Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 12
Sau khi thăm phòng Sal, tối hôm đó có tiếng gõ vang lên ngoài cửa nhà khách. Linus cau mày và ngẩng lên khỏi bản báo cáo để nhìn đồng hồ. Đã gần mười giờ, và anh chuẩn bị đi nghỉ. Anh gần xong việc rồi, nhưng mắt anh đang lác lệch đi, và cái ngáp mới đây muốn sái cả quai hàm. Anh đã quyết định sẽ hoàn thành báo cáo vào ngày mai, rồi gửi đi vào ngày kia.
Anh đứng dậy khỏi ghế. Calliope hầu như chẳng để ý gì đến anh từ chỗ ngồi trên bậu cửa sổ. Cô ả chậm rãi chớp mắt rồi lại vùi mặt vào dưới chân.
Linus vừa xoa một tay lên khuôn mặt mệt mỏi của mình vừa đi ra cửa. Anh mừng là mình chưa thay đồ ngủ. Anh nghĩ chào đón một vị khách đến vào tối muộn mà mặc đồ ngủ là không phải phép, trừ khi vị khách này sẽ ngủ lại qua đêm.
Anh mở cửa và thấy Arthur đứng ngoài hiên, áo khoác hải quân quấn chặt quanh người. Ban đêm đang dần lạnh hơn, gió từ biển thổi vào mang theo chút buốt lạnh. Tóc Arthur rối bù trên đầu, và Linus tự hỏi chạm lên đó sẽ có cảm giác thế nào nhỉ.
“Buổi tối tốt lành,” Arthur khẽ nói.
Linus gật đầu. “Chào Arthur. Có vấn đề gì à?”
“Hoàn toàn ngược lại kìa.”
“Ồ? Có chuyện gì…”
“Anh không phiền chứ?” Arthur hỏi, gật đầu về phía ngôi nhà. “Tôi mang thứ này đến cho anh.”
Linus nheo mắt. “Vậy à? Tôi có yêu cầu cái gì đâu.”
“Tôi biết. Anh sẽ không bao giờ hỏi xin thứ gì từ tôi cả.”
Trước khi Linus kịp mở miệng hỏi lời ấy là có ý gì, Arthur đã cúi xuống cầm hộp gỗ để bên chân trên sàn hiên lên. Linus lùi lại, và Arthur bước vào nhà khách.
Linus đóng cửa lại sau lưng mình trong khi Arthur đi vào phòng khách. Người đàn ông ấy liếc xuống bản báo cáo đang nằm trên ghế, nhưng không có vẻ gì là đang cố đọc những điều viết trên đó. “Làm việc đến khuya à?”
“Phải,” Linus chậm rãi trả lời. “Thật ra là sắp xong rồi. Tôi hy vọng là anh không đến đây để hỏi tôi đang viết cái gì. Anh biết tôi không thể kể cho anh mà. Anh sẽ xem được bản báo cáo khi cuộc điều tra hoàn tất như được quy định trong…”
“Tôi không đến đây để hỏi anh về bản báo cáo.”
Lời này khiến Linus mất thăng bằng. “Không ư? Vậy thì sao anh lại tới đây?”
“Như đã nói, tôi mang đồ đến cho anh. Một món quà. Đây. Để tôi cho anh xem.” Người nọ đặt cái hộp đang cầm xuống bàn nhỏ cạnh ghế của Linus. Anh mở nắp hộp bằng những ngón tay duyên dáng.
Linus thấy mê mẩn. Anh không nhớ nổi lần cuối mình được tặng quà là khi nào. Ở chỗ làm, thiệp chúc mừng sinh nhật dành cho các nhân viên công tác xã hội được chuyền quanh mỗi năm, mỗi người đều ký tên cùng dòng chữ Chúc mừng! giả dối lên đó cho sinh nhật của bất kỳ ai vào hôm đó. Những tấm thiệp này rẻ tiền và chẳng chút cá tính, nhưng Linus nghĩ tấm lòng mới là đáng quý. Và ngoài bữa trưa Giáng Sinh do Ban Quản Lý Thượng Tầng tổ chức - mà hoàn toàn chẳng phải món quà gì - đã từ rất lâu rồi Linus chưa từng được ai tặng cho thứ gì. Mẹ anh đã qua đời lâu rồi, và ngay cả hồi xưa, bà cũng chỉ tặng anh tất hay mũ len hay những chiếc quần tây mà bà bảo rằng anh phải mặc đi cho quen vì chúng đắt lắm, và tiền không phải từ trên trời rơi xuống, thật đấy, Linus ạ.
“Cái gì vậy?” Anh hỏi, háo hức hơn mức mình đã tưởng. Anh hắng giọng. “Ý tôi muốn nói là, tôi không cần thứ gì từ anh cả.”
Arthur nhướn mày. “Không phải là vấn đề cần hay không, Linus ạ. Đó không phải mục đích của việc tặng quà. Mà là niềm vui sướng khi có ai đó đang nghĩ đến mình.”
Linus cảm thấy nóng bừng trên da. “Anh đang… nghĩ đến tôi ư?”
“Mọi lúc mọi nơi. Dù tôi không tranh công trong việc này được. Không, đây là ý của Lucy đấy.”
“Ôi trời ơi!” Linus thì thào. “Tôi không chắc liệu tôi có thích xác thú hay cái gì như vậy không nữa.”
Arthur vừa khúc khích vừa nhìn xuống cái hộp đã mở, “Vậy thì tốt rồi. Nếu anh muốn có xác thú, thì rõ ràng là tôi đang tặng quà sai cách rồi. Tôi rất sung sướng khi nói rằng đây không phải vật gì đã từng sống, dù tiếng kêu của nó có thể nghe như có sinh mệnh.”
Linus không chắc liệu mình có muốn thấy trong hộp chính xác là thứ gì không. Arthur với thân hình mảnh dẻ đang đứng chắn trước nó, và dù Linus không ngửi thấy mùi gì khó chịu, hay nghe thấy cái gì chít chít, ví dụ như một con chuột quá khổ có cặp mắt tí teo sáng quắc, anh vẫn lưỡng lự. “À thì, rồi sao. Là cái gì vậy?”
“Sao anh không lại đây mà xem?”
Linus hít một hơi thật sâu và chậm rì rì đi về phía Arthur. Anh rủa thầm vì người đàn ông này cao đến vậy. Anh sẽ phải đứng ngay cạnh người ta để thấy được trong hộp là thứ gì.
Anh tự quở trách mình. Anh nghĩ Arthur sẽ chẳng cho phép Lucy làm việc gì khiếm nhã đâu. Vào bữa tối, Lucy đã cười toe toét với Linus từ đầu đến cuối, và dù nụ cười vẫn có nét gian tà như mọi khi trong đó nhưng Linus không cho đó là hung ác. Dù phải công nhận, Lucy chính là đứa con của Quỷ và có khi đã thành thạo việc giả vờ ngây thơ từ lâu rồi.
Anh hy vọng là thứ này sẽ không phát nổ. Anh không thích mấy vụ đì đùng, nhất là khi anh phải đứng gần đó đến vậy.
Nhưng đó không phải bom. Không phải chuột hay xác chết thối rữa.
Đó là một chiếc máy hát cổ điển. Chạy ngang mặt trong nắp hộp là cái tên ZENITH, chữ Z có hình như tia chớp.
Linus thảng thốt. “Nhìn nó mà xem! Thật tuyệt vời. Thế nào nhỉ, tôi nghĩ tôi chưa từng thấy cái máy nào như thế này từ rất lâu rồi, và ngay cả hồi xưa, thì cũng chỉ nhìn qua cửa kính trưng bày mà thôi. Chiếc Victrola tôi có ở nhà bị to quá. Và tôi biết âm thanh chạy từ những máy hát nhỏ cầm tay này không được hoành tráng, nhưng tôi đã luôn muốn biết sẽ thế nào khi mang âm nhạc theo mình đến bất kỳ đâu. Có thể là đi picnic hay gì đó chẳng hạn.” Anh đang lải nhải, và anh không biết tại sao nữa. Anh ngậm miệng lại cùng tiếng hàm răng khép cạch vào nhau.
Arthur mỉm cười. “Lucy đã hy vọng là anh sẽ phản ứng như vừa rồi. Thằng bé muốn ở đây để tận tay trao nó cho anh, nhưng lại quyết định rằng tôi tặng quà là tốt nhất.”
Linus lắc đầu. “Thật chu đáo. Xin hãy nói với cháu là tôi cảm ơn nó vì… Không. Tôi có thể tự nói với thằng bé vào ngày mai. Ngay đầu ngày. Vào bữa sáng!” Rồi một suy nghĩ khác hiện ra trong đầu anh. “Ôi! Nhưng tôi không có cái đĩa than nào để bật cả. Tôi còn chẳng định mang cái nào từ nhà đi. Và kể cả có định làm vậy, có lẽ tôi cũng sẽ không dám mạo hiểm đâu. Chúng mong manh lắm, và tôi không muốn thấy chúng vỡ tan tành.”
“À,” Arthur nói. “Lucy cũng đã nghĩ tới chuyện ấy rồi.” Anh ấn ngón cái lên một cái lẫy ở mặt trong nắp hộp, và một ngăn nhỏ hé ra. Bên trong là một cái vỏ trắng trống trơn chứa chiếc đĩa than màu đen.
“Thật kỳ diệu làm sao,” Linus nói, tay anh ngứa ngáy muốn vươn ra chạm vào cái hộp. “Thứ này từ đâu ra vậy? Trông nó mới cứng ấy.”
“Tôi đảm bảo với anh là không hề. Thật ra là rất cũ kỹ. Tôi tin là anh đã thấy rất nhiều thùng đồ trên gác mái khi anh đi xem tổ của Theodore.”
Đúng vậy. Những cái thùng xếp chồng lên nhau trong góc và trong tối. Anh đã tò mò khi thấy chúng, nhưng đoán chúng chỉ là minh chứng cho cuộc đời của một căn nhà lâu đời. Đồ đạc thường gia tăng không ngừng khi chúng ta ít ngờ tới nhất. “Tôi thấy rồi.”
Arthur gật đầu. “Cái máy đã nằm rất lâu trong một cái thùng ở gần tuốt phía sau. Chúng tôi không cần đến nó, vì đã có ba máy hát đang dùng trong nhà. Lucy tìm ra nó khi đi lục đồ, như nó thường hay làm. Cái hộp rất bụi bặm và cần phải đánh bóng lại, nhưng cháu nó làm rất kỹ. Sal đã giúp nó.” Anh nhìn xuống món quà kia. “Thành thật mà nói, lẽ ra chúng tôi nên thử máy trước khi tôi mang sang đây. Tôi còn không dám chắc liệu thứ cũ kỹ này có chạy hay không nữa.”
“Còn chiếc đĩa than?”
Arthur nhún vai. “Lucy không cho tôi xem đó là đĩa gì. Thằng bé nói rằng đây là một điều bất ngờ, nhưng nó nghĩ là anh sẽ thích.”
Điều này khiến Linus có hơi căng thẳng, nhưng đỡ hơn so với trường hợp chuyện này diễn ra khi anh vừa mới lên đảo. “Chà, tôi nghĩ là chúng ta nên xem thử xem liệu thằng bé có đúng không nhỉ.”
Arthur lùi lại. “Anh muốn thực hiện niềm vinh dự này chứ?”
“Dĩ nhiên rồi.” Anh thế chỗ Arthur và lấy túi đĩa than ra khỏi ngăn. Anh cẩn thận trượt chiếc đĩa ra. Mặt đĩa cũng trống trơn, không có hình ảnh gì ở khung trung tâm. Anh để vỏ đĩa sang một bên rồi đặt đĩa lên mâm xoay, trục chồng đĩa nho nhỏ nhô lên ở chính giữa. Anh bật công tắc ở bên hông máy hát và vui sướng khi đĩa bắt đầu xoay, tiếng lách tách khẽ vang lên. “Tôi nghĩ chúng ta vào việc rồi đấy,” anh thì thầm.
“Trông có vẻ là vậy đấy,” Arthur trả lời.
Anh hạ kim xuống. Loa lách tách kêu, to hơn một chút. Và rồi…
Một người đàn ông bắt đầu hát lên, hát rằng em yêu, em khiến tôi bay lên, tôi biết em khiến tôi bay lên tận mây xanh.
“Là Sam Cooke,” Linus thì thầm. Anh buông thõng tay xuống hai bên người. “Ôi! Ôi! Thật tuyệt vời.”
Anh ngẩng lên và bắt gặp Arthur đang nhìn mình ngay lúc Sam hát rằng ông đã nghĩ đây chỉ là trận cảm nắng, nhưng cảm xúc ấy đã dai dẳng quá lâu.
Linus lui bước ra sau.
Arthur mỉm cười. “Chúng ta ngồi chứ?”
Linus gật đầu, đột nhiên không tin tưởng bản thân cho lắm, một chuyện chẳng mới lạ gì. Căn phòng đột nhiên có cảm giác thật ngột ngạt, và anh thấy choáng váng. Có lẽ anh chỉ mệt mà thôi. Anh đã trải qua một ngày rất dài rồi.
Anh cầm báo cáo lên khỏi ghế rồi ngồi xuống. Anh đặt tập giấy lên bàn cạnh máy hát trong khi Sam tiếp tục ngân nga. Arthur ngồi trên cái ghế còn lại. Linus để ý thấy chân họ gần nhau đến nỗi, nếu anh duỗi chân ra một chút, mũi giày của họ sẽ chạm vào nhau.
“Tôi đã nghe được một chuyện vô cùng kỳ lạ tối nay,” Arthur nói.
Linus ngẩng lên nhìn người nọ, thầm mong rằng Arthur không đọc được suy nghĩ hiện ra trên mặt mình. “Là chuyện gì vậy?”
“Tôi đang chúc lũ trẻ ngủ ngon. Tôi bắt đầu theo thứ tự, anh biết đấy. Từ đầu này hành lang tới đầu kia. Lucy luôn là đứa cuối cùng, vì phòng cháu nó ở trong phòng tôi. Nhưng Sal là đứa gần cuối. Và trước khi tôi gõ cửa phòng thằng bé, tôi nghe thấy một số âm thanh mới lạ, sung sướng mà tôi không hề ngờ tới.”
Linus cựa quậy trên ghế. “Tôi tin như vậy là bình thường mà. Sau cùng, thằng bé cũng là một cậu trai thiếu niên. Chúng nó thích… khám phá. Miễn là anh nhắc nhở nó rằng…”
“Ôi trời ơi! Không,” Arthur nói, cố nén nụ cười. “Không, không phải chuyện đó đâu.”
Mắt Linus trợn trừng. “Ôi trời ạ! Đấy không phải… Ý tôi không phải là… Trời đất ơi! Tôi bị làm sao thế này?”
Arthur che giấu tiếng cười rõ rành rành bằng cách húng hắng ho. “Tôi rất vui khi hay biết rằng tư tưởng của anh cởi mở đến vậy.”
Linus chắc chắn rằng mặt mình đang đỏ đến khủng khiếp. “Tôi không thể tin được là mình vừa nói như vậy.”
“Thành thật mà nói, tôi cũng không. Ai mà biết được Linus Baker lại có thể… là chính mình đến vậy.”
“Phải, chà, tôi sẽ rất cảm kích nếu chuyện này không bao giờ truyền ra khỏi căn nhà này. Tới tai Zoe. Và đặc biệt là tới tai lũ trẻ. Sal, dĩ nhiên, là đủ lớn để hiểu những việc kia, nhưng tôi nghĩ chuyện này sẽ phá hủy sự trong sáng của Chauncey mất.” Anh cau mày. “Dù tôi không chắc làm sao thằng bé có thể làm… Liệu nó thậm chí có… Ôi không! Không, không, không.”
Arthur khịt mũi. “Lucy nhỏ tuổi hơn Chauncey đấy. Anh không nghĩ chúng ta cũng nên lo lắng cho sự trong sáng của nó à?”
Linus đảo mắt. “Hai ta đều biết việc ấy không thành vấn đề với thằng bé mà.”
“Đúng quá. Nhưng, như tôi tin là giờ anh đã biết, tôi đang không nói về… chuyện kia.” Hai chữ cuối cùng này thốt lên trầm thấp đến mê say, như thể chúng quấn quýt quanh răng lưỡi người này trước khi tuôn ra khỏi môi anh. Linus lập tức đổ mồ hôi. “Tôi đang nói về tiếng lách cách gõ phím của máy đánh chữ.”
Linus chớp mắt. “Ồ! Cái đấy… thì hợp lý, giờ nghĩ lại thì tôi mới thấy.”
“Hợp lý quá đi chứ. Thật là ngạc nhiên, nhưng không phải vì âm thanh ấy xuất hiện, mà vì nó to hơn bình thường. Hầu hết mọi đêm, tiếng gõ phím có hơi bít bùng vì cháu nó viết lách trong tủ quần áo, đóng cửa lại.”
Giờ thì Linus đã hiểu. “Tôi không… Nếu có đi quá giới hạn, thì tôi xin lỗi.”
Arthur giơ một tay lên và lắc đầu. “Không hề. Chuyện ấy… còn hơn cả những gì tôi có thể trông mong. Tôi muốn nghĩ rằng như vậy có nghĩa là vết thương của thằng bé đang lành lại. Và anh đã góp phần chữa lành cho nó.”
Linus nhìn xuống tay mình. “Ồ, tôi nghĩ không phải vậy đâu. Thằng bé chỉ cần…”
“Cháu nó cần nghe ai đó nói ra những lời kia,” Arthur nói. “Và tôi không tưởng tượng được còn ai tốt hơn để nói với nó điều ấy.”
Linus ngẩng phắt dậy. “Nói vậy là hoàn toàn không đúng. Lẽ ra anh phải là người đi nói với nó.” Anh nhăn mặt. “Nói vậy không phải là quở trách anh đâu. Ý tôi là tôi không có tư cách đề xuất những việc như vậy.”
Arthur nghiêng đầu. “Và tại sao lại không?”
“Vì tôi không… Tôi không nên tương tác với chúng. Ít ra là không ở mức riêng tư như vậy.”
“Việc ấy đi ngược lại cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH của anh.”
Linus gật đầu trong khi Sam Cooke nhường chỗ cho The Penguins, hát về Thiên Thần Hạ Giới của họ. Khúc ca này khiến tim anh lỡ nhịp trong ngực. “Đúng vậy.”
“Theo anh nghĩ thì tại sao lại như vậy?”
“Đó là những gì người ta yêu cầu ở một người làm chức vụ như của tôi. Vì làm vậy sẽ giúp tôi luôn luôn công bằng. Không thiên vị.”
Arthur lắc đầu. “Lũ trẻ này không phải thú vật. Không phải là anh đang cầm ống nhòm ở đồng cỏ Châu Phi, theo dõi chúng từ đằng xa. Làm sao anh đánh giá được lũ trẻ nếu anh thậm chí còn không dành thời gian làm quen với chúng? Chúng là con người, Linus ạ. Dù vài đứa có vẻ ngoài khác biệt.”
Linus xù lông. “Tôi chưa bao giờ nói như vậy.”
Arthur thở dài. “Cái đó… Tôi xin lỗi. Như vậy là… đơn giản hóa vấn đề quá mức. Tôi đã phải đối mặt với định kiến suốt một thời gian dài. Tôi phải tự nhắc nhở mình rằng không phải ai cũng nghĩ như vậy. Ý tôi là anh đã làm một việc rất đặc biệt cho một cậu bé từng chỉ quen với những lời chế nhạo khi tới với chúng tôi. Thằng bé nghe lời anh, Linus ạ. Nó học hỏi từ anh, và đó là một bài học ta cần phải dạy nó. Trong vấn đề này thì tôi không nghĩ nó có thể cầu mong được người thầy nào dạy giỏi hơn anh đâu.”
“Những việc ấy tôi đều không biết,” Linus cứng nhắc nói. “Tôi chỉ làm điều tôi cho là đúng mà thôi. Tôi chỉ có thể tưởng tượng ra những gì thằng bé đã phải trải qua, và cả anh nữa, ở cương vị hiệu trưởng của ngôi trường này. Nhất là với những đứa trẻ đặc biệt như vậy.”
“Phải,” Arthur nói. Có gì đó trong giọng người đàn ông này mà Linus không xác định được. “Ở cương vị hiệu trưởng của trường này, dĩ nhiên là vậy. Đó là lý do tại sao tôi… Anh nói thế nào ngay sau khi đến đây ấy nhỉ? Không cho chúng rời đảo.”
“Lẽ ra tôi có thể ăn nói tử tế hơn,” Linus thú nhận. “Đặc biệt là nếu biết trước những gì tôi đang làm hiện nay.”
“Không, tôi nghĩ là không thể. Lời anh nói đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề một cách vô cùng gọn ghẽ. Tôi thích nói thẳng hơn là làm cho người ta hoang mang. Có nhiều điều bị lạc mất trong quá trình truyền tải. Đó là lý do tại sao khi tôi nói rằng tôi tin là anh đã giúp Sal, ý tôi đúng từng chữ như vậy. Tôi đã không hỏi thằng bé tại sao nó chuyển chỗ đặt bàn. Tôi chỉ hỏi có ai giúp nó không. Thằng bé bảo là có. Và rằng đó là anh. Sau đó thì không khó để điền vào phần còn thiếu.”
“Đó đơn thuần chỉ là một gợi ý mà thôi,” Linus nói, cả người bứt rứt vì được khen ngợi. “Tôi bảo thằng bé rằng dù muốn cảm thấy bé nhỏ cũng không sao, nhưng nó chớ nên quên rằng nó có thể to lớn khi nó muốn. Tôi hy vọng rằng lời ấy không quá mức không phù hợp.”
“Tôi không nghĩ vậy đâu. Tôi nghĩ anh đã nói đúng lời cần nói vào đúng thời điểm rồi. Như tôi đã nói lúc nãy, thằng bé đang dần chữa lành vết thương. Và cùng với việc chữa lành ấy niềm tin sẽ đến, dù người ta phải giành được sự tin tưởng của nó. Tôi nghĩ anh đang trên đà rồi đấy.”
“Vậy thì tôi thấy thật vinh hạnh cho mình quá.”
“Phải không? Nghe có vẻ không đúng mực lắm đâu. Tôi tin là LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH sẽ…”
Linus cười khẩy. “Được rồi, được rồi. Tôi nghe thấy anh nói gì rồi.”
Arthur mỉm cười. “Thế ư? Vậy thì tôi thích lắm. Cảm ơn anh nhé.”
“Vì?”
Người nọ nhún vai. “Vì bất kỳ điều gì anh đang làm ấy.”
“Như vậy… mơ hồ quá. Sau tất cả những gì anh biết, tôi có thể đang viết trong báo cáo là nơi này không phù hợp với trẻ con, và anh cũng vậy.”
“Đó là những gì anh đang viết sao?”
Linus lưỡng lự. “Không. Nhưng nói vậy không có nghĩa là tôi vẫn không có mối quan ngại nào, hay là đã quyết định.”
“Dĩ nhiên là không rồi.”
“Nhưng việc ấy quả thực khiến tôi nghĩ đến một vấn đề cụ thể nọ. Nếu anh vẫn thích tôi thẳng thắn.”
Arthur đan tay lại trên đùi. “Thật ra là tôi rất trân trọng điều ấy.”
“Anh còn không biết tôi sắp sửa nói gì.”
“Đúng vậy. Tôi không biết. Nhưng anh biết, và tôi nghĩ anh sẽ không lên tiếng mà chưa suy nghĩ kỹ về chuyện đó. Chúng ta hãy nghe xem nào.”
Linus liếc cái đĩa than khi nó chuyển sang Buddy Holly, hát rằng tại sao em và tôi mãi mãi và mãi mãi sẽ biết những cách thức của tình yêu đích thực. Việc đây lại là một bài tình ca khác hầu như chẳng xuất hiện trong đầu Linus. Anh đang chú ý hơn đến việc tất cả những ca sĩ khác nhau này đều tụ lại trong cùng một đĩa nhạc. Anh chưa bao giờ nghe nói có tuyển tập nào như vậy trước kia.
“Tôi nghĩ chúng ta nên dẫn lũ trẻ đi dã ngoại ra ngoài đảo.”
Buddy Holly ngân nga giữa không gian im lặng như tờ.
Thế rồi, “Chúng ta ư?”
Linus ngại ngùng nhún vai. “Anh và Zoe và lũ trẻ ấy. Tôi cũng có thể đi theo, để trông chừng mọi thứ. Tôi nghĩ như vậy sẽ tốt cho chúng. Chỉ là để chúng không bị…” anh liếc bản báo cáo. “Cô lập nữa.”
“Và chúng ta sẽ dẫn chúng đi đâu đây?”
Linus quyết định giả vờ đối đáp theo, dù Arthur biết rõ ngôi làng hơn anh. “Lần trước vào làng tôi đã thấy một tiệm kem. Có lẽ đã đến lúc thiết đãi bọn trẻ. Hoặc có rạp chiếu phim, dù tôi không biết liệu Sal có thích nơi ấy không khi thính giác của thằng bé nhạy cảm đến vậy. Vì ở gần biển đến mức này nên tôi tin là ngôi làng là một địa điểm du lịch. Nhưng vì bây giờ không phải mùa, sẽ không có nhiều người ở quanh đó đâu. Có lẽ chúng ta có thể dẫn chúng đi bảo tàng, nếu ở đó có bảo tàng. Cho chúng phổ cập chút văn hóa.”
Arthur nhìn anh chằm chằm.
Linus không thích việc ấy. “Sao vậy?”
“Văn hóa à,” người kia lặp lại.
“Chỉ là một ý tưởng mà thôi.” Anh lại đang cảm thấy đầy phòng bị. Anh thích bảo tàng. Anh cố gắng đi bảo tàng lịch sử ở gần nhà ít nhất vài lần một năm vào các ngày cuối tuần. Anh luôn tìm thấy điều gì đó mới mẻ trong những thứ cũ kỹ như vậy.
Lần đầu tiên kể từ khi anh quen biết Arthur, người đàn ông này trông có vẻ ngần ngại. “Tôi không muốn bất kỳ chuyện gì xảy ra với lũ trẻ.”
“Tôi cũng không muốn,” Linus nói. “Và nếu anh cho phép, tôi cũng sẽ có mặt. Tôi có thể vô cùng bao bọc khi cần phải vậy.” Anh vỗ vỗ bụng. “Thân hình tôi cũng kha khá để mà cố hạ gục đấy.”
Ánh mắt Arthur lần xuống ngực Linus, quan sát những ngón tay anh. Linus thả tay về lại trên đùi.
Arthur lại ngẩng lên nhìn anh. “Tôi đã biết chuyện cái bè.”
Linus chớp mắt. “Anh… biết à? Làm sao anh biết? Zoe nói…”
“Việc ấy chẳng quan trọng gì. Tôi rất cảm kích thông điệp đáp trả của anh. Sâu sắc hơn những gì anh có thể biết nhiều. Tôi sẽ nói chuyện với lũ trẻ. Có lẽ ngày thứ Bảy tuần sau nữa. Đó sẽ là thứ bảy trọn vẹn cuối cùng anh trải qua ở đây. Sau đó sẽ không còn thời gian nữa. Anh sẽ rời đi.”
Phải. Sẽ không còn nữa. Thời gian không bao giờ ngừng lại, dù ta thường có cảm giác nó co rồi lại dãn. “Tôi cũng nghĩ vậy.”
Arthur đứng dậy. “Cảm ơn anh.”
Linus cũng đứng theo. “Anh cứ hay nói vậy, mà tôi không biết liệu mình có xứng không nữa.”
Giờ mũi giày của họ chạm nhau thật. Đầu gối họ cọ lên nhau. Vậy nhưng, Linus không lùi lại. Arthur cũng vậy.
“Tôi biết anh không tin là mình xứng đáng,” Arthur khẽ khàng nói. “Nhưng tôi chẳng bao giờ nói điều gì không thật lòng cả. Đời này quá ngắn ngủi để làm vậy. Anh có thích khiêu vũ không?”
Linus vừa nặng nề thở ra vừa ngẩng mặt nhìn Arthur. The Moonglows bắt đầu hát về mười điều răn của ái tình.
“Tôi không… biết. Nói thật thì, tôi thấy có khi tôi có hai bàn chân trái không chừng.”
“Tôi thật sự nghĩ không phải vậy đâu.” Arthur gật đầu. Anh đưa tay lên như thể sắp sửa chạm lên sườn mặt Linus, nhưng lại co cụm thành nắm đấm và lui bước. Anh mỉm cười với đôi môi mím chặt. “Chúc ngủ ngon, Linus.”
Rồi người nọ biến mất như thể chưa từng xuất hiện nơi đây. Linus hầu như chẳng nghe thấy tiếng cửa đóng lại sau lưng mình.
Anh đứng trong ngôi nhà trống trải trong khi đĩa than chậm rãi xoay vòng, hát lên những khúc hát về ái tình và mong mỏi.
Ngay khi anh chuẩn bị quay đi tắt máy, một quầng sáng vàng cam chói lòa lóe lên ngoài cửa sổ.
Anh chạy vội tới, nhìn ra màn đêm.
Anh có thể thấy hình bóng của khu rừng. Của nhà chính. Của khu vườn.
Nhưng không còn gì khác.
Anh quyết định là mình đã mệt rồi. Là mắt mình đang lừa mình đấy thôi.
Khi tắt máy hát và bắt đầu chuẩn bị đi ngủ, anh không hề phát hiện ra mình đã quên hỏi về cửa căn hầm kia.
Hai ngày sau khi Zoe lái xe đưa họ vào làng anh vẫn còn ngẩn ngơ. Hôm nay Merle không nói nhiều cho lắm và Linus biết ơn ông ta vì điều ấy. Anh không nghĩ mình có thể đối phó với những lời xét nét đầy ác ý của lão lái phà này.
Nhưng như vậy cũng khiến Linus trở nên lạc lối trong suy tư của chính mình. Chính xác thì anh đang suy nghĩ chuyện gì, anh cũng không chắc nữa. Tâm trí anh có cảm giác như đang xoay vòng, bị cuốn vào trong cột nước phun trào từ mặt biển.
“Cậu im lặng thật đấy.”
Anh khẽ giật mình, quay sang nhìn Zoe. Hoa cài trên tóc bà đều mang màu hoàng kim. Bà mặc một cái váy hai dây màu trắng, dù vẫn đi chân đất. “Xin lỗi. Tôi đang… nghĩ.”
Bà khịt mũi. “Về?”
“Nói thật với bà, tôi cũng không chắc nữa.”
“Sao mà tôi lại không tin được lời ấy nhỉ?”
Anh lườm bà. “Tin hay không tin không phải việc của bà. Chuyện đơn giản có vậy mà thôi.”
Bà khẽ càu nhàu. “Đàn ông là một lũ ngu xuẩn.”
“Này!”
“Thật mà. Tôi không biết tại sao nữa. Cứng đầu, ngoan cố, và ngu ngốc. Nếu không khiến người ta phải sốt ruột thì như vậy cũng dễ thương phết đấy.”
“Tôi hoàn toàn không hiểu bà đang nói gì.”
“Chà! Lời này thì tôi tin. Thật tiếc là vậy.”
“Thôi, lái xe đi Zoe,” anh lầm bầm khi cầu phà hạ xuống đằng trước họ. Merle sưng sỉa vẫy tay tạm biệt họ. Ông ta còn không hò hét giục họ mau trở lại.
Người đàn ông ở bưu điện vẫn thô lỗ như tuần trước. Ông ta càu nhàu khi Linus đưa sang bản báo cáo niêm phong trong phong bì. Linus trả tiền cước và hỏi xem có thư từ gì cho anh không.
“Có đấy,” ông ta lầm bầm. “Đã ở đây được vài ngày rồi. Nếu không ở mãi ngoài đảo kia có khi anh đã nhận được thư sớm hơn rồi.”
“Có khi nếu ông giao thư ra đảo vì tôi tin là ông giao đến mọi nơi khác, chúng ta sẽ không phải bàn đến chuyện này,” Linus gắt gỏng.
Ông ta khẽ lầm bầm, nhưng đưa ra một phong bì mỏng ghi tên Linus.
Linus còn không thèm cảm ơn ông ta, đột nhiên cảm thấy thù hằn một cách táo bạo. Chà, anh còn không nói tạm biệt khi rời bưu điện. Việc ấy thật là xấu xa.
“Như thế sẽ cho ông ta biết thế nào là lễ độ,” anh tự nhủ khi bước ra vỉa hè. Suýt nữa thì anh đã xoay người trở vào bên trong để xin lỗi, nhưng bằng cách nào đó đã ngăn được mình lại. Thay vào đó, anh cẩn thận xé mở phong bì, lôi tờ giấy duy nhất ra.
SỞ PHỤ TRÁCH THANH THIẾU NIÊN NHIỆM MÀU
LỜI NHẮN TỪ BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG
Gửi anh Baker:
Cảm ơn anh vì bản báo cáo đầu tiên. Nó đã khai sáng rất nhiều cho chúng tôi về cách vận hành của trại trẻ mồ côi Marsyas. Như mọi khi, anh đã rất kỹ càng với những đối tượng mình đang điều tra.
Dẫu vậy, chúng tôi phải cảnh báo rằng anh không được bày tỏ ý kiến cá nhân. Dù chúng tôi chắc chắn thấy rõ được sự bực bội của anh trước việc mà anh cho là thiếu hụt thông tin, chúng tôi xin nhắc nhở anh rằng ở đây chúng ta không phải đang đối mặt với những đứa trẻ thông thường. Và một người làm chức vụ như của anh không cần phải nghi ngờ những quyết định mà Ban Quản Lý Thượng Tầng đưa ra.
Thêm vào đó, chúng tôi quả thật có chút quan ngại về Zoe Chapelwhite. Dù chúng tôi biết tới sự hiện diện của bà ta ở trên đảo (suỵt suỵt, anh Baker ạ) nhưng chúng tôi không biết bà ta khắng khít đan xen vào cuộc sống của bọn trẻ đến vậy. Bà ta có mối quan hệ lãng mạn nào với anh Parnassus không? Bà ta có dành thời gian ở một mình với lũ trẻ không? Dù cô bé Tinh linh Phee chắc chắn có thể học hỏi từ một người lớn cùng loài nhưng chúng tôi sẽ buộc phải cảnh cáo nếu bà Chapelwhite làm bất cứ việc gì ngoài việc ấy ra. Bà ta chưa ghi danh. Tuy hiện tại bà ta có vẻ như không nằm trong tầm kiểm soát của chúng tôi nhưng trại trẻ mồ côi thì có, và ngay cả một hành động sai lầm cũng có thể trở thành thảm họa. Nếu có gì không hay xảy ra trong trường, chuyện ấy phải được ghi chép lại. Vì sự an toàn của lũ trẻ, dĩ nhiên là vậy.
Đồng thời, chúng tôi có một đề nghị: báo cáo của anh bao gồm rất nhiều chi tiết về lũ trẻ ở trường. Tuy vậy, khi tới lượt anh Parnassus, chúng tôi thấy báo cáo viết khá sơ sài. Nếu báo cáo thứ hai của anh không bao gồm nhiều thông tin về hiệu trưởng ngôi trường, chúng tôi yêu cầu rằng báo cáo thứ ba của anh cung cấp nhiều thông tin hơn trong khi vẫn hoàn toàn khách quan. Phải cảnh giác, anh Baker ạ. Arthur Parnassus có mối liên hệ lâu năm với trường Marsyas, và anh ta biết rõ hòn đảo như lòng bàn tay. Hãy đề cao cảnh giác nhé. Ngay cả những con người duyên dáng nhất cũng có bí mật đấy.
Chúng tôi mong chờ những bản báo cáo tiếp theo của anh.
Trân trọng,
CHARLES WERNER
BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG
Linus nhìn chằm chằm xuống lá thư dưới nắng thu suốt một lúc lâu.
Thật ra, lâu đến mức sau đó anh giật bắn mình vì tiếng còi xe vang lên. Anh ngẩng lên và thấy Zoe đỗ xe trước mặt mình, nheo mắt nhìn qua kính trước. Thực phẩm đã xếp thành túi ở ghế sau. Bà đã mua đồ xong rồi quay lại, và Linus chưa hề di chuyển khỏi mặt tiền bưu điện.
“Mọi chuyện ổn chứ?” bà hỏi khi anh tới gần.
“Ổn cả,” anh nói. Trước khi anh mở cửa, anh gấp tờ giấy nhắn và nhét nó lại vào phong bì. “Mọi thứ đều ổn.” Anh leo lên xe. Thật ra, ổn đến nỗi anh không thể nhìn bà. Thay vào đó, anh nhìn thẳng về phía trước.
“Trông không có vẻ gì là ổn hết.”
“Không có gì đáng ngại đâu,” anh nói, giọng tươi tắn quá mức. “Chúng ta về nhà thôi, nhỉ?”
“Về nhà thôi,” bà khẽ tán thành. Bà cho xe rời khỏi vỉa hè, và họ bỏ ngôi làng lại sau lưng.
Đột nhiên, anh nói, “Arthur ấy mà.”
“Cậu ấy thì sao?”
“Anh ấy… khác biệt.”
Anh cảm thấy Zoe liếc nhìn mình, nhưng vẫn kiên quyết nhìn về phía trước. “Thế à?”
“Tôi nghĩ vậy. Và tôi nghĩ là bà biết vậy.”
“Cậu ấy không giống bất kỳ ai khác,” bà đồng ý với anh.
“Bà biết anh ấy lâu chưa?”
“Đủ lâu.”
“Cái đám Tinh linh này,” anh lầm bầm. Rồi, “Anh ấy biết chuyện cái bè rồi.”
Qua khóe mắt, anh thấy tay bà siết chặt trên vô lăng. “Dĩ nhiên rồi.”
“Giọng bà có vẻ không ngạc nhiên lắm nhỉ?”
“Không,” bà chậm rãi nói. “Tôi nghĩ là mình không ngạc nhiên đâu.”
Anh đợi bà nói thêm.
Bà không nói gì.
Linus siết chặt cái phong bì trong tay. “Thời gian biểu hôm nay có gì?” anh hỏi, cố gắng xua tan bầu không khí căng thẳng đặc quánh trong xe. “Một chuyến phiêu lưu khác giống thứ bảy tuần trước ư? Tôi nghĩ là mọi người có thể thuyết phục tôi mặc bộ đồ kia lần nữa đấy. Dù đó không phải bộ quần áo ưa thích của tôi nhưng tôi không ghét nó nhiều như đã tưởng.”
“Không,” Zoe nói, tóc phấp phới trong gió. “Hôm nay là ngày thứ bảy thứ ba trong tháng.”
“Tức là?”
Zoe cười toe toét với anh, dù nụ cười của bà không rạng rỡ như thường thấy. “Tức là một buổi picnic trong vườn.”
Linus chớp mắt. “Ồ, việc ấy nghe không…”
“Hôm nay đến lượt Chauncey chọn thực đơn. Thằng bé thích cá sống. Nó đã có vài công thức thử nghiệm để làm rồi.”
Linus thở dài. “Dĩ nhiên là vậy rồi.” Nhưng anh phát hiện ra mình đang cố kìm nén một nụ cười, và một khi họ đã quay lại trên phà đi về phía đảo, ngay cả Merle cũng không khiến tinh thần anh giảm sút. Trong đầu anh còn chẳng có lá thư của Ban Quản Lý Thượng Tầng. Anh hy vọng rằng sẽ không có món cá nóc. Anh nghe nói là loài này có độc.