đằng sau Arthur khi nó thấy Linus đang nhìn mình. Nó không giấu được, dĩ nhiên là vậy, vì khổ người của nó và sự thật rằng người Arthur mỏng như tờ giấy.

Linus cảm thấy họng mình hơi nghẹn lại khi nhìn bóng dáng bảnh bao mà Arthur họa nên trong bộ trang phục của riêng mình. Thay vì màu be như lũ trẻ, quần áo của anh màu đen, có vạch đỏ chạy ngang ngực. Có thứ trông như một cái rìu cất trong bao gài ở eo anh. Anh đeo bộ ria như Lucy, dù trông nó bớt ngớ ngẩn hơn rất nhiều khi nằm trên mặt anh. Nó khẽ nhúc nhích khi Arthur mỉm cười với anh. Linus đỏ mặt quay đi. Đột nhiên anh thấy nóng nực quá. Một quả trứng tròn vo, nóng hổi với tứ chi trắng bợt.

Trước đây anh chưa bao giờ quá quan tâm tới ngoại hình của mình. Chắc chắn là anh không cần phải bắt đầu quan tâm từ bây giờ. Đây là một chuyến thăm hỏi như mọi chuyến thăm hỏi khác anh đã thực hiện trong quá khứ.

Một chuyến điều tra nhé, anh nhắc nhở bản thân.

Chứ không phải là thăm hỏi.

Anh mở miệng để từ chối bất kỳ lời mời nào lũ trẻ đã đưa ra (và không phải vì anh thật sự tin là sẽ có thổ dân ăn thịt người, dù với Lucy mà nói, anh không dám chắc).

Nhưng trước khi anh thốt lên được lời nào, Lucy đã nhảy xuống khỏi hiên và tạo dáng hoành tráng, hai tay chống hông. “Hãy bắt đầu chuyến phiêu lưu này nào!” thằng bé rống lên. Nó bắt đầu hành quân về phía cánh rừng rậm rạp, mỗi bước đều đá gối thật cao.

Lũ trẻ nối gót. Theodore cất cánh, bay là là trên đầu chúng. Sal mau chóng liếc Linus rồi chạy theo những đứa khác.

“Anh đi chứ, Linus?” Arthur hỏi.

“Bộ ria của anh thật kỳ cục,” Linus vừa lầm bầm vừa bước xuống hiên và rón rén theo sau lũ trẻ.

Anh giả vờ như mình không nghe thấy tiếng cười khẽ khàng vang lên sau lưng.

“Được rồi,” Lucy nói, dừng lại ở bìa rừng. Nó quay lại đối diện với nhóm thám hiểm, mở to mắt. “Như các ngươi đã biết, có một Tinh linh độc ác…”

“Này!” Phee la lên.

“Lucy, chúng ta không được gọi người khác là độc ác,” Arthur nhắc nhở thằng bé trong khi Theodore đậu lên vai anh. “Như vậy không lịch sự đâu.”

Lucy đảo mắt. “Được thôi. Con rút lại lời đó. Có một Tinh linh giết chóc…” Nó ngừng lại, như thể đợi xem có ai phản đối không. Chẳng ai phản đối cả. Ngay cả Phee trông cũng vui sướng. Linus cảm thấy trọng điểm đã bị bỏ qua hoàn toàn, nhưng anh nghĩ mình cứ ngậm miệng thì khôn ngoan hơn. “Một Tinh linh giết chóc có một kho tàng chôn giấu sâu trong cánh rừng để cho chúng ta chiếm lấy. Ta không hứa chắc được rằng các ngươi sẽ sống sót. Thật ra, ngay cả khi các ngươi tới được chỗ kho báu, rất có thể ta sẽ phản bội các ngươi và đem các ngươi làm mồi cho cá sấu và phá lên cười khi chúng nhai xương các ngươi rôm rốp…”

“Lucy,” Arthur lại nhắc.

Lucy thở dài. “Hôm nay đến lượt con phụ trách kia mà.” Nó bĩu môi. “Thầy nói con có thể tiến hành theo cách con muốn cơ mà.”

“Đúng là thế,” Arthur đồng ý. “Nhưng nói vậy không có nghĩa là con được phản bội các bạn.”

“Nhưng con là kẻ xấu đứng trong tối mà!”

“Có khi chúng ta đều làm kẻ xấu được đấy,” Chauncey ùng ục nói.

“Cậu có biết phải xấu tính thế nào đâu,” Talia bảo thằng bé. “Cậu tốt bụng quá mức ấy.”

“Không. Tớ có thể xấu tính mà. Xem này.” Cặp mắt của nó xoay loạn lên tới khi chĩa vào Linus. “Chú Baker, tuần sau cháu sẽ không giặt đồ cho chú đâu. Ha ha ha!” Rồi với giọng hoảng loạn, nó thì thầm, “Cháu đùa thôi. Cháu sẽ làm mà. Xin hãy để cháu làm. Đừng cướp công việc của cháu mà.”

“Mình muốn làm kẻ xấu,” Phee nói. “Đặc biệt là vì chúng ta đang đối mặt với một Tinh linh giết chóc. Trong trường hợp các cậu không biết, mình cũng là Tinh linh, và mình hẳn cũng giết chóc đấy.”

“Mình đã luôn muốn giết ai đó,” Talia nói, vuốt râu. “Các cậu có nghĩ mình có đủ thời gian để quay lại lấy xẻng không?”

Theodore nhe nanh và rít lên đầy đe dọa.

“Sal?” Lucy ủ rũ hỏi. “Anh cũng muốn làm kẻ xấu à?”

Sal ngó ra qua vai Arthur. Thằng bé lưỡng lự, rồi gật đầu.

“Được thôi,” Lucy nói, giơ hai tay lên. “Chúng ta đều sẽ làm người xấu nhé.” Nó cười toe toét với các bạn. “Và có lẽ ta vẫn có thể phản bội tất cả các người bằng cách làm người tốt trong tối và…” Nó cau mày, vừa méo mặt vừa lè lưỡi. “Không, nghe ghê quá. Eo. Èo. Phì phì.”

Linus có linh cảm cực kỳ chẳng lành về chuyến thám hiểm này.

Lucy dẫn đường, hét to tới nỗi chim chóc vừa giận dữ quàng quạc vừa bay lên từ chỗ đậu trên cây. Thằng bé hỏi Arthur liệu nó có thể dùng cái rìu của anh để chặt qua mớ dây leo rậm rạp buông xuống từ trên cây, một việc mà Linus thấy đặc biệt đáng báo động. Anh nhẹ cả người khi Arthur từ chối, nói rằng trẻ con không nên sử dụng những công cụ như vậy cho tới khi chúng lớn hơn.

Dẫu vậy, việc ấy trông như chẳng cần thiết. Bất kỳ lúc nào chúng có vẻ như mắc kẹt, không thể tiến về phía trước vì cây rừng mọc lên, Phee sẽ bước ra. Đôi cánh của con bé long lanh sáng bừng, rung động khi nó giơ tay lên. Dây leo trườn lên cây như những vật sống, để lộ lối đi trước mặt.

Lũ trẻ thích thú thảng thốt, trong khi Phee tự mãn nhìn chúng. Linus chợt có suy nghĩ rằng từ đầu con bé đã khiến đường đi khó khăn hơn để mình được lũ trẻ nhờ đến. Ngay cả Sal cũng mỉm cười khi đám dây leo vun vút rút về trên cây.

Linus khá nhanh chóng học được rằng dẫu trong tuần rồi anh đã trải nghiệm nhiều hoạt động ngoài trời hơn cả một năm vừa qua, như vậy không có nghĩa là anh khỏe mạnh được chút nào. Chẳng mấy chốc, anh đã hổn hển và phì phò, mồ hôi nhỏ giọt trên trán. Anh đi ở mãi đằng sau cùng Arthur, người dường như cố ý thả chậm bước chân, một việc mà Linus vô cùng biết ơn.

“Chúng ta đang đi đâu vậy?” Linus hỏi sau một khoảng thời gian mà anh chắc chắn là dài hàng tiếng đồng hồ, nhưng trên thực tế là chưa tới một tiếng.

Arthur nhún vai, trông như không chút hụt hơi. “Tôi chẳng hay biết gì. Như vậy không tuyệt sao?”

“Tôi nghĩ anh và tôi định nghĩa từ tuyệt vời theo hai cách vô cùng khác nhau đấy. Buổi dã ngoại này có bất cứ lịch trình nào không?”

Arthur bật cười. Linus thấy khó chịu trước việc mình yêu thích âm thanh ấy đến thế nào. “Ngày qua ngày, chúng nó đều có lịch trình. Đúng tám giờ là ăn sáng, rồi vào lớp. Ăn trưa vào buổi trưa. Lại lên lớp. Theo đuổi sở thích cá nhân vào buổi chiều. Bảy rưỡi là ăn tối. Chín giờ là đi ngủ. Tôi tin rằng thi thoảng thoát khỏi lệ thường sẽ mang đến những điều kỳ diệu cho tâm hồn chúng ta.”

“Theo cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH, lũ trẻ không nên…”

Arthur dễ dàng bước qua một khúc gỗ lớn, bên hông leo đầy rêu xanh. Anh quay lại và chìa tay ra. Linus lưỡng lự rồi nắm lấy bàn tay ấy. Chuyển động của anh kém duyên dáng hơn nhiều, nhưng Arthur giữ cho anh không ngã dập mặt. Arthur thả tay anh ra khi lũ trẻ hò hét cách đó một quãng ở phía trước. “Tôi nghĩ là anh sống theo lời cuốn sách ấy dạy quá đấy.”

Linus xù lông. “Không hề nhé. Và kể cả có vậy, thì làm thế cũng chẳng có gì sai. Cuốn sách thiết lập trật tự cần có để tạo ra những đứa trẻ khỏe mạnh và hạnh phúc.”

“Thật không?”

Linus nghĩ mình đang bị chế nhạo, nhưng lời ấy dường như chẳng mang ác ý. Anh không nghĩ là từ đầu đến chân Arthur Parnassus có chút xíu ác độc nào. “Nó tồn tại là có lý do, Arthur ạ. Đó là một hệ thống quản lý dẫn dắt thế giới thanh thiếu niên nhiệm màu. Các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực đều đóng góp…”

“Các chuyên gia loài người.”

Linus khựng lại, vừa chống tay lên cây vừa hớp hơi. “Sao cơ?”

Arthur ngẩng mặt lên tán cây rừng. Một chùm nắng đã xuyên qua lá và cành cây, soi rọi vào mặt anh. Trông anh thật hư ảo. “Các chuyên gia loài người,” anh lặp lại. “Không một cá nhân nhiệm màu nào có tiếng nói gì trong quá trình biên soạn cuốn sách đó. Mọi từ ngữ trong đó đều được viết ra từ bàn tay và tâm trí của con người.”

Linus do dự. “Chà! Đó… Đó hẳn không thể là sự thực được. Chắc chắn phải có ai đó từ cộng đồng nhiệm màu đưa ra ý kiến đóng góp chứ.”

Arthur cúi mặt nhìn Linus. “Từ chức vụ nào? Không có sinh vật nhiệm màu nào từng giữ chức vụ có quyền lực gì. Không phải ở DICOMY. Không phải ở bất kỳ vai trò nào trong chính phủ. Họ không được phép. Họ bị đẩy ra bên lề xã hội, dù ở tuổi nào đi nữa.”

“Nhưng… có nhiều bác sĩ nhiệm màu. Và… luật sư nữa. Phải rồi, luật sư ấy. Thế nào, tôi biết một luật sư vô cùng dễ thương là Banshee. Rất đáng kính nhé.”

“Và bà ấy chuyên về bộ luật nào?”

“Bà ấy làm việc với những sinh vật nhiệm màu đang cố gắng chống lại… việc ghi danh…”

“À,” Arthur nói. “Tôi hiểu rồi. Còn các bác sĩ thì sao?”

Linus thấy dạ dày mình thắt lại. “Họ chỉ chữa bệnh cho các sinh vật nhiệm màu.” Anh lắc đầu, cố dọn dẹp suy nghĩ hỗn loạn của mình. “Mọi chuyện đều có lý do của nó, Arthur ạ. Những người đi trước biết rằng cách duy nhất để giúp các cá nhân nhiệm màu hòa nhập vào văn hóa của chúng ta là phải thiết lập những chủ trương nghiêm ngặt để đảm bảo quá trình chuyển giao được êm thấm.”

Ánh mắt Arthur khẽ đanh lại. “Và ai nói rằng họ cần phải hòa nhập? Người ta có cho họ lựa chọn nào không?”

“Chà… Không. Tôi không nghĩ vậy. Nhưng đó là vì lợi ích lớn lao hơn mà!”

“Lợi ích của ai? Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng lớn lên, hả Linus? Chẳng có vẻ gì là tình hình sẽ thay đổi cả. Chúng vẫn sẽ bị ghi danh. Chúng vẫn sẽ bị giám sát. Sẽ luôn có ai đó ngoái đầu qua vai, theo dõi nhất cử nhất động của chúng. Chuyện ấy sẽ không dừng lại chỉ vì chúng rời khỏi nơi này. Đời chúng sẽ luôn như vậy.”

Linus thở dài. “Tôi sẽ không cố sức tranh luận với anh về chuyện này đâu.”

Arthur gật đầu. “Dĩ nhiên là không rồi. Vì nếu chúng ta đang tranh luận, tức là cả hai đều quá bảo thủ, chúng ta đều không sẵn sàng nhìn sự việc từ một phương diện khác. Và tôi biết rằng mình không cứng đầu đến vậy.”

“Chính xác,” Linus nói, nhẹ nhõm. Rồi, “Ơ kìa!”

Nhưng Arthur đã tiếp bước qua khu rừng rồi.

Linus hít sâu một hơi, lau trán, và theo sau.

“Việc này lại dẫn ngược về Kant,” Arthur nói khi Linus bắt kịp.

“Dĩ nhiên là vậy rồi,” Linus lầm bầm. “Lố bịch muốn chết, nếu anh muốn biết ý kiến của tôi.”

Arthur khúc khích. “Chuyện ông ta đúng hay sai là một việc hoàn toàn khác, nhưng lời ông ta nói rõ ràng là mang tới một góc nhìn thú vị về vấn đề thế nào là có đạo đức và thế nào là không.”

“Định nghĩa của vô đạo đức chính là sự đồi bại,” Linus nói.

“Đúng vậy,” Arthur đồng tình. “Nhưng ta là ai mà quyết định được cái gì là cái gì?”

“Là hàng triệu năm tiến hóa về mặt sinh học. Chúng ta không thò tay vào lửa vì làm vậy sẽ bị bỏng. Chúng ta không giết người vì làm vậy là sai trái.”

Arthur bật cười như thể sung sướng. “Vậy mà người ta vẫn làm cả hai việc ấy đấy. Có lần khi tôi còn trẻ, tôi có biết một gã phượng hoàng nọ thích mê cái cảm giác lửa thiêu trên da thịt mình. Người ta cũng giết nhau hàng ngày.”

“Anh không thể đánh đồng hai việc đó được!”

“Anh vừa làm đấy thôi,” Arthur dịu dàng nói. “Quan điểm của tôi vẫn như trong giờ học với Lucy. Thế giới này thích nhìn nhận mọi thứ theo kiểu đen trắng rõ ràng, chính tà phân minh. Nhưng có những khoảng xám ở giữa. Và chỉ vì một người có khả năng làm việc ác, không có nghĩa là họ sẽ làm. Rồi có cả khái niệm về cái xấu theo cảm nhận nữa. Tôi vô cùng nghi ngờ việc Chauncey sẽ dùng xúc tu hành hung người khác, kể cả để bảo vệ bản thân. Vậy nhưng người ta thấy cháu nó và dựa trên ngoại hình của thằng bé quyết định rằng nó là thứ gì đó tàn ác lắm.”

“Như vậy thật bất công,” Linus công nhận. “Cả khi thằng bé có trốn dưới gầm giường tôi ba ngày một lần vào buổi sáng.”

“Chỉ vì cháu nó vẫn đang vật lộn giữa thứ người ta bảo rằng thằng bé phải trở thành và con người thật của nó thôi.”

“Nhưng thằng bé có nơi này,” Linus nói, khom mình luồn dưới một cành cây.

Arthur gật đầu. “Đúng vậy. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Hòn đảo này không phải là nơi ở vĩnh viễn, Linus ạ. Ngay cả khi anh, cùng với sự thông thái vô bờ bến quyết định cho phép chúng tôi giữ nguyên như bây giờ, thì một ngày nào đó nó sẽ một mình bước ra thế giới. Và điều tốt nhất tôi có thể làm là khiến nó sẵn sàng cho việc ấy.”

“Nhưng làm sao anh giúp nó sẵn sàng được khi không bao giờ để nó rời đi?”

Arthur quay phắt sang Linus, cau mày. “Thằng bé không phải là tù nhân.”

Linus lùi lại. “Tôi chưa từng… Đó không phải điều tôi… Tôi biết vậy mà. Tôi xin lỗi nếu lời ấy nghe như mang bất kỳ ý gì khác.”

“Tôi chuẩn bị cho chúng,” Arthur nói. “Nhưng tôi có che chở chúng nữa, có đôi chút. Chúng… dù là ai, dù làm được những gì, chúng vẫn rất yếu ớt. Chúng lạc lối, Linus ạ. Tất cả lũ trẻ ấy. Chúng chẳng có ai ngoài nhau ra.”

“Và có anh nữa,” Linus khẽ khàng nói.

“Và tôi nữa,” Arthur đồng tình. “Và dù tôi hiểu quan điểm của anh, tôi hy vọng là anh cũng thấy được ý của tôi. Tôi biết thế giới này vận hành như thế nào. Tôi biết những cái nanh nọc của nó. Nó có thể cắn trộm anh khi anh ít ngờ tới nhất. Cố gắng giữ chúng tránh xa nơi ấy lâu hết mức có thể là xấu xa lắm ư?”

Linus không dám chắc, và anh cũng trả lời như vậy. “Nhưng chúng ở ẩn càng lâu, mọi chuyện sẽ càng khó khăn hơn khi thời khắc ấy tới. Nơi này… Hòn đảo này. Chính anh cũng nói rồi. Nơi này không phải là mãi mãi. Có nguyên một thế giới rộng lớn ngoài muôn trùng khơi xa, và dù đó có thể không phải là một thế giới công bằng, chúng vẫn phải biết ở ngoài đó còn có gì nữa. Nơi đây không thể là tất cả của chúng được.”

“Tôi biết là vậy,” Arthur nói, nhìn vào trong rừng với vẻ khó dò. “Nhưng đôi khi, tôi thích giả vờ là vậy. Có những ngày mà chuyện ấy rõ ràng có cảm giác có thể trở thành sự thực.”

Linus không thích cách người đàn ông này nói về chuyện ấy. Giọng anh nghe gần như… buồn rầu. “Dù sao đi nữa, tôi cũng chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ bàn luận triết học về đạo đức trong lúc mặc quần cộc màu be đứng giữa rừng.”

Arthur phá lên cười. “Tôi thấy anh quyến rũ vô cùng.”

Linus lại thấy nóng bừng. Anh tự nhủ đó là do vận động mạnh. Anh khó nhọc nuốt khan. “Thế ra, anh có biết một gã phượng hoàng nọ hả?”

Ánh mắt Arthur lộ vẻ tường tận, nhưng anh dường như không muốn tiếp tục câu chuyện. “Đúng vậy. Anh ta khá… tò mò. Nhiều chuyện đã xảy ra với anh ta, nhưng anh ta vẫn ngẩng cao đầu. Tôi thường xuyên nghĩ về con người anh ta đã trở thành.” Arthur mím môi cười, và Linus biết cuộc trò chuyện đã kết thúc.

Họ tiếp tục đi xuyên qua khu rừng.

Họ đến một bãi biển ở bờ đằng xa của hòn đảo. Bãi này nhỏ và toàn đá cuội trắng và nâu thay vì cát. Sóng cuốn qua đá cuội, và chúng thích thú cọ lên nhau kêu lách cách.

“Chậm thôi nào, anh em,” Lucy nói, mắt rà soát bãi biển. “Có gì đó gớm ghiếc đang ở quanh đây.”

“Chúng ta không chỉ toàn anh em đâu nhé,” Talia cau mày nói. “Con gái cũng có thể làm nhà thám hiểm mà. Như Gertrude Bell.”

“Và Isabella Bird,” Phee nói.

“Và Mary Kingsley.”

“Và Ida Laura Pfeiffer.”

“Và Robyn…”

“Được rồi, được rồi,” Lucy càu nhàu. “Mình hiểu rồi. Con gái có thể làm mọi việc mà con trai làm. Giời ạ!” Nó quay lại nhìn Linus, nụ cười gian manh nở trên mặt. “Chú có thích con gái không, chú Baker? Hay thích con trai? Hay thích cả hai?”

Lũ trẻ chậm rãi quay đầu lại nhìn anh chằm chằm.

“Chú thích tất cả mọi người,” Linus xoay sở trả lời được.

“Chán òm,” Talia lầm bầm.

“Cháu là con trai này!” Chauncey thốt lên. Thằng bé cau mày. “Cháu nghĩ vậy.”

“Con là bất kỳ người nào con muốn trở thành,” Arthur nói với nó, vỗ về nó ở nơi giữa hai mắt.

“Chúng ta có thể làm ơn trở lại với nhiệm vụ hiện tại được không?” Lucy van vỉ. “Nếu cứ tiếp tục phát biểu thì thầy sẽ khiến tất cả chúng ta bị sát hại một cách dã man đấy.”

Sal lo lắng nhìn quanh. Theodore đậu trên vai thằng bé, đuôi quấn hờ quanh cổ nó. “Bởi ai cơ?”

“Em không biết,” Lucy nói, quay người lại bãi biển. “Nhưng như em đang nói, có thứ gì đó gớm ghiếc đang ở quanh đây. Em có thể ngửi thấy cái mùi đấy.”

Cả đám trẻ con hít hà trong không trung. Ngay cả Theodore cũng vươn cổ, lỗ mũi phập phồng.

“Thứ duy nhất có mùi gớm ghiếc ở đây là chú Baker,” Phee nói. “Vì chú ấy đang nhễ nhại mồ hôi.”

“Chú không quen vận động mạnh nhiều đến vậy,” Linus cấm cảu.

“Vâng,” Talia nói. “Cơ thể tròn trĩnh không phải là lỗi của chú ấy. Phải không nào, chú Baker? Nhóm người tròn trĩnh chúng ta phải đoàn kết với nhau.”

Điều ấy chẳng khiến Linus thấy khá hơn chút nào. Nhưng anh nói, “Chính xác.”

Talia tự hài lòng với bản thân.

Lucy đảo mắt. “Đó không phải là thứ mấy người ngửi được đâu. Chỉ có mình ngửi được thôi. Vì mình là thủ lĩnh. Nó bốc ra từ đằng kia kìa.” Thằng bé chỉ về một khóm cây ngay rìa bãi biển. Trông nơi ấy thật tối tăm và u ám.

“Thứ gì vậy, Lucy?” Chauncey hỏi. “Có phải thổ dân ăn thịt người không?” Giọng thằng bé có vẻ không hứng khởi cho lắm trước viễn cảnh ấy.

“Có thể đấy,” Lucy nói. “Họ có thể đang nướng thịt ai đó trong khi ta đang trò chuyện đây. Nên chúng ta chắc chắn nên đi tới đó và kiểm tra xem. Mình đã luôn muốn thấy con người trông như thế nào khi bị nướng.”

“Hoặc có lẽ chúng ta có thể ở đây,” Talia nói, vươn tay lên nắm lấy tay Linus. Anh cúi xuống nhìn con bé, nhưng không cố rút tay ra. “Như vậy có khi là tốt nhất.”

Lucy lắc đầu. “Những nhà thám hiểm không bao giờ lui bước. Đặc biệt là những nhà thám hiểm nữ.”

“Cậu ấy nói đúng đấy,” Phee u ám nói. “Ngay cả khi có thổ dân ăn thịt người.”

Theodore rên rỉ và rúc đầu vào cánh. Sal vươn tay lên vuốt ve đuôi thằng bé.

“Dũng cảm là một đức tính tốt,” Arthur nói. “Khi đối mặt với nghịch cảnh, điều ấy sẽ phân chúng ta ra thành kẻ mạnh và kẻ yếu.”

“Hoặc kẻ khờ và kẻ khôn,” Talia lẩm bẩm, siết chặt tay Linus. “Lũ con trai ngốc lắm.”

Linus không thể không đồng tình, dù anh giữ suy nghĩ ấy cho riêng mình.

Lucy ưỡn ngực. “Con dũng cảm mà. Và vì con là thủ lĩnh, mệnh lệnh dũng cảm của con sẽ là Arthur đi trước để đảm bảo rằng nơi đó an toàn trong khi những người còn lại đợi ở ngay đây.”

Mọi người đều gật đầu.

Kể cả Linus.

Arthur nhướn mày nhìn anh.

“Thằng bé có lý đấy chứ,” Linus nói. “Dũng cảm là một đức tính tốt, đại loại vậy.”

Môi Arthur giần giật. “Nếu tôi nhất định phải đi.”

“Thầy phải đi,” Lucy nói. “Và nếu có thổ dân ăn thịt người, hãy hét lên với chúng con khi họ bắt đầu ăn thịt thầy để chúng con biết mà chạy trốn nhé.”

“Nếu họ ăn miệng của ta trước thì sao?”

Lucy nheo mắt nhìn anh. “Ừm. Thì cố gắng đừng để việc ấy xảy ra?”

Arthur vươn thẳng vai. Anh lấy cái rìu ra và nhảy lên một tảng đá lớn, sóng tung bọt xung quanh anh. Anh đứng tạo dáng bảnh bao, như một vị anh hùng thời xưa. Anh chĩa lưỡi rìu về phía khóm cây. “Vì cuộc thám hiểm!” anh hô lên.

“Vì cuộc thám hiểm!” lũ trẻ hét lên trả lời.

Arthur nháy mắt với Linus, nhảy xuống khỏi tảng đá, và chạy về phía đám cây. Bóng râm nuốt chửng anh… và rồi anh biến mất.

Họ đứng đợi.

Không có gì xảy ra.

Họ đợi thêm lát nữa.

Vẫn chẳng có gì.

“Chết rồi,” Talia thì thầm. “Mình nghĩ có khi họ bắt đầu ăn từ miệng thầy rồi.”

“Chúng ta có nên quay về không?” Chauncey ùng ụng, mắt nhún nhảy.

“Mình không biết,” Lucy nói. Nó ngước lên nhìn Linus. “Cháu mừng là có chú ở đây.”

Linus bị làm cho cảm động. “Cảm ơn cháu, Lucy…”

“Nếu thổ dân ăn thịt người bắt đầu đuổi theo chúng ta, họ sẽ thấy chú trước. Chúng cháu còn nhỏ và chú có cả đống thịt bọc ngoài xương thế kia, nên như vậy sẽ cho chúng cháu thời gian để chạy thoát. Chúng cháu rất cảm kích sự hi sinh sắp tới của chú.”

Linus thở dài.

“Chúng ta nên làm gì đây?” Phee lo lắng hỏi.

“Anh nghĩ chúng ta nên đi vào theo thầy,” Sal nói.

Mọi người đều nhìn thằng bé.

Ánh mắt nó giao với Linus trong chốc lát rồi lại liếc đi chỗ khác. Khóe miệng nó trễ xuống. Nó hít một hơi thật sâu rồi chậm rãi thở ra. “Thầy sẽ tới cứu chúng ta mà.”

Theodore chiêm chiếp, áp mũi lên tai Sal.

“Anh ấy nói đúng đấy,” Lucy nói. “Arthur sẽ đuổi theo chúng ta. Mình sẽ đưa ra quyết định. Chúng ta nên đuổi theo Arthur, và chú Baker sẽ đi đầu tiên.”

“Cháu biết không, ở vị trí thủ lĩnh mà nói, có vẻ như cháu giao việc cho người ta nhiều hơn là thật sự dẫn dắt đấy.” Linus ráo hoảnh nói.

Lucy nhún vai. “Cháu sáu tuổi mà. À thì, cơ thể này là vậy. Chủ yếu thì, cháu cổ xưa lắm, nhưng việc ấy chẳng liên quan gì cả.”

Linus cảm thấy mặt đất hơi chao đảo dưới chân mình, nhưng anh đuổi được cảm giác ấy đi. “Nếu cháu cứ quả quyết là vậy.”

“Có mà,” Lucy nói, nghe nhẹ nhõm. “Vô cùng quả quyết luôn ấy.”

Talia thả tay anh ra và lạch bạch ra đằng sau Linus, bắt đầu đẩy phía sau chân anh. “Đi. Đi nào, đi nào, đi nào! Arthur có thể đang bị ăn thịt ngay lúc này, mà chú cứ đứng mãi ở đây!”

Linus lại thở dài. “Chú đi đây.”

Thật ngớ ngẩn, dĩ nhiên là vậy. Chẳng có thổ dân ăn thịt người nào trên đảo. Đó chỉ là một câu chuyện Lucy bịa ra thôi. Đó còn chẳng phải là một câu chuyện hay ho gì.

Nhưng nghĩ vậy không khiến mồ hôi của Linus ngưng đổ như thác khi anh đi ngang bãi biển về phía khóm cây. Chúng thuộc một loài khác với cây trong rừng họ vừa đi xuyên qua. Khóm cây này trông lâu năm và rậm rạp hơn. Và dẫu chẳng có thổ dân ăn thịt người nào, Linus vẫn thấy được tại sao họ sẽ chọn khóm cây này nếu họ có tồn tại thật. Nơi này trông như một địa điểm hoàn hảo để ăn thịt người.

Lòng dũng cảm của lũ trẻ không gì sánh được. Chúng đi theo anh, nhưng cách anh đến mười lăm bước ở phía sau, đều túm tụm lại với nhau, mắt mở to.

Linus tuyệt đối không cảm thấy trìu mến trước cảnh ấy đâu nhé.

Anh quay lại về phía khóm cây. “Xin chào, Arthur!” anh hô lên. “Anh có ở trong đó không?”

Không một tiếng đáp trả.

Linus cau mày. Đây hẳn là một trò chơi mà Arthur đang dẫn đi quá xa.

Anh lại hô lên.

Chẳng có gì xảy ra.

“Chết rồi,” anh nghe thấy Lucy nói sau lưng. “Có khi thầy bị chia tư rồi.”

“Như vậy có nghĩa là gì?” Chauncey hỏi. “Thầy sẽ được trả tiền hả? Mình thích đồng hai lăm xen lắm.”

“Nghĩa là bị chặt ra,” Talia nói. “Thành nhiều mảnh.”

“Ồ!” Chauncey nói. “Mình không thích chuyện ấy tí nào.”

Việc này thật ngốc nghếch. Chẳng có thổ dân ăn thịt người nào cả. Linus đi tới khóm cây, hít một hơi thật sâu, và bước vào trong rừng.

Bên trong khóm cây… mát mẻ hơn. Mát hơn mức nên mát ở trong bóng râm. Hơi ẩm dường như đã bay biến, và Linus thật sự đã rùng mình. Có một con đường nhỏ hẹp trước mặt, len lỏi giữa những thân cây. Trông không giống như có thứ gì đã bị chặt đứt (dù là dây leo hay Arthur). Linus coi việc đó như một dấu hiệu tốt lành.

Anh đi vào sâu hơn, chỉ dừng lại để ngoái nhìn qua vai lần nữa. Lũ trẻ đứng ở lối vào khóm cây, rõ ràng đã quyết định là chúng không thể đi xa hơn.

Phee giơ ngón cái với anh.

Lucy nói, “Chú chưa chết kìa.” Giọng nó nghe thất vọng đến kỳ quặc.

“Làm lãnh đạo thì phải nói lời động viên tích cực chứ,” Talia bảo thằng bé.

“Ồ! Chú chưa chết là tốt rồi.”

“Như vậy khá hơn đấy,” Talia nói.

Cuống mắt của Chauncey xìu xuống tới khi hai con mắt đặt trên đầu nó. “Mình không thích việc này tí nào.”

“Thôi nào,” Sal nói khi Theodore khẽ gặm tai thằng bé. “Tất cả chúng ta đi cùng nhau chứ.” Nó bước một bước vào khóm cây, và lũ trẻ đi theo, túm tụm lại quanh nó.

Cảnh ấy khiến trái tim Linus thổn thức đầy ngọt ngào.

Anh lại quay đi, rèn lại biểu cảm của mình. Anh bị làm sao vậy? Chuyện lẽ ra không như thế này. Anh lẽ ra phải…

Con đường đột nhiên bị chắn bởi một thân cây khổng lồ mọc lên trước mặt anh cùng tiếng ầm ầm, đất bắn tung lên thành từng chùm lớn.

Linus vừa kêu oai oái vừa lảo đảo lùi lại.

Lũ trẻ hét lên.

Một giọng nói bùng lên, vang vọng khắp xung quanh họ trong khi cái cây kẽo kẹt. “Kẻ nào dám đặt chân vào khu rừng của ta?”

Linus gần như ngay lập tức nhận ra đó là giọng của Zoe. Anh thở dài. Lát sau anh sẽ phải trao đổi rất nhiều với cả bà và Arthur.

Lũ trẻ lao về phía trước và đứng quanh Linus, ngước lên nhìn anh bằng những cặp mắt to tròn.

“Ai đấy ạ?” Lucy điên cuồng thì thầm. “Có phải là thổ dân ăn thịt người không?”

“Chú không biết,” Linus nói. “Có thể lắm. Và dù chú có thể là một bữa ăn đầy đủ nhưng có thể họ đã no sau khi ăn thịt Arthur và chỉ có hứng thú với thứ gì đó cỡ… hơi nhẹ hơn chút.”

Talia thảng thốt. “Nhưng… Nhưng cháu là cỡ nhẹ này.”

“Chúng mình đều vậy cả,” Phee rên rỉ.

“Ôi không!” Chauncey nói, cố gắng chen vào giữa hai chân Linus và đã thành công ở nhiều mức độ khác nhau.

Sal đang nhìn cây cối xung quanh họ, mắt nheo lại. Theodore đã rúc đầu vào áo Sal. “Chúng ta phải gan dạ lên,” Sal nói.

“Anh ấy nói đúng đấy,” Lucy nói, bước tới để đứng cạnh Sal. “Người dũng cảm nhất đây.”

“Mình sẽ chỉ dũng cảm từ chỗ này thôi,” Chauncey nói từ dưới chân Linus.

“Lẽ ra mình nên mang theo xẻng,” Talia lẩm bẩm. “Mình đã có thể đập đầu lũ thổ dân ăn thịt người ngu ngốc rồi.”

“Chúng ta nên làm gì đây?” Phee hỏi. “Chúng ta có nên tấn công không?”

Lucy lắc đầu trước khi rống lên. “Ta yêu cầu được biết kẻ đang ở nơi đây!”

Giọng Zoe trầm thấp, nhưng Linus nghe ra được điệu cười khẩy trong đó. “Ngươi là ai mà yêu cầu bất cứ điều gì ở ta, hả nhãi ranh?”

“Ta là Chỉ huy Lucy, người dẫn đầu cuộc thám hiểm này. Hãy lộ mặt thật đi, và ta hứa là sẽ không làm hại ngươi. Tuy nhiên, nếu ngươi tấn công và vẫn còn đói, chú Baker đây đã đề nghị hi sinh bản thân để chúng ta được sống.”

“Chú không đề nghị chuyện gì như vậy…”

“Ngài Chỉ huy Lucy đó ư?” Zoe hỏi, từng từ vang vọng quanh họ. “Ối chà! Ta đã nghe kể về ngươi đấy.”

Lucy chớp mắt. “Thật ư?”

“Phải, quả thật là vậy. Ngươi rất nổi tiếng.”

“Thật ư? Ý ta là, đúng vậy! Đó chính là ta! Chỉ huy Lucy lẫy lừng đây!”

“Ngươi muốn gì ở ta, hả Chỉ huy Lucy?”

Thằng bé quay lại nhìn những đứa khác.

“Kho báu,” Phee quyết định.

“Và Arthur,” Chauncey nói.

“Nếu chúng ta chỉ được chọn một thứ thì sao?” Talia hỏi. Con bé lại đang nắm tay Linus.

“Chúng ta chọn Arthur,” Sal nói, nghe chắc chắn hơn bất kỳ điều gì Linus từng nghe nó nói.

“Ôi, thật á?” Lucy nói, đá đá xuống đất. “Nhưng… Nhưng, kho báu cơ.”

“Arthur,” Sal quả quyết, và Theodore chiêm chiếp hưởng ứng từ dưới áo của Sal. Cũng không biết từ khi nào, Linus đã bắt đầu hiểu những tiếng chiếp chiếp đó.

Lucy thở dài. “Được thôi.” Nó lại quay lại. “Chúng ta tìm Arthur Parnassus!”

“Thế thôi à?” Zoe hỏi, giọng âm vang.

“Chà! Ý ta là, ta sẽ không từ chối kho báu…”

“Lucy!” Chauncey rít lên.

Lucy rên rỉ. “Chỉ Arthur thôi!”

“Thế thì cứ vậy đi!”

Trong nháy mắt thân cây lại co vào trong đất.

Đường đi đã thông suốt.

“Ngài có muốn dẫn đường không, Chỉ huy Lucy?” Linus hỏi.

Lucy lắc đầu. “Chú đang làm việc ấy tốt lắm rồi, và trông chú có vẻ không thường xuyên được nghe người ta khen vậy. Cháu không muốn tước đoạt việc ấy khỏi chú đâu.”

Linus vừa cầu trời cho anh thêm sức mạnh vừa dẫn đầu, Talia vẫn nắm tay anh. Những đứa khác tụ lại đằng sau họ, với Sal và Theodore đi cuối.

Họ không phải đi xa. Chẳng mấy chốc, con đường đã dẫn tới một khoảng trống nhỏ. Và giữa khoảng trống này là một căn nhà. Nhà chỉ có một tầng, làm bằng gỗ và phủ đầy dây thường xuân. Trông nó thật cổ kính, cỏ mọc um tùm quanh chân nhà. Cửa đang để mở. Linus nghĩ tới những câu chuyện hồi bé, về phù thủy dụ trẻ con vào nhà. Nhưng những phù thủy mà anh biết không ăn thịt người.

À thì. Phần lớn là không.

Rồi vào lúc ấy, anh chợt nhận ra ngôi nhà này là thuộc về ai, và việc này là một vinh dự lớn lao đến thế nào. Với một Tinh linh trưởng thành, nhà ở là vật sở hữu quan trọng nhất của họ. Đó là mái ấm nơi họ giữ kín mọi bí mật của mình. Tinh linh có tiếng là trọng riêng tư, và anh tin chắc rằng một ngày nào đó Phee cũng sẽ như vậy, dù anh hy vọng rằng con bé sẽ nhớ đến những tháng ngày thơ ấu trải qua ở Marsyas. Nó sẽ không phải sống cô độc đến vậy.

Linus vô cùng trân trọng việc Zoe Chapelwhite đang mời họ vào nhà. Anh tự hỏi liệu Arthur có từng đến đây chưa. (Linus nghĩ là rồi.) Và tại sao ban đầu Zoe lại cho phép Linus lên đảo của mình. Và trại trẻ này thuộc về ai. Tất cả những câu hỏi mà anh không có lời giải đáp.

Anh có tư cách để hỏi không? Anh cũng không chắc nữa. Việc ấy chẳng ảnh hưởng gì tới lũ trẻ, phải không?

“Òa,” Lucy thều thào. “Nhìn kìa.”

Hoa bắt đầu bung nở dọc những dây leo giữa đám thường xuân. Trông như thể chúng đang mọc ra từ chính ngôi nhà vậy. Những sắc màu tươi tắn, hồng, vàng, và đỏ, màu xanh như biển và bầu trời, đua nhau hiện ra trên dây leo. Chỉ trong chốc lát cả ngôi nhà đã phủ đầy hoa, hoa thậm chí còn vươn lên mọc trên mái nhà.

Phee mơ màng thở dài. “Đẹp quá đi.”

Linus không thể không đồng ý. Anh chưa từng thấy khung cảnh nào như thế này. Anh nghĩ so với số hoa này thì hướng dương nhà mình hẳn phải xám xịt lắm. Anh không biết làm sao mình lại từng nghĩ mấy bông hướng dương đó thật rực rỡ kia chứ.

Anh hẳn sẽ sốc lắm khi về nhà đây.

Một bóng người xuất hiện ở ngưỡng cửa.

Lũ trẻ nép sát vào Linus.

Zoe bước ra nắng. Bà mặc một cái váy trắng, tương phản đến tuyệt đẹp với làn da sẫm màu của mình. Những bông hoa cài trên tóc bà giống số hoa mọc trên nhà. Cặp cánh của bà xòe rộng ra. Bà mỉm cười với họ. “Hỡi các nhà thám hiểm! Ta rất hài lòng khi thấy các cháu đã tìm được đường đến đây.”

“Cháu biết mà!” Lucy reo hò, giơ hai tay lên trời. “Chẳng có thổ dân ăn thịt người nào cả. Từ đầu đến cuối đều là bà Zoe.” Nó lắc đầu. “Cháu thì không sợ, nhưng những người khác đều sợ. Một đám trẻ con to xác.”

Những đứa trẻ khác kịch liệt phản đối lời này, có vẻ là vậy, nếu tiếng la ó đầy phẫn nộ của chúng nói lên được điều gì đó.

“Arthur còn sống không ạ?” Chauncey hỏi. “Không ai ăn thịt thầy hay gì đấy chứ?”

“Không ai ăn thịt cậu ấy cả,” Zoe nói. Bà tránh khỏi khung cửa. “Cậu ấy đang ở trong nhà đợi tất cả các cháu. Có thể có bữa trưa đấy. Có khi là cả bánh nữa. Nhưng các cháu sẽ phải tự tìm hiểu thôi.”

Bất kỳ chút sợ hãi nào có thể còn sót lại trong chúng rõ ràng là đã bay biến ngay lập tức trước lời hứa hẹn về đồ ăn, vì toàn bộ lũ trẻ đều chạy ào qua cửa, kể cả Sal. Theodore kêu quang quác, nhưng xoay sở bám trụ được trên cổ cậu bé to con.

Linus đứng yên tại chỗ, không chắc mình nên làm gì tiếp theo. Zoe đã ngỏ lời mời, nhưng là với lũ trẻ. Anh không biết liệu lời mời đó có dành cho cả mình không.

Zoe đẩy mình đứng dậy khỏi chỗ đang tựa bên nhà. Mỗi bước bà đi, cỏ đều mọc lên dưới chân bà. Bà dừng lại trước mặt anh, tò mò săm soi anh.

“Chào Zoe,” Anh vừa nói vừa gật đầu.

Bà khoái chí. “Chào Linus. Tôi nghe nói rằng cậu đã trải qua một chuyến phiêu lưu ra trò.”

“Quả vậy. Có chút vượt quá phạm vi quen thuộc của tôi.”

“Tôi cho rằng đó là cảm giác của hầu hết các nhà thám hiểm khi họ lần đầu tiên đặt bước ra khỏi thế giới duy nhất mà họ biết.”

“Bà thường xuyên nghĩ một đằng nói một nẻo, phải không?”

Bà cười toe toét. “Tôi không hiểu cậu đang nói gì đâu.”

Anh không hề tin bà. “Arthur ổn chứ?”

Mắt bà hơi nheo lại. “Arthur ổn.”

Linus chậm rãi gật đầu. “Vì anh ấy đã từng đến đây trước kia, tôi đoán là vậy.”

“Có câu hỏi nào cậu muốn hỏi không, cậu Linus?”

Có vô vàn. “Không. Tôi chỉ… đang đưa chuyện thôi.”

“Cậu không giỏi việc này lắm đâu.”

“Thật lòng mà nói, đây không phải là lần đầu tiên tôi nghe câu ấy.”

Vẻ mặt bà dịu xuống. “Phải, tôi tin là vậy. Phải. Trước kia cậu ấy đã đến đây rồi.”

“Nhưng lũ trẻ thì chưa ư?”

Bà lắc đầu. “Chưa từng. Đây là lần đầu tiên.”

“Tại sao lại là lúc này?”

Bà nhìn anh chằm chằm, mắt sáng rực điều gì đó anh không thể gọi tên. “Hòn đảo này là của chúng cũng như là của tôi. Đã đến lúc rồi.”

Anh cau mày. “Không phải để giúp ích cho tôi, tôi hy vọng là vậy.”

“Không, Linus ạ. Không phải để giúp ích cho cậu. Chuyện này sẽ đến dù cậu có ở đây hay không. Cậu có muốn vào nhà không?”

Anh cố che giấu nỗi kinh ngạc của mình, nhưng thất bại ê chề. “Hòn đảo này không phải là của tôi.”

Bà lưỡng lự. “Đúng vậy. Nhưng tôi sẽ không bỏ cậu một mình ngoài này. Nói cho cùng, có thể có thổ dân ăn thịt người đấy.”

“Có thể lắm,” anh đồng tình. Rồi, “Cảm ơn bà.”

“Vì?”

Anh không chắc lắm. “Vì hầu hết mọi việc, tôi nghĩ là vậy.”

“Nói vậy nghe chung chung quá.”

“Tôi nhận ra chung chung như vậy là tốt nhất, kẻo tôi lại đặc biệt bỏ quên điều gì đó.”

Bà bật cười. Hoa trên tóc và trên nhà bà càng rực sắc hơn theo tiếng cười. “Cậu đáng yêu lắm, Linus Baker ạ. Cậu có một lớp vỏ ngoài cứng rắn nhưng đã nứt ra rồi. Đào sâu thêm chút nữa thôi, và sẽ có cả bầu sức sống dồi dào khủng khiếp. Như một câu hỏi hóc búa vậy.”

Anh đỏ mặt. “Tôi không chắc về những việc ấy đâu.”

“Tôi nghe nói hai anh bàn luận sự đời ở trong rừng. Tôi nghĩ Arthur đã khá thích thú đấy.”

Linus bắt đầu lắp bắp. “Không phải… Tôi nghĩ là chúng tôi… Việc ấy chẳng quan trọng gì đâu.”

“Thật ra, tôi thấy nó rất quan trọng đấy.” Nói vậy, bà quay lưng đi vào trong nhà, bỏ lại Linus chằm chằm nhìn theo.

Bên trong căn nhà trông như tiếp nối mọi thứ người ta thấy được ở mặt ngoài. Thay vì sàn nhà, có mặt đất trần trụi, cỏ mọc thành thảm dày dặn. Những chậu đầy hoa treo thả xuống từ trên trần. Những con cua tí hon màu xanh lam và ốc sên vỏ xanh lục pha vàng bám lên tường. Cửa sổ rộng mở, và Linus có thể nghe thấy tiếng sóng biển ở ngoài xa. Đó là một âm thanh anh đã dần quen thuộc. Anh sẽ nhớ điều ấy khi đến lúc phải ra đi.

Thức ăn đã được bày ra cho họ trên mặt quầy gỗ. Lũ trẻ cầm những thứ trông như vỏ sò khổng lồ, chất đống thức ăn lên trên đó. Có bánh kẹp và salad khoai tây và dâu tây đỏ mọng tới nỗi Linus nghĩ chúng hẳn là đồ giả tới khi Theodore cắn ngập răng vào một quả, mắt ngất ngây trợn ngược vào trong hốc.

Arthur Parnassus ngồi trong một cái ghế cũ kỹ, tay đan lại đặt trên đùi trong khi thích thú nhìn bọn trẻ bắt đầu nhồi nhét đồ ăn, cả khi Zoe răn đe chúng nó rằng hãy ăn chậm lại. Thám hiểm là một công việc khiến người ta đói ngấu, dạ dày Linus cũng đang kêu gào.

“Tôi rất vui khi thấy rằng anh đã sống sót,” Linus nói, ngượng nghịu đổi tư thế khi đứng cạnh cái ghế.

Arthur ngửa đầu ra sau để ngước lên nhìn anh. “Dũng cảm lắm phải không, tôi biết mà.”

Linus khịt mũi. “Quả là vậy. Người ta sẽ viết những bài thơ thật hào hùng về anh.”

“Tôi sẽ thích những bài thơ ấy cho xem, tôi nghĩ vậy.”

“Dĩ nhiên là vậy rồi.”

Khóe mắt Arthur nheo lại. “Trước khi cắm đầu vào phần thưởng, lũ trẻ kể với tôi rằng anh là một người trông trẻ cừ khôi khi tôi vắng mặt.”

Linus lắc đầu. “Chắc Lucy lừa anh chơi…”

“Lời ấy là của Sal.”

Linus chớp mắt. “Sao cơ?”

“Sal nói anh nắm tay Talia mà không cần con bé phải hỏi. Và anh lắng nghe từng đứa, để chúng đưa ra quyết định của riêng mình.”

Linus đỏ mặt. “Đấy không phải… Tôi chỉ đi theo bọn trẻ thôi.”

“À thì, dù sao đi nữa, vẫn cảm ơn anh. Vì tôi tin là anh biết, từ miệng thằng bé mà ra thì đó là một lời khen ngợi khá đắt giá đấy.”

Linus quả thật có biết. “Thằng bé đang quen dần với tôi, tôi đoán vậy.”

Arthur lắc đầu. “Không phải vậy đâu. Là… cháu nó nhìn ra nhiều điều. Có lẽ nhiều hơn tất cả chúng tôi cộng lại. Nhìn ra cái tốt ở người khác. Và cái xấu. Thằng bé đã gặp đủ loại người trong cuộc đời còn chưa dài rộng của nó. Nó thấy được những gì người khác không thấy.”

“Tôi chỉ là tôi mà thôi,” Linus nói, không biết câu chuyện này đang đi đến đâu. “Tôi không biết cách trở thành bất kỳ ai ngoài bản thân vốn có. Con người tôi vẫn luôn như vậy. Không nhiều nhặn gì, nhưng tôi sống tốt hết mức có thể với những gì tôi có.”

Arthur buồn bã nhìn anh. Anh vươn tay sang siết tay Linus trong chốc lát rồi buông ra. “Tôi nghĩ sống tốt hết mức là tất cả những gì một người có thể đòi hỏi rồi.” Anh đứng dậy, mỉm cười, dù nụ cười này không rạng rỡ như thường lệ. “Phần thưởng thế nào, hỡi các nhà thám hiểm?”

“Ngon!” Chauncey nói, một ngụm nuốt chửng nguyên một cái bánh kẹp. Cái bánh chìm xuống trong thằng bé và bắt đầu tan ra.

“Nếu có kho báu thật thì tốt hơn,” Lucy lầm bầm.

“Và nếu kho báu là tình bạn chúng ta gắn kết dọc đường thì sao?” Arthur hỏi.

Lucy trề môi. “Đó là kho báu tệ nhất thế giới. Mọi người đã là bạn con rồi mà. Con muốn đá ruby cơ.”

Theodore ngẩng lên và chiếp chiếp hỏi.

“Không,” Talia nói qua một miệng đầy salad khoai tây. Vụn trứng và mù tạt lấm tấm trên chòm râu của con bé. “Không có ruby đâu.”

Hai cánh của thằng bé rủ xuống.

“Nhưng có bánh,” Zoe nói. “Đặc biệt được nướng ra cho các cháu đấy.”

Lucy thở dài. “Nếu phải như vậy.”

“Phải như vậy thôi,” Arthur nói. “Và ta thật sự tin rằng con sẽ thích món đó nhiều như bất kỳ viên ruby nào đấy.” Anh lại liếc nhìn Linus. “Này nhà thám hiểm yêu quý, anh có đói không?”

Giữa lúc mọi người om sòm ăn uống (Chauncey vùi mặt xuống cái bánh) và cười đùa (Chauncey phun mẩu bánh tứ tung khi Lucy kể một câu chuyện cười khá tục vô cùng không phù hợp với một đứa trẻ ở tuổi nó) thì Linus để ý thấy Zoe và Phee lén ra khỏi cửa. Arthur và những đứa trẻ khác đang không để ý (“Chauncey!” Lucy sung sướng hô lên. “Cậu làm bánh dính lên mũi mình rồi!”) và Linus có cảm giác thôi thúc bất chợt và kỳ quặc là muốn xem xem hai bà cháu Tinh linh định làm gì.

Anh tìm thấy họ ngay sau rặng cây ngoài nhà. Zoe đặt tay lên vai Phee, đôi cánh lấp lánh trong chùm nắng chiếu xuyên qua tán lá.

“Và cháu cảm nhận thấy những gì?” Zoe đang hỏi. Họ không nhìn về phía anh, dù anh nghĩ họ biết anh ở đây. Những tháng ngày khi Linus có thể lặng lẽ di chuyển đã trôi xa lắm rồi.

“Mặt đất,” Phee lập tức trả lời, mái tóc như lửa. “Cây cối. Hệ rễ của chúng dưới lớp cát và đất. Như thể… Như thể chúng đang đợi cháu. Đang lắng nghe.”

Trông Zoe khá hài lòng. “Chính xác. Có một thế giới ẩn giấu dưới những gì chúng ta nhìn thấy. Hầu hết mọi người sẽ không hiểu bản chất của nó. Chúng ta thật may mắn, ta nghĩ vậy. Chúng ta có thể cảm nhận được những gì người ta không thể.”

Phee nhìn ra cánh rừng, đôi cánh phấp phới. “Cháu thích cây cối. Thích hơn đa số con người.”

Linus khịt mũi cười, không nhịn được. Anh cố che đậy âm thanh ấy. Họ chậm rãi quay đầu sang nhìn anh. “Xin lỗi nhé,” anh vội vàng nói. “Rất xin lỗi hai người. Tôi không có ý… Tôi không nên cắt ngang mới phải.”

“Cậu có gì muốn nói à?” Zoe hỏi, và dù lời bà nói không nóng nảy, chúng vẫn mang cảm giác đầy châm chọc.

Anh chực lắc đầu, nhưng kìm lại được. “Chỉ là… tôi có trồng hướng dương. Ở nhà tôi trong thành phố.” Anh cảm thấy trong ngực chợt nhói, nhưng lại xoa cho cơn đau ấy dịu xuống. “Đám cây giang hồ không phải lúc nào cũng làm như tôi muốn, nhưng tôi đã tự tay trồng và chăm sóc khi chúng lớn lên. Tôi thường thích chúng nhiều hơn là thích một cơ số người.”

Phee nheo mắt lại. “Hoa hướng dương à?”

Linus lau trán. “Phải. Chúng… không được khỏe. Chúng không khổng lồ như những thứ trong vườn của Talia, hay như cây cối ở đây, nhưng chúng là chút sắc màu giữa những sắt thép và mưa dầm xám xịt.”

Phee săm soi anh. “Và chú thích màu đó ư?”

“Đúng vậy,” Linus nói. “Đó là thứ gì đó nhỏ nhặt thôi, nhưng chú nghĩ những thứ nhỏ nhặt cũng có thể rất quan trọng.”

“Vạn vật phải bắt nguồn từ đâu đó,” Zoe nói, vỗ về đầu Phee. “Và miễn là chúng ta nuôi dưỡng chúng, chúng có thể lớn mạnh hơn bất kỳ điều gì chúng ta nghĩ có thể xảy ra. Có phải không, cậu Linus?”

“Dĩ nhiên rồi,” Linus nói, biết rằng cả hai sẽ dỏng tai lên nghe từng lời anh nói. Việc tối thiểu anh có thể làm là thành thật trong chuyện này. “Thú thực là tôi nhớ chúng nhiều hơn mình tưởng đấy. Thật ngớ ngẩn, phải không?”

“Không,” Phee nói. “Nếu có khi nào phải rời đi thì cháu cũng sẽ nhớ nơi này lắm.”

Ôi trời! Đây không phải điều anh đang hướng tới. Giờ thì anh đã nhúng chân vào rồi. “Ừ, chú có thể thấy được.” Anh ngẩng lên nhìn cây rừng. “Công nhận với cháu là chúng rõ ràng là có cái dễ thương riêng.”

“Populus tremuloides.” Phee nói.

Linus nheo mắt nhìn con bé. “Cháu vừa nói gì cơ?”

Zoe che đậy tiếng cười sau mu bàn tay.

“Populus tremuloides,” Phee lặp lại. “Cháu đã đọc về loại này trong sách. Cây dương lá rung. Nếu chú có bao giờ bắt gặp loài này, chú sẽ thấy chúng mọc thành những cụm lớn. Thân cây chủ yếu màu trắng, nhưng lá cây có màu vàng rực rỡ, gần như là hoàng kim. Như màu nắng vậy.” Con bé lại nhìn ra cánh rừng. “Gần giống cây hướng dương vậy.”

“Nghe dễ thương đấy,” Linus nói, không chắc mình có thể nói gì khác.

“Chúng dễ thương mà,” Phee nói. “Nhưng phần dưới đất mới là quan trọng nhất. Những cụm cây dương có thể được hợp lại từ hàng nghìn thân cây, đôi khi thậm chí là hàng chục nghìn. Mỗi cây đều khác biệt, nhưng bí mật ở đây là chúng đều là một.”

Linus chớp mắt. “Sao lại thế?”

Phee ngồi xổm xuống đất, những ngón tay vạch lên mặt đất tơi xốp. “Chúng là bản sao của nhau, là một thể sống duy nhất quản lý bởi một hệ rễ tỏa rộng dưới lòng đất. Về mặt di truyền tất cả bọn chúng đều giống nhau, dù mỗi cây có tính cách riêng của mình, như cây cối thường có. Nhưng trước khi mọc lên, rễ của chúng có thể say ngủ hàng thế kỷ, đợi tới khi điều kiện sống phù hợp. Đơn giản chỉ cần thời gian mà thôi. Có một bản sao mà người ta nói gần tám nghìn năm tuổi, và có thể là thể sống cổ xưa nhất còn tồn tại.”

Linus chậm rãi gật đầu. “Chú hiểu rồi.”

“Thật không?” Phee nói. “Vì cả khi xóa sổ cụm cây, cả khi đốn hạ mọi thân cây, trừ khi chú bật được rễ lên không thì chúng sẽ tái sinh lần nữa, và mọc lên như đã từng. Có lẽ là không hoàn toàn tương đồng, nhưng cuối cùng, thân cây sẽ mang màu trắng, và lá sẽ ngả vàng. Một ngày nào đó cháu muốn thấy cảnh đó. Cháu nghĩ những cái cây ấy sẽ có nhiều điều để kể cho cháu đấy.”

“Đúng đấy,” Zoe nói. “Nhiều hơn những gì cháu thậm chí có thể biết được. Chúng có trí nhớ rất, rất dài lâu.”

“Cháu đã từng thấy những cây đó chưa?” Linus hỏi.

“Có thể là rồi.”

“Cái đám Tinh linh này,” Linus lầm bầm. Rồi, “Nếu mọi cái cây đều như nhau, thì làm sao cháu phân biệt được chúng?”

“Chú phải nhìn những gì ở dưới bề mặt,” Phee nói. Con bé vùi tay vào trong đất. “Chú phải dành thời gian tìm hiểu chúng khác nhau ở điểm nào. Công việc này rất chậm, nhưng đó là lúc cần đến lòng kiên nhẫn. Rễ cây có thể sống mãi, đợi đến đúng thời điểm.” Nó cau mày nhìn mặt đất. “Cháu không biết liệu mình có thể…”

Linus tiến lên một bước khi con bé gầm gừ như thể bị thương. Zoe lắc đầu cảnh cáo, và anh khựng lại giữa chừng. Có chút thay đổi tinh tế trong không khí, như thể nó đã trở nên nặng nề hơn đôi chút. Cánh của Phee bắt đầu đập thật nhanh, nắng hắt lên những mảnh cầu vồng nho nhỏ từ trên đó. Con bé nhấn tay xuống đất tới khi hai bàn tay hoàn toàn bị che phủ. Mồ hôi nhỏ giọt từ chóp mũi nó xuống đất. Chân mày nó cau lại. Nó thở dài rồi rút tay khỏi đất.

Linus câm nín khi một thân non xanh mướt vươn lên từ mặt đất. Những phiến lá trải ra, dài và mảnh. Thân cây đu đưa qua lại dưới lòng bàn tay Phee, những ngón tay con bé giần giật. Anh sững sờ khi thấy một bông hoa vàng bung nở những cánh hoa rực rỡ. Thân cây mọc lên vài centimet nữa rồi Phee hạ tay xuống.

“Đây không phải là hướng dương,” Nó khẽ nói. “Cháu không nghĩ cây này sẽ sống lâu được ở đây, kể cả với định lực mãnh liệt nhất. Nó tên là cúc trường thọ.”

Linus chật vật tìm lại giọng mình. “Cháu vừa… Kia là… Cháu vừa mới trồng nó lên đấy à?”

Nó đá đá hai bàn chân trần. “Cháu biết là không nhiều nhặn gì. Talia mát tay với hoa cỏ hơn. Cháu thích cây cối hơn. Chúng sống lâu hơn.”

“Không nhiều nhặn gì ư?” Linus ngỡ ngàng nói. “Phee, chuyện này thật diệu kỳ.”

Trông nó có vẻ giật mình khi nhìn qua lại giữa Linus và Zoe. “Thật ạ?”

Anh chạy vội tới, ngồi xổm xuống gần bông hoa. Tay anh run rẩy khi vươn ra để chạm nhẹ vào nó, bán tín bán nghi rằng nó không có thật, chỉ là ảo ảnh thị giác mà thôi. Anh khẽ thảng thốt khi mân mê cánh hoa mượt như lụa giữa những ngón tay. Đây là một thứ nhỏ bé biết bao, vậy nhưng nó đã ở đây trong khi chỉ vài giây trước nơi đây chẳng có gì cả. Anh ngẩng lên nhìn Phee, con bé đang cúi xuống nhìn anh, cắn cắn môi dưới. “Thật mà,” anh quả quyết nói. “Tuyệt đối là diệu kỳ. Chú chưa bao giờ thấy điều gì như vậy. Thế nào nhỉ, chú thậm chí sẽ nói rằng cái cây này còn tuyệt hơn cả hướng dương đấy.”

“Đừng tâng cháu lên tận mây xanh như vậy,” Phee càu nhàu, dù trông như thể nó đang cố không mỉm cười.

“Cháu làm việc ấy như thế nào vậy?” anh hỏi, ngón tay vẫn mân mê cánh hoa.

Con bé nhún vai. “Cháu lắng nghe lòng đất. Nó hát lên. Hầu hết mọi người không nhận ra điều ấy. Chú phải gắng hết sức dỏng tai nghe ngóng cơ. Nhiều người sẽ không bao giờ nghe thấy tiếng hát ấy dù họ có cố gắng đến đâu. Nhưng cháu nghe được rõ như nghe thấy tiếng chú vậy. Lòng đất hát cho cháu nghe, và đổi lại cháu hứa với nó rằng cháu sẽ chăm sóc nó nếu nó cho cháu thứ cháu yêu cầu.” Nó liếc xuống bông hoa. “Chú thật sự thích cây hoa này à?”

“Phải,” Linus thì thầm. “Thích lắm.”

Con bé cười toe toét với anh. “Thế thì tốt. Chú nên biết cháu đã đặt tên cho nó là Linus. Chú nên cảm thấy vinh hạnh đi.”

“Chú đang thấy vậy này,” Linus nói, cảm động đến lố bịch.

“Đó là một cái tên hoàn hảo cho cây hoa này,” nó tiếp tục nói. “Cây này hơi tầm thường, và thật lòng mà nói không có gì nhiều để ngắm và có thể sẽ chết nếu người ta không thường xuyên chăm sóc nó.”

Linus thở dài. “À! Chú hiểu rồi.”

“Thế thì tốt,” nó nói, nụ cười nhoẻn rộng hơn. Nó hơi tỉnh ra khi nhìn xuống bông hoa. “Nhưng nó vẫn dễ thương, chú nghĩ mà xem. Nó từng không có ở đây, và giờ thì đã có. Về lâu dài thì đó là tất cả những gì thực sự quan trọng.”

“Cháu có thể tạo ra thứ gì đó từ hư không,” Linus nói. “Việc ấy thật là ấn tượng.”

“Không phải là thứ gì đó từ hư không,” nó nói, giọng thân mật. “Những thứ ấy chỉ… bị giấu đi thôi. Cháu biết phải tìm kiếm điều gì vì cháu lắng nghe tiếng gọi của nó. Miễn là chú lắng nghe, chú sẽ nghe được đủ các thứ mà ban đầu chú chưa bao giờ nghĩ là có tồn tại. Giờ thì, xin phép chú, cháu sẽ đi nhồi thật nhiều bánh vào miệng, đến mức có thể sẽ mắc nghẹn. Và rồi cháu sẽ ăn thêm nhiều nữa. Cháu thề, nếu Lucy không để lại miếng nào cho cháu, cháu sẽ cho cây mọc ra từ hai tai cậu ấy.”

Nói rồi, con bé đi về phía ngôi nhà nhỏ, đôi cánh phe phẩy sau lưng.

Linus nhìn chằm chằm theo nó. “Đó… là một lời đe dọa hữu hiệu đấy.”

Zoe bật cười. “Quả vậy, phải không?”

“Con bé thật tài giỏi.”

“Lũ trẻ đều tài giỏi, giá như người ta có thể nhìn xuyên qua những hoa mỹ mặt ngoài để thấy những gốc rễ bên dưới.”

“Nói vậy là hơi huỵch toẹt đấy,” anh nói.

“Tôi cũng nghĩ thế,” Zoe nói. “Nhưng có gì đó nói với tôi rằng cậu không hiểu được tinh tế là gì đâu.” Bà quay lưng đi về phía ngôi nhà, bước lên những dấu chân của Phee in trên đất. “Về thôi chứ, Linus? Tôi thật sự tin là cậu xứng đáng được thêm một miếng bánh nữa sau bài học vừa rồi.”

“Tôi sẽ về ngay,” anh nói. Khi Zoe vào nhà, anh lại quay sang nhìn bông hoa. Anh ấn ngón tay nhẹ hết mức có thể xuống nhị hoa. Anh thu tay lại, đầu ngón tay nhuốm phấn vàng ươm. Không hề nghĩ ngợi, anh đặt ngón tay lên lưỡi.

Phấn hoa có vị gắt và đắng, sống động vô cùng.

Anh nhắm mắt lại, hít thở.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3