Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 11

Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu

Báo cáo #2 về Trại trẻ mồ côi Marsyas

Linus Baker, nhân viên công tác xã hội BY78941

Tôi xin trang trọng thề rằng nội dung của bản báo cáo này là chính xác và đúng với sự thực. Theo chủ trương của DICOMY, tôi hiểu rằng bất kì sự sai lệch nào bị phát hiện có thể dẫn đến việc bị khiển trách và đuổi việc.

Tuần thứ hai của tôi ở Trại trẻ mồ côi Marsyas đã mang lại những góc nhìn mới về những người sống ở đây. Ở một nơi từng có vẻ hỗn loạn, giờ tôi đã thấy một trật tự lạ kỳ mà sâu sắc. Trật tự này không liên quan tới những thay đổi đã được vội vã thực hiện khi tôi đến đây (tôi cho rằng đã từng có những thay đổi như vậy trước đây; việc ấy thường xảy ra trước khi một nhân viên công tác xã hội bước qua ngưỡng cửa), mà phần nhiều do tôi đã dần quen với cách mọi thứ vận hành.

Bà Chapelwhite, dù không được hưởng bất kỳ khoản lương nào từ DICOMY nhưng chăm sóc lũ trẻ như thể chúng là con cháu của bà ta. Xét trên việc người này là một Tinh linh, chuyện ấy có chút đáng ngạc nhiên, vì giống loài của bà ta thường được biết đến với cuộc sống đơn độc và vô cùng che chở những hòn đảo họ trông coi. Thật ra, tôi không biết mình đã từng gặp Tinh linh nào không dữ dội bảo vệ sự riêng tư của mình chưa. Và dù bà Chapelwhite không hẳn là sẵn lòng, nhưng bà ta có làm việc song song với hiệu trưởng ngôi trường để đảm bảo rằng lũ trẻ được chăm sóc kỹ lưỡng. Tôi thường thấy bà ta ở trong bếp chuẩn bị đồ ăn, và thậm chí là bắt đầu thường xuyên quản lý những giờ học nhóm cho những bài học mà anh Parnassus đã dạy. Bà ấy thông thạo nhiều môn học, và sự chỉ dạy của bà giúp nâng cao những gì lũ trẻ đã học. Những bài học có vẻ như không chứa nội dung tuyên giáo nào, dù như vậy có thể là để cho tôi xem.

Hiện tại tôi đã thấy phòng của Lucy, và dự giờ một tiết học của cậu bé và anh Parnassus. Nếu các ngài gạt bỏ những gì chúng ta đã biết về cậu bé - những gì người ta gán cho cháu - các ngài sẽ có được một đứa trẻ hiếu kì thường phát biểu để khiến người khác sửng sốt hơn là chứa đựng sự chân thành. Cậu bé khá thông minh, gần như đến mức đáng sợ, và giỏi ăn nói. Nếu DICOMY không chắc chắn rằng cậu bé là Kẻ Phản Chúa - một từ không được phép nói ra ở Trại trẻ mồ côi Marsyas - tôi sẽ nghĩ rằng cháu chỉ là một cậu bé có khả năng tưởng tượng ra những hình ảnh để dọa người không hơn. Dẫu vậy, tôi cho rằng đó là điều cậu bé muốn tôi nghĩ tới. Tôi nên đề phòng thì sẽ tốt hơn. Chỉ vì cậu bé trông như một đứa trẻ không có nghĩa là cháu không có khả năng gây ra đại họa.

Phòng cậu bé khá nhỏ, được cải tạo lại từ một phòng thay đồ trong phòng ngủ của chính anh Parnassus. Cậu bé có hơi bẽn lẽn khi cho tôi xem nơi cháu ở, nhưng tình yêu đối với âm nhạc của cháu đã cho phép tôi gắn kết với cháu. Tôi tin rằng dưới bàn tay dẫn dắt tử tế, cậu bé sẽ có thể trở thành một công dân giúp ích cho xã hội. Đấy là miễn cháu không đầu hàng bản chất thật của mình. Việc này quả thực đặt ra câu hỏi về sự đối đầu giữa bản chất và giáo dưỡng, và liệu có điều xấu xa cố hữu nào trên thế gian này mà ta có thể chiến thắng nhờ sự nuôi dạy được bình thường hóa không. Chúng ta có thể cải tạo được cậu bé không? Có thể giúp cháu hoà nhập không? Việc ấy còn phải chờ xem sao.

Tôi chưa xem phòng của Sal dù tôi nghĩ mình đang chậm rãi giành được sự tin tưởng của cậu bé này. Tôi phải thật cẩn thận với cháu. Cháu khiến tôi nghĩ tới một chú ngựa con nhát cáy. Nói vậy nhưng ngày hôm qua tôi đã nghe thấy cháu lên tiếng nhiều hơn toàn bộ quãng thời gian ở trên đảo tính tới nay. Dù phải thừa nhận, cháu không nói với tôi mà chỉ lên tiếng quanh tôi, nhưng tôi không nghĩ việc ấy quan trọng gì. Cậu bé này như một bông hướng dương, tôi nghĩ vậy. Cháu cần phải được thuyết phục bằng sự chăm sóc tử tế để bộc lộ bản sắc của mình.

Theodore - cậu bé Wyvern - có một kho tàng mà tôi chưa được thấy, dù nơi ấy hẳn phải có ít nhất là mười hai cái cúc áo của tôi. Có thể tôi sẽ không bao giờ được thăm quan nơi ấy, nhưng cho tới nay, việc ấy không khiến tôi lo lắng gì nhiều. Nói cho cùng, ở đó chỉ có cúc áo thôi mà. Tôi định trông chừng cháu sát sao phòng trường hợp có dấu hiệu của thứ gì đó bất chính hơn.

Vấn đề lớn nhất tôi thấy được tới nay là tình trạng có vẻ như là bị cô lập. Lũ trẻ không rời khỏi đảo, dù đảo khá rộng. Chuyện này có lý do của nó, và là một lý do khiến tôi phiền lòng. Được cho biết trước khi đến đây rằng dân làng được chính phủ trả tiền để giữ im lặng vốn sẽ giúp ích nhiều cho tôi. Những chi tiết nhỏ nhặt như vậy khá quan trọng, và việc tôi không hề hay biết điều ấy khiến tôi trông có vẻ thiếu chuyên nghiệp. Chuyện này cũng đặt ra câu hỏi về nguồn gốc của những khoản chi trả kia. Chúng xuất phát từ khoản quỹ dành riêng cho trại trẻ mồ côi đặc biệt này ư? Trong trường hợp đó tôi cho rằng nhân viên kiểm toán sẽ không đồng ý với việc ấy.

Ngôi làng gần đây dường như có chút thù địch với những người ở trại trẻ mồ côi. Tôi tin rằng DICOMY đang không giúp được gì cho chính mình với những chiến dịch kết hợp cùng Sở Phụ trách Ghi danh. Có những biển báo ghi THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI ở mọi ngóc ngách trong làng, và điều này khiến tôi nhớ lại những biển báo tương tự ở thành phố, dù ở đây chúng có vẻ lộn xộn hơn. Nếu lũ trẻ không cảm thấy được đón chào ngoài thế giới thực, làm sao chúng ta có thể hy vọng đến việc giúp chúng hòa nhập vào xã hội?

Tôi đang nghĩ tới một chuyến dã ngoại trong ngày, có lẽ vậy. Để thử xem sao. Dĩ nhiên, tôi sẽ phải đề cập chuyện này với anh Parnassus. Tôi nghĩ chuyến đi sẽ giúp ích cho bọn trẻ, và biết đâu sẽ cho dân làng thấy được nỗi sợ hãi của họ là vô căn cứ. Nếu Arthur từ chối, tôi nghĩ mình sẽ phải nghe theo vậy.

Arthur quả là một anh chàng kỳ quặc. Anh ta quan tâm tới lũ trẻ. Rõ ràng là như vậy. Dù anh ta không tuân thủ từng câu từng chữ trong cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH (có khi là hoàn toàn không tuân thủ) nhưng tôi nghĩ những việc anh ta làm cũng có giá trị. Lũ trẻ đều hết lòng quan tâm đến nhau, và tôi tin rằng việc ấy nhờ một phần không nhỏ vào công lao của Arthur.

Vậy nhưng, người đàn ông này vẫn là một ẩn số. Sau tất cả những gì tôi biết được về nơi này, tôi cảm thấy anh ta xa lạ với mình nhất. Tôi sẽ phải khắc phục chuyện ấy, tôi nghĩ vậy.

Dĩ nhiên, là vì lũ trẻ.

Hôm nay Talia đã khoe với tôi nhiều thứ trong vườn hơn. Các Thần vườn đều tài giỏi trong việc trồng trọt, nhưng cô bé dường như còn tỏa sáng hơn cả Thần vườn tài giỏi nhất và…

Vào ngày thứ ba trong tuần thứ hai Linus ở trên đảo Marsyas thì Calliope quyết định cô ả phải bị đuổi bắt, sau khi phạm tội trộm cắp.

Đó rõ ràng không phải một việc Linus muốn làm. Khi ấy là sau bữa trưa và anh đang ngồi trên hiên phơi nắng, rất thảnh thơi mà gà gật. Anh vẫn còn chút thời gian trước khi phải quay lại nhà chính để ngồi dự giờ học của lũ trẻ và anh đang sử dụng thời gian đó một cách khôn ngoan.

Và rồi cái việc đuổi mèo xảy ra. Linus, dù có thể làm được rất nhiều việc nhưng lại không thích đuổi theo bất kỳ thứ gì. Đuổi theo có nghĩa là phải chạy, và từ rất lâu về trước Linus đã quyết định rằng chạy không phải một hoạt động anh yêu thích gì cho cam. Anh chưa bao giờ hiểu được những người thức dậy còn trước cả khi mặt trời mọc, đi đôi giày thể thao đắt tiền sành điệu vào, và cố ý đi chạy. Việc ấy kỳ quái vô cùng.

Nhưng rồi Calliope lao ra khỏi nhà khách, dựng lông gáy và trợn trừng mắt, như lũ mèo thi thoảng hay vậy vì nhiều lý do bí ẩn. Cô ả điên cuồng nhìn anh, đuôi dựng đứng thành một đường thẳng cứng đờ, móng bấu lên sàn gỗ.

Và con mèo đang ngậm một trong mấy cái cà vạt của anh trong mồm.

Linus cau mày. “Mày đang làm…”

Calliope vọt xuống khỏi hiên và hướng về phía khu vườn.

Linus suýt nữa thì ngã sấp mặt khi đứng dậy khỏi ghế, nhờ trời phù hộ mà xoay sở đứng thẳng được. Anh nhìn Calliope bỏ chạy, cái cà vạt màu đen lòng thòng kéo theo sau. “Này!” Anh quát lên. “Con mèo chết tiệt, mày đang làm gì vậy? Dừng lại ngay lập tức!”

Nó không dừng lại. Nó biến mất sau một hàng giậu.

Trong chốc lát, Linus nghĩ đến chuyện kệ cho nó chạy. Nói cho cùng, đó chỉ là một cái cà vạt thôi. Anh thật ra chưa từng đeo trong tuần này. Thời tiết có hơi nóng quá, và Phee đã hỏi tại sao anh luôn đeo thứ ấy. Khi anh nói với con bé rằng một người làm chức vụ của anh phải thắt cà vạt cho chỉnh tề, con bé đã nhìn anh chằm chằm rồi bỏ đi, vừa đi vừa lắc đầu.

Nhưng tuyệt đối không phải vì Phee mà lần đầu tiên anh bỏ qua chiếc cà vạt vào ngày Chủ Nhật. Và rồi khi thứ hai lại tới, anh quyết định thứ ấy rõ ràng là không cần thiết, ít nhất là trong thời gian này. Một khi anh quay lại thành phố, anh sẽ phải đeo, dĩ nhiên rồi, nhưng bây giờ thì sao?

Anh có đang bị giám sát đâu.

Ai sẽ biết được kia chứ?

(Phee biết, rõ ràng là vậy, nếu nụ cười nhếch mép của nó nói lên được điều gì.)

Nhưng dù là vậy. Chiếc cà vạt đó đã tốn của anh nhiều tiền hơn mức anh muốn nghĩ tới, và chỉ vì bây giờ anh không đeo nó không có nghĩa là Calliope được quyền cướp nó khỏi anh. Anh sẽ cần thứ ấy khi anh trở về nhà.

Vậy nên anh đuổi theo con mèo của mình.

Tới khi chạy được đến vườn thì anh đã đầm đìa mồ hôi. Một người đàn ông có thể hình và kích cỡ như anh cộng với sức cản của không khí khiến việc chạy còn khó khăn hơn nhiều. Và được thôi, có lẽ chính xác thì anh đang không chạy đua, nhưng chạy bộ thì cũng tệ vậy thôi.

Anh đi vào vườn, gọi tên Calliope, yêu cầu con mèo xuất hiện. Cô ả không ra, dĩ nhiên là vậy, vì ả là một con mèo và do đó không nghe theo bất kỳ lời gì của bất kỳ ai nói với ả. Anh tìm dưới những hàng giậu và trong những khóm hoa, tin chắc là mình sẽ tìm thấy ả nấp trong đó, vừa giần giật đuôi vừa nhai cà vạt của anh.

“Tao không biết tại sao hòn đảo này lại biến mày thành như vậy,” anh vừa to tiếng vừa chống tay đứng dậy, “nhưng tao hứa với mày mọi chuyện sẽ thay đổi khi chúng ta về nhà. Thế này thật không thể chấp nhận nổi.”

Anh đi sâu hơn vào trong vườn, tới một góc mà anh chưa từng thăm quan trước kia. Góc vườn này bao quanh hông nhà và rậm rạp hơn những khu Talia đã dẫn anh đi thăm tới nay. Ở nơi này, hoa cỏ trông hoang dại hơn, những bông hoa mang màu sắc chói lọi, gần như là rợn mắt. Nắng chỉ chiếu vào mặt hông bên kia, và ở đây ngập tràn góc tối. Có rất nhiều chỗ cho một con mèo ẩn nấp.

Anh bước vòng qua một thân cây già cỗi, những cành cây khúc khuỷu, lá cây cuộn lại và thấy…

“Mày đây rồi,” anh nói cùng tiếng thở dài. “Mày bị cái quái gì vậy hả?”

Calliope ngồi chồm hỗm, cà vạt nằm trên đất cạnh chân cô ả. Ả ngẩng lên nhìn anh bằng đôi mắt thấu hiểu. Ả lại meo meo lên, một âm thanh anh vẫn chưa quen tai.

“Tao không quan tâm,” anh trả lời. “Mày không được trộm đồ của tao. Như vậy là bất lịch sự, và tao không muốn phải đuổi… theo… mày…”

Anh chớp mắt.

Ở đằng đó, phía sau Calliope, là thứ trông như cửa hầm rượu ở chân nhà. Móng nhà được xây bằng đá, và cửa hầm bằng gỗ dày cộp. Anh cau mày đi tới, thấy những vết tích nhìn giống vết lửa cháy trên cửa, như thể ngày xửa ngày xưa từng có một vụ cháy xảy ra đằng sau hai cánh cửa ấy. Anh suy nghĩ một lúc, cố nhớ lại xem liệu mình có từng nghe kể rằng ngôi nhà này có tầng hầm chưa. Anh nghĩ là chưa, và ngoài phòng của Sal ra, anh nghĩ mình đã nhìn qua gần như từng tấc của ngôi nhà. Nếu đây là tầng hầm, thì ở trong nhà không có lối xuống hầm.

Có một ổ khóa gỉ sét cài trên cửa. Bất cứ thứ gì đó ở dưới hầm, nếu có, sẽ luôn bị che giấu. Trong chốc lát, Linus nghĩ đến chuyện lấy xẻng của Talia và dùng nó để nạy mở cánh cửa, nhưng lập tức gạt suy nghĩ ấy đi. Cửa bị khóa là có lý do cả. Rất có thể là để lũ trẻ không đi vào. Nếu từng có đám cháy dưới hầm, thì trong đó không an toàn. Có thể chính Arthur đã cài ổ khóa lên cửa. Nơi này trông như đã từ rất lâu rồi không có ai tới thăm, cỏ mọc um tùm trên lối vào cửa hầm, một khung cảnh trông thật đối lập với phần còn lại trong vườn của Talia.

“Rất có thể là hầm than,” Linus lầm bầm. “Như vậy sẽ giải thích được vết cháy. Và vì người ta không dùng than nhiều như trước nữa, cẩn tắc vô ưu.”

Anh cúi xuống nhặt cái cà vạt lên.

Calliope quan sát anh bằng cặp mắt ngời sáng.

“Thứ này là của tao,” anh bảo con mèo. “Trộm cắp là xấu xa lắm.”

Ả liếm chân rồi xoa lên mặt.

“Phải, ờ, kể cả vậy.”

Anh liếc cửa hầm một lần nữa rồi quay về theo đường vừa đi đến.

Anh sẽ phải nhớ mà hỏi Arthur về cửa hầm khi họ có thời gian ở một mình.

Họ không có được khoảng thời gian ở một mình ấy và sự khiếp đảm của anh thì cứ lớn dần. Tại sao anh lại cảm thấy khiếp đảm về việc như vậy thì anh không hiểu được, nhưng sự thật là vậy đấy. Linus dần biết được rằng bất kỳ cảm xúc nào mà Arthur Parnassus khuấy động trong lòng anh đều là nhất thời và là kết quả của tiếp xúc gần. Linus không có nhiều bạn bè (có lẽ, nếu anh thành thực với bản thân thì là còn chẳng có ai), và coi Arthur Parnassus như bạn bè là một ý hay, dù việc ấy có thiếu thực tế đến mức nào đi nữa. Họ không thể làm bạn với nhau. Linus đến đây với tư cách nhân viên công tác xã hội làm việc cho DICOMY. Arthur là hiệu trưởng của trại trẻ mồ côi. Đây là một cuộc điều tra, và thân mật quá mức với một trong những đối tượng của cuộc điều tra kể trên là không đúng mực. Cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH đã nêu rõ về vấn đề này như sau: Một nhân viên công vụ phải luôn khách quan. Cái nhìn khách quan là vô cùng quan trọng đối với sức khỏe và ích lợi của thanh thiếu niên nhiệm màu. Chúng không thể có ý dựa dẫm vào một nhân viên công tác xã hội, vì nhân viên công tác xã hội KHÔNG PHẢI BẠN BÈ CỦA CHÚNG.

Linus có việc phải làm, tức là anh không thể ngồi không, hy vọng nói chuyện được với Arthur mà không có những cái tai nhỏ vểnh lên xung quanh. Và dù Linus tin rằng những giờ học giữa Arthur và Lucy rất thú vị, anh không thể chỉ dành thời gian ở với họ được. Còn năm đứa trẻ khác để cân nhắc, và anh cần phải đảm bảo rằng trông mình không có vẻ gì là đang thiên vị ai.

Anh đi cùng Talia ra vườn, lắng nghe khi con bé ca tụng những tác dụng (rất, rất nhiều tác dụng) của việc chân lấm tay bùn.

Anh lắng nghe khi Chauncey chiêu đãi anh những câu chuyện về những nhân viên hành lý nổi tiếng (mà Linus tin hầu hết trong đó là không có thật) mở cửa ra vào và mang vác hành lý, phá giải những vụ án như trộm cắp nữ trang hay mang lên khay đồ ăn theo dịch vụ phòng. Thằng bé lôi một cuốn sách dày cộp (gần dày bằng cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH) từ dưới gầm giường ra, được bọc ni lông để giữ cho không bị ướt. Nó vừa càu nhàu vừa nâng cuốn sách lên quá đầu để Linus đọc được cái tựa, lớp bọc nilon xô vào nhau: Câu chuyện về các nhân viên hành lý qua nhiều thời kỳ.

“Cháu đã đọc sách này bốn lần rưỡi rồi,” nó tự hào tuyên bố.

“Thế ư?” Linus hỏi.

“Ồ vâng. Cháu phải đảm bảo rằng mình biết mình đang làm cái gì.”

“Tại sao vậy?”

Chauncey chậm rãi chớp mắt, mắt phải trước, rồi đến mắt trái. “Tại sao gì ạ?”

“Tại sao cháu lại muốn trở thành nhân viên hành lý?”

Chauncey cười toe toét. “Vì họ có thể giúp đỡ người khác.”

“Và đó là việc cháu muốn làm ư?”

Nụ cười của thằng bé héo đi đôi chút. “Hơn bất kỳ việc nào khác ạ. Cháu biết cháu…” Nó lách cách hai hàm răng đen. “Khác người.”

Linus giật mình. “Không, đó không phải điều chú… Cháu chẳng có gì xấu xa cả.”

“Cháu biết mà,” Chauncey nói. “Khác biệt không có nghĩa là xấu xa. Arthur nói rằng đôi khi khác người còn tốt hơn là giống hệt những người khác.” Nó nhìn cuốn sách mình đang nắm trong những xúc tu. “Khi đến khách sạn, người ta thường đã mệt rồi. Họ muốn có người giúp họ mang hành lý. Và cháu rất giỏi việc đó. Talia suốt ngày nhờ cháu nâng đồ nặng cho bạn ấy để cháu có thể luyện tập.” Nó cau mày, nhìn xuống sách. “Chỉ vì trông cháu như thế này không có nghĩa là cháu không giúp được mọi người. Cháu biết nhiều người nghĩ cháu thật đáng sợ, nhưng cháu hứa là không phải vậy đâu.”

“Dĩ nhiên là không rồi,” Linus khẽ nói. Anh gật đầu về phía cuốn sách. “Thế thôi, cháu kể tiếp đi. Ta cùng nghe chuyện về những nhân viên hành lý qua nhiều thời kỳ nào. Chú tin là những chuyện ấy chắc chắn sẽ cuốn hút cho mà xem.”

Mắt Chauncey phấn khích nhún nhảy. “Ồ, đúng vậy đấy ạ. Chú có biết là từ nhân viên hành lý lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1897 không? Họ còn được gọi là nhân viên khuân vác hoặc người giữ cửa. Thật đáng ngạc nhiên phải không?”

“Phải,” Linus nói. “Có lẽ là điều đáng ngạc nhiên nhất chú từng nghe kể.”

Anh ngồi bên Theodore gần tổ của thằng bé (không bao giờ là trong tổ, vì anh không muốn bị cắn), nghe chú Wyvern vừa chiêm chiếp vừa khoe Linus từng thứ trong kho tàng nho nhỏ của nó: một chiếc cúc áo, một đồng xu bạc, một chiếc cúc khác, một mảnh giấy gấp lại có dấu vết nhìn như chữ viết tay của Sal (anh không nhìn ra được trên đó ghi gì), lại một chiếc cúc khác.

Và anh hỏi lũ trẻ, từng đứa một, rằng chúng có hạnh phúc không. Chúng có lo lắng gì không. Có gì trên đảo này khiến chúng e sợ không.

Anh đã hỏi những câu hỏi tương tự ở những trại trẻ khác trước đây, và anh luôn nhìn ra được khi nào thì lũ trẻ được dặn dò sẵn để nói những điều người ta nghĩ anh cần nghe. Luôn có chút gì đó giả dối trong những câu trả lời hoạt bát về hạnh phúc và vui sướng. “Không ạ, thưa chú Baker, hoàn toàn không có vấn đề gì cả, và cháu sung sướng vô cùng.”

Ở đây không như vậy. Ở đây, Talia sẽ nghi hoặc nhìn anh và hạch hỏi tại sao anh lại hỏi như vậy và liệu con bé có cần đi lấy xẻng không? Ở đây, Phee sẽ phá lên cười và bảo anh rằng con bé không muốn ở bất kỳ nơi nào khác, vì kia là rừng cây và người nhà của nó. Ở đây, Lucy cười toe toét với anh và nói ồ có chứ, chú Baker, cháu có muốn đi đâu đó khác, vào một ngày nào đó, nhưng chỉ khi tất cả mọi người đi cùng thằng bé và đồng tình với suy nghĩ thống trị thế giới của nó. Ở đây, mắt Chauncey sẽ nhún nhảy và thằng bé sẽ nói rằng nó yêu hòn đảo này, nhưng cũng ước gì ở đây có khách sạn để nó có thể mang vác hành lý. Ở đây, Theodore sẽ lật đật vấp phải cánh vì phấn khích khi thấy Arthur, ngay cả khi Arthur mới chỉ rời đi có vài phút.

Và chính tại đây, vào ngày thứ năm gần cuối tuần thứ hai, Sal xuất hiện trên hiên nhà khách vào lúc năm giờ mười lăm phút, cắn cắn môi dưới.

Linus mở cửa khi nghe tiếng gõ, kinh ngạc khi thấy Sal đến một mình. Anh vươn người ra ngó, tin chắc rằng một trong mấy đứa khác sẽ trốn ở bên cửa, nhưng không.

Chỉ có Sal mà thôi.

Linus nhanh chóng điều chỉnh nét mặt, không muốn dọa sợ thằng bé. “Chào cháu, Sal.”

Mắt Sal mở to, và nó bước lùi lại. Nó ngoái đầu nhìn qua vai, và dù Linus không thấy được, anh chắc chắn rằng Arthur đang quan sát từ đâu đó. Anh không biết làm sao mình biết được, nhưng Linus có cảm giác rằng không mấy chuyện xảy ra trên đảo này mà Arthur không biết.

Sal lại quay về phía Linus và cụp mắt nhìn xuống sàn. Hai tay thằng bé nắm chặt ở hai bên người, và nó đang nặng nề hít thở. Linus bắt đầu lo lắng rằng có gì đó không ổn, nhưng rồi Calliope lách qua hai chân Linus và bắt đầu cọ lên chân Sal. Cô ả meo meo ầm ĩ với thằng bé, ưỡn lưng, giật giật tai.

Sal dịu dàng mỉm cười với ả và dường như đã bớt căng thẳng.

“Nó là một con mèo ngoan,” Linus khẽ nói. “Thi thoảng vẫn gây rắc rối cho chú, nhưng không có việc gì mà chú không giải quyết được.”

“Cháu thích mèo,” Sal nói, giọng hầu như không hơn tiếng thì thầm là bao. “Thường thì, mèo không thích cháu. Vì vụ mùi chó.”

“Calliope có hơi khác biệt. Nó thích cháu đấy.”

Sal ngẩng lên nhìn anh. “Thật ạ?”

Linus nhún vai. “Cháu có nghe thấy nó nói chuyện với cháu như thế nào không?”

Sal gật đầu.

“Chú chưa từng nghe nó kêu như vậy trước kia. Ồ, nó rừ rừ như một con mèo bình thường, nhưng nó không bao giờ meo meo. Ít ra là cho tới khi bọn chú đến đây. Và cho tới khi nó gặp cháu.”

Trông Sal có vẻ sững sờ. “Òa,” thằng bé cảm thán, lại nhìn xuống con mèo. “Cháu muốn biết là tại sao nhỉ.”

“Ta muốn nghĩ đó là vì nó giỏi đánh giá tính cách con người. Rằng có lẽ nó cảm nhận được điều gì nơi cháu để cho nó lên tiếng. Mèo rất khôn ngoan theo kiểu đó. Nếu chúng cảm nhận được rằng ai đó không phải người tốt, chúng thường tránh né họ, hoặc thậm chí là tấn công họ.”

“Nó chưa bao giờ tấn công cháu,” Sal nói.

“Chú biết chứ. Nó thích cháu mà.”

Sal gãi gãi gáy cô ả. “Cháu cũng thích nó.”

“Tuyệt vời,” Linus nói. “Vì cũng giống như mèo nhìn ra được nhiều điều về người, chúng ta cũng luôn luôn có thể đánh giá một con người qua cách họ đối xử với động vật. Nếu họ độc ác, thì chúng ta phải tránh xa người ấy bằng mọi giá. Nếu họ tốt bụng, chú nghĩ đó là dấu hiệu của một tâm hồn thiện lành.”

“Cháu đối xử tốt với động vật mà,” Sal nói, giọng sống động hơn bất kỳ lúc nào Linus từng nghe nó nói. “Và chúng luôn có vẻ thích cháu.”

“Đấy thấy chưa,” Linus nói, khoái chí. “Chú vô cùng hài lòng khi nghe cháu nói vậy.”

Sal đỏ mặt và quay đi. Khi lên tiếng lần nữa, nó lầm bầm điều gì đó mà Linus hoàn toàn không nghe ra được.

“Cháu nói lại đi, được không? Chú không nghe thấy.”

Sal hít một hơi thật sâu và chậm rãi thở ra. “Chẳng hay cháu có thể dẫn chú đi thăm quan phòng cháu được không.”

Linus giữ cho giọng mình bình thản, dù lòng anh đang rộn ràng hơn anh tưởng. “Chú thích lắm.” Anh lưỡng lự. “Có phải ai đó đã ép cháu làm vậy không? Vì chú không muốn cháu làm việc cháu chưa sẵn sàng để làm.”

Sal ngượng nghịu nhún vai. “Trước khi chú đến đây Arthur nói rằng chú sẽ muốn xem phòng cháu, nhưng thầy chưa bao giờ nhắc lại chuyện ấy.”

Linus nhẹ cả người. “Và không có đứa nào khác…”

Thằng bé lắc đầu. “Không. Ý cháu là, cháu biết chú đã xem phòng các em rồi, nhưng… các em không nói gì cả.”

Linus muốn hỏi tại sao lại là bây giờ, nhưng quyết định giữ điều ấy lại trong lòng. Anh không cần phải gây thêm áp lực cho thằng bé. “Vậy thì chú mừng lắm.”

“Calliope có thể đi cùng chứ?” Sal vội vã hỏi. “Nếu được ạ. Cháu không muốn phiền hà bất kỳ ai…”

Linus giơ tay lên. “Chắc chắn rồi. Tuy nhiên, chúng ta sẽ để con mèo quyết định. Nếu nó đi theo, mà ta nghĩ là nó sẽ làm thế, thì cứ vậy đi.”

“Vâng ạ.”

“Chúng ta đi chứ?”

Sal lại cắn cắn môi, rồi gật đầu cụt lủn.

Linus đóng cửa nhà khách lại sau lưng.

Calliope đi cùng họ, như Linus đã đoán. Cô ả tiếp tục sánh vai với Sal, chỉ dẫn đầu vài bước rồi quay đầu và trở lại chỗ thằng bé. Linus gần như cảm thấy thất bại trước màn khoe khoang tình cảm trắng trợn của cô ả, nhưng vì là một người đàn ông bốn mươi tuổi mà không phải một cậu bé vị thành niên phụng phịu, nên anh không nói gì. Vả lại, anh tự nhủ, rõ ràng là cô ả đang giúp hai người, và Linus không định từ chối sự giúp đỡ ấy.

Họ đi qua Talia trong vườn, con bé chỉ vẫy tay chào rồi quay lại với khóm hoa. Chauncey đứng ngay cạnh nó, ồn ào ca thán rằng chỗ hoa này là những thứ xinh đẹp nhất nó từng thấy, và nếu Talia cứ khăng khăng mời, thì nó muốn thử ăn vài bông. Phee và Zoe đang ở trong rừng. Lucy ở cùng Arthur trong phòng. Trước khi họ đi đến cầu thang, Theodore kêu chiếp chiếp. Linus ngẩng lên và thấy chú Wyvern treo ngược từ thanh xà lộ ra trên đầu họ như thể thằng bé nghĩ mình là một con dơi. Nó lại kêu thêm tiếng nữa, và Sal nói, “Không sao đâu, Theodore. Anh mời chú ấy đến mà.” Theodore lại chiếp chiếp rồi nhắm mắt lại khi Linus theo Sal đi lên cầu thang.

Họ dừng lại trước cửa phòng Sal. Sal, đứa trẻ chẳng bao giờ trông hết lo âu mỗi ngày, đặt một bàn tay run rẩy lên tay nắm cửa.

Linus sẽ không thúc giục. Anh nói, “Nếu cháu chưa sẵn sàng thì là cháu chưa sẵn sàng. Chú sẽ không giục cháu chuyện này, Sal ạ. Đừng làm vậy chỉ để cho chú xem.”

Sal cau mày, quay lại nhìn Linus. “Nhưng đây là để cho chú xem mà.”

Linus bị làm cho bối rối. “À thì… ừ, chú cũng nghĩ vậy. Nhưng chúng ta có tất cả thời gian trên cõi đời này mà.” Họ không có, dĩ nhiên là vậy. Linus đã trải qua gần nửa quãng thời gian ở Marsyas. Nhận ra điều này khiến anh giật mình.

Sal lắc đầu. “Cháu… Cháu muốn chúng ta làm việc này ngay bây giờ.”

Linus không giục giã. “Nếu cháu muốn. Chú sẽ không chạm vào bất kỳ đồ đạc nào của cháu, nếu như vậy làm cháu thấy thoải mái hơn. Và nếu cháu có gì muốn cho chú xem, chú sẽ sẵn sàng xem. Chú không ở đây để đánh giá cháu, Sal ạ. Hoàn toàn không.”

“Vậy thì tại sao chú lại đến đây nếu không phải là để đánh giá?”

Linus do dự. “Chú… Chà! Chú ở đây để đảm bảo rằng mái ấm này đúng như cách gọi đó. Là một mái ấm. Một nơi chú có thể tin tưởng là sẽ giữ cho tất cả các cháu bình an vô sự.”

Sal thả tay khỏi nắm đấm cửa. Nó quay cả người về phía Linus. Calliope ngồi sát chân nó, ngẩng lên nhìn anh. Đây là khoảng cách gần nhất từng ngăn giữa Sal và Linus. Thằng bé cao bằng Linus, và dù Linus dày mình hơn, ở Sal có trọng lượng, có thứ sức mạnh đối lập với việc thằng bé đôi khi cố gắng khiến mình trông nhỏ bé đến thế nào.

“Chú sẽ bắt cháu rời đi ư?” Sal hỏi, nhíu mày càng chặt.

Linus lưỡng lự. Cả đời mình anh chưa bao giờ nói dối đứa trẻ nào. Nếu sự thật phải bị co kéo, anh thà không nói gì cả. “Chú không muốn ép cháu làm bất kỳ việc gì cháu không muốn làm,” Linus chậm rãi nói. “Và chú nghĩ là không ai nên ép buộc cháu cả.”

Sal cẩn thận săm soi anh. “Chú không giống những người khác.”

“Người khác?”

“Nhân viên công tác xã hội ấy.”

“Ồ. Chú cũng nghĩ vậy. Chú là Linus Baker. Trước đây cháu chưa từng gặp Linus Baker nào mà.”

Sal nhìn anh chằm chằm thêm một lúc rồi lại quay về phía cửa. Thằng bé đẩy cửa mở ra rồi lùi lại. Nó lại bắt đầu cắn môi, và Linus muốn bảo rằng nó sẽ tự làm đau mình mất, nhưng anh nói, “Chú vào được chứ?”

Sal gật đầu nhát gừng.

Căn phòng không có gì hào nhoáng cả. Thật ra, trông nó có vẻ thiếu vắng gần như bất kỳ thứ gì khiến Linus nghĩ đến Sal. Xấu đẹp gì thì những đứa trẻ khác đã biến phòng mình thành của riêng. Ở đây, bốn bức tường đều trống trơn. Giường được trải gọn gàng. Có một tấm thảm trên sàn gỗ, nhưng nó có màu trầm và xám xịt. Có cửa tủ âm tường và… chỉ có vậy thôi.

Hầu như là vậy.

Trong một góc phòng, có một chồng sách khiến Linus nhớ về văn phòng của Arthur. Anh nhìn vài tựa sách và thấy chúng là những tác phẩm hư cấu kinh điển, Shakespeare và Poe, Dumas và Sartre. Cái tên đứng cuối này khiến Linus nhướn mày. Anh chưa bao giờ hiểu được chủ nghĩa hiện sinh.

Nhưng ngoài chồng sách ra, căn phòng là một khung tranh trống trơn, như thể đang đợi họa sĩ đến thổi hồn vào đó. Điều này khiến Linus buồn bã, vì anh nghĩ là mình biết lý do tại sao căn phòng này lại như vậy.

“Dễ thương đấy,” anh nói, giả vờ nhìn quanh phòng. Qua khóe mắt, anh thấy Sal ngó vào cửa, dõi theo nhất cử nhất động của anh. “Rộng lắm. Và nhìn cửa sổ mà xem. Thế nào nhỉ, chú nghĩ chú gần như thấy được ngôi làng từ đây đấy. Một khung cảnh tuyệt đẹp.”

“Về đêm chú có thể thấy ánh đèn trong làng,” Sal nói từ ngoài cửa. “Những ánh đèn lấp lánh. Cháu thích giả vờ rằng đó là những con thuyền ở ngoài biển.”

“Một suy nghĩ thật xinh đẹp,” Linus nói. Anh rời khỏi cửa sổ và đi tới phòng thay đồ. “Chú nhìn vào trong tủ có được không?”

Thằng bé thoáng chốc lưỡng lự. Rồi, “Được ạ.”

Tủ quần áo rộng hơn Linus tưởng. Và đằng kia, cạnh tủ ngăn kéo, là một bàn học có ghế xoay xếp vào trong gầm. Trên bàn là cái máy đánh chữ, một chiếc Underwood cũ kỹ. Có một trang giấy trắng đã đan xen những dòng chữ. “Vậy đây là gì?” Linus nhẹ nhàng hỏi.

Anh không nghe thấy tiếng trả lời. Anh ngoái đầu qua vai và thấy Sal đứng cạnh giường, trông như một đứa bé trai đi lạc. Calliope đã nhảy lên giường và cọ lên tay thằng bé. Nó luồn những ngón tay vào lớp lông lên lưng con mèo.

“Sal?”

“Đó là nơi cháu viết lách,” Sal thốt lên, mở to mắt. “Cháu… Cháu thích viết lách. Cháu không… Những cái cháu viết không hay lắm, và cháu có lẽ không nên…”

“À. Hình như chú nhớ được chuyện gì đó về sở thích ấy thì phải. Tuần trước ở trong lớp, cháu đã đọc đoạn văn nào đó cho mọi người nghe. Cháu viết đoạn đó à?”

Sal gật đầu.

“Đoạn văn đó hay lắm. Hay hơn nhiều so với những gì chú viết ra được, chú e là vậy. Nếu cháu cần hoàn thành báo cáo, chú sẽ giúp được cháu. Nhưng óc sáng tạo của chú chỉ chạm được tới mức ấy trong văn viết mà thôi. Không có máy tính à?”

“Ánh sáng màn hình làm cháu đau mắt. Và cháu thích tiếng máy đánh chữ hơn.”

Linus mỉm cười. “Chú hiểu mà. Có gì đó thật nhiệm màu trong những tiếng gõ phím lách cách mà máy tính không thể sánh được. Chú phải biết chứ. Hầu hết mọi ngày, chú đều ngồi trước một cái máy tính ở chỗ làm. Sau một thời gian, nó cũng có thể làm chú đau mắt, dù chú tin là thị lực của cháu tốt hơn một chút so với của chú.”

“Cháu không muốn nói về những thứ cháu viết đâu,” Sal vội vã nói.

“Dĩ nhiên rồi,” Linus thoải mái nói. “Đó là những thứ bí mật mà. Chú sẽ không bao giờ yêu cầu cháu chia sẻ điều gì mà cháu không sẵn sàng chia sẻ.”

Lời ấy dường như xoa dịu thằng bé đôi chút. “Chỉ là… Đôi khi chúng chẳng hợp lý gì cả. Suy nghĩ của cháu ấy. Và cháu cố gắng viết hết xuống để tìm ra cách sắp xếp, nhưng…” Thằng bé trông như thể đang chật vật tìm từ thích hợp.

“Chúng riêng tư mà,” Linus nói. “Và cháu sẽ tìm được cách sắp xếp khi cháu sẵn sàng. Nếu những gì cháu viết giống như đoạn văn cháu đọc hôm trước, chú tin chắc rằng tác phẩm ấy sẽ rất cảm động cho xem. Cháu đã viết lách được bao lâu rồi?”

“Hai tháng ạ. Có khi ít hơn.”

Vậy là chỉ từ khi thằng bé tới Marsyas. “Trước đó thì không ư?”

Sal lắc đầu. “Cháu chưa từng… Trước kia không ai để cháu viết. Cho tới khi cháu đến đây.”

“Arthur à?”

Sal đá đá mũi giày lên tấm thảm. “Thầy hỏi cháu có điều gì cháu mong muốn hơn bất kỳ thứ gì không. Suốt tháng đầu tiên, mỗi tuần thầy đều hỏi cháu một lần, bảo cháu rằng khi cháu sẵn sàng trả lời, thầy sẽ làm mọi điều có thể trong mức hợp lý.”

“Và cháu nói cháu muốn một cái máy đánh chữ ư?”

“Không ạ.” Thằng bé nhìn xuống Calliope. “Cháu nói với thầy là cháu không muốn lại phải đi chỗ khác. Rằng cháu muốn ở lại đây.”

Linus chớp mắt xua đi cảm giác cay xè đột ngột và bất ngờ dâng lên trong mắt. Anh hắng giọng. “Và anh ấy nói gì?”

“Rằng thầy sẽ làm tất cả những gì có thể làm để đảm bảo rằng việc ấy trở thành sự thực. Và sau đó cháu hỏi xin một cái máy đánh chữ. Ngày hôm sau, Zoe mang nó tới. Và các em tìm thấy cái bàn trên gác mái và lau dọn nó. Talia nói em ấy đã đánh bóng lớp gỗ tới mức tưởng như râu mình sẽ rụng hết vì cả đống hóa chất. Và rồi mọi người làm em ngạc nhiên với món quà ấy.” Thằng bé nhoẻn miệng cười. “Đó là một ngày tuyệt vời. Gần như là sinh nhật của cháu vậy.”

Linus khoanh tay lại để ngăn tay mình khỏi run rẩy. “Và cháu nhét bàn vào trong tủ ư? Chú cho rằng cái bàn này đặt trước cửa sổ trông sẽ đẹp đấy.”

Sal nhún vai. “Trong này… Trong tủ giúp cháu có cảm giác nhỏ bé. Cháu chưa sẵn sàng lớn lên đâu.”

“Chú tự hỏi liệu giờ cháu đã sẵn sàng chưa đây,” Linus suy tư thành tiếng. “Phòng cháu lớn hơn tủ quần áo một chút, nhưng không rộng đến mức có cảm giác như bốn bức tường đang lùi ra xa. Cũng giống như ngôi làng về đêm vậy. Cháu có thể thấy họ, nhưng họ không thấy được cháu, dù giữa cháu và họ là cả một khoảng không kia. Đây là một cách nhìn thôi, chú nghĩ vậy.”

Sal cúi mặt. “Cháu chưa từng… Cháu chưa bao giờ nghĩ về chuyện này theo hướng đó cả.”

“Chỉ là một ý nghĩ thôi. Cái bàn ở chỗ này là hoàn hảo rồi nếu đó là điều cháu muốn. Cháu không cần di chuyển nó cho tới lúc sẵn sàng, hoặc thậm chí là hoàn toàn không cần. Dù sao đi nữa, cửa sổ có thể sẽ trở thành một yếu tố gây phân tâm mà.”

“Ở chỗ chú làm việc có cửa sổ không?”

Linus lắc đầu. Anh nghĩ chuyện này riêng tư một cách nguy hiểm, nhưng có thật sự chết ai đâu kia chứ? “Không có đâu. DICOMY không… Ừ thì, họ không thích cửa sổ, chú nghĩ vậy.”

“DICOMY à,” Sal phỉ nhổ, và Linus thầm chửi thề. “Chúng… Chúng là… Cháu không…”

“Đó là nơi chú làm việc,” Linus nói. “Nhưng cháu đã biết chuyện ấy rồi mà. Và chính cháu nói rằng chú không như những người khác.”

Hai tay Sal lại siết chặt thành nắm đấm. “Chú có thể như họ lắm chứ.”

“Có lẽ là vậy,” Linus thừa nhận. “Và chú thấy được tại sao cháu nghĩ như vậy sau tất cả những gì mình đã trải qua. Nhưng chú muốn cháu nhớ rằng cháu không phải chứng tỏ cái gì với chú cả. Chú phải chứng tỏ bản thân với cháu, chứng tỏ rằng trong lòng chú chỉ có lợi ích hàng đầu của cháu thôi.”

“Arthur tốt lắm,” Sal nói. “Thầy không… Thầy không giống những kẻ khác. Những hiệu trưởng ấy. Thầy không… Thầy không xấu tính.”

“Chú biết là vậy.”

“Nhưng chú nói chú đang điều tra thầy mà.”

Linus cau mày. “Chú nghĩ chú chưa bao giờ nói như vậy ngoài một lần nói chuyện riêng nọ. Làm sao cháu…”

“Cháu là chó mà,” Sal cấm cảu với anh. “Thính lực của cháu tốt hơn. Cháu nghe được chú nói gì mà. Chú nói rằng đây không phải một chuyến viếng thăm. Đây là một cuộc điều tra. Cháu không… Cháu không cố nghe trộm chuyện riêng đâu, nhưng đó cũng là lời những người khác đã nói. Rằng họ đang điều tra. Đó là lý do tại sao cháu không bao giờ có thể bày đồ trong phòng như Talia hay Lucy. Vì phòng ở luôn là tạm thời. Cứ lần nào cháu từng nghĩ rằng cuối cùng mình sẽ có một nơi để ở lại, người ta lại tước đoạt điều ấy khỏi cháu.”

Anh thầm chửi thề. “Lời ấy không phải là nói cho cháu nghe.” Sal bắt đầu lùi ra xa khỏi anh như thể Linus đã giơ tay lên đánh thằng bé. “Không,” Linus vội vàng nói. “Đó không… Ý chú là, lẽ ra chú nên để ý hơn đến những gì mình nói. Lẽ ra chú nên cẩn trọng hơn với ngôn từ của mình.”

“Vậy thì chú không điều tra Arthur à?”

Linus dợm lắc đầu nhưng ngừng lại. Anh thở dài. “Không phải Arthur, Sal ạ. Hoặc, ít ra là không chỉ là Arthur. Là cả trại trẻ. Chú biết cháu đã có… những trải nghiệm không ai muốn có trong quá khứ, nhưng chú thề với cháu lần này sẽ khác.” Anh không biết liệu mình có tin lời của chính mình hay không nữa.

Sal cảnh giác nhìn anh. “Và sẽ ra sao nếu chú quyết định bắt bọn cháu phải đi? Thế thì chú cũng sẽ như họ thôi phải không?”

“Chú không biết,” Linus khẽ nói. “Chú hy vọng là nếu có lý do cho việc làm đó, thì cháu sẽ được biết.”

Sal im lặng.

Linus nghĩ anh đã ở đây lâu hơn mức thằng bé muốn tiếp đón. Anh tránh khỏi cửa. Calliope lườm anh. Anh không trách cô ả. Anh nghĩ chuyến thăm này đã không diễn ra tốt đẹp như anh hy vọng. Và dù lúc nãy anh bảo Sal rằng họ có tất cả thời gian trên cõi đời này nhưng nói vậy là không đúng. Thời gian, như thường lệ, trôi qua nhanh hơn người ta tưởng. Trong hai tuần nữa, anh sẽ phải đưa ra đề nghị của mình khi bỏ lại hòn đảo phía sau.

Anh đứng cách Sal một khoảng khá xa (hoặc xa hết mức căn phòng cho phép đối với hai người to lớn). Anh mỉm cười với thằng bé và đang định đi ra khỏi cửa thì Sal nói, “Chú giúp cháu được không?”

“Được,” Linus lập tức nói. Rồi, “Giúp cháu làm gì cơ?”

Sal nhìn xuống Calliope. Cô ả đã nhảy lên giường và giụi đầu vào tay thằng bé. Miệng thằng bé lại giần giật. Nó ngẩng lên nhìn Linus. “Di chuyển bàn học ấy ạ. Có khi cháu tự làm được, nhưng cháu không muốn làm xước tường hay sàn trong phòng.”

Linus giữ cho mặt mình không biểu lộ cảm xúc gì. “Nếu cháu muốn vậy.”

Sal nhún vai như thể thế nào cũng được, nhưng Linus giỏi việc anh đang làm. Anh nhìn xuyên qua được lớp vỏ bên ngoài.

Linus cởi cúc tay áo sơ mi, xắn nó lên khuỷu tay. “Chú đoán là bàn lọt qua cửa tủ vì ban đầu cháu đã mang nó vào đây mà.”

Sal gật đầu. “Vừa khít thôi ạ. Chúng ta chỉ phải cẩn thận thôi. Chauncey phấn khích quá nên đã làm mẻ góc bàn. Em ấy rất buồn vì việc ấy, nhưng cháu đã bảo em là không sao rồi. Có đôi khi đồ vật bị mẻ và vỡ, nhưng chúng vẫn còn tốt lắm.”

“Thêm phần cá tính mà, chú nghĩ vậy.” Linus nói. “Và để cho chúng ta ôn lại kỷ niệm, sẵn sàng chưa?”

Sal đã sẵn sàng. Thằng bé đi vào trong tủ trước, kéo ghế ra và cẩn thận đặt máy đánh chữ lên ghế. Nó đẩy ghế ra gần tủ ngăn kéo. Nó đứng ở một đầu bàn và đợi Linus tới đầu kia. Chiếc bàn nhỏ, nhưng cổ kính. Linus nghĩ nó sẽ nặng hơn những gì anh thấy.

Sau khi họ khom lưng và Sal đếm đến ba, anh đã biết mình đúng. Cái bàn nặng thật, và Linus nhớ rằng mẹ mình hay nói Nâng đồ lên bằng lực đầu gối ấy, Linus, thật là! Đau nhức khẽ nhói lên trên lưng nhắc anh nhớ rằng mình không còn trẻ nữa, và suýt nữa thì anh đã nhăn nhở cười đầy đau thương khi Sal trông chẳng phải gắng sức mấy. Có khi thằng bé đã có thể tự mình chuyển bàn ra thật.

Họ thật cẩn thận khi đưa bàn qua cửa tủ. Linus thấy được vết sứt ở góc bàn đằng xa nhờ công của Chauncey, và anh chậm rãi rê chân ra phía sau. Cái bàn lọt qua cửa mà còn thừa một tấc ở mỗi bên.

“Kia,” Linus hổn hển và phì phò. “Ngay kia kìa. Trước cửa sổ.”

Họ cẩn thận đặt bàn xuống, tránh bị kẹp tay. Linus rên rỉ có hơi cường điệu khi anh đứng thẳng dậy, hai tay mò tới hõm lưng. Anh nghe thấy Sal cười khúc khích, nhưng không lên tiếng chỉ ra điều ấy. Anh còn muốn nghe lại thứ âm thanh đẹp như vậy.

Linus lùi lại, xét nét nhìn thành quả của họ. Anh chống tay lên hông và nghiêng đầu. “Còn thiếu thứ gì đó.”

Sal cau mày. “Thật ạ?”

“Phải.” Anh quay vào trong tủ và đẩy ghế ra. Anh nâng cái máy đánh chữ và đặt nó lên chính giữa bàn, trước khung cửa sổ. Anh đẩy ghế vào lại gầm bàn. “Đây. Giờ thì hoàn thiện rồi đấy. Thế nào? Cháu nghĩ sao?”

Sal vươn ra lướt một ngón tay ngang những phím chữ với vẻ gần như là âu yếm. “Hoàn hảo rồi ạ.”

“Chú cũng nghĩ vậy. Chú mong là óc sáng tạo của cháu sẽ còn nảy nở hơn nữa nhờ nàng thơ ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, nếu khung cửa hóa ra lại khiến cháu phân tâm, chúng ta luôn có thể chuyển nó về vị trí cũ. Chẳng có vấn đề gì với chuyện đó cả, miễn là cháu nhớ rằng ở ngoài kia có một thế giới rộng lớn, bao la.”

Sal nhìn anh. “Chú có biết chuyện người phụ nữ chưa? Ở trong bếp ấy?”

Đã có một… vụ việc xảy ra. Ở một trong những trại trẻ thằng bé từng ở. Nó bị một người phụ nữ làm trong bếp đánh vì cố lấy một quả táo. Nó trả đũa theo cách duy nhất mà nó biết. Vào tuần sau đó thì bà ta biến hình.

Linus cẩn thận trả lời. “Chú có biết.”

Sal gật đầu và lại nhìn xuống máy đánh chữ. “Cháu không cố tình làm vậy đâu.”

“Chú biết mà.”

“Cháu không… Cháu đã không biết chuyện ấy sẽ xảy ra.”

“Chú cũng biết việc ấy rồi.”

Ngực Sal nấc lên. “Từ đó cháu chưa từng làm vậy. Và cháu sẽ không bao giờ làm vậy nữa. Cháu hứa đấy.”

Linus đặt tay lên vai thằng bé và nắn bóp, giống như anh từng thấy Arthur làm. Lẽ ra anh không nên làm vậy, nhưng chỉ lần này thôi, anh không quan tâm cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH viết gì. “Chú tin cháu mà.”

Và dẫu còn run rẩy, nụ cười của Sal thật ấm áp và rạng ngời.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3