Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 13
Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu
Báo cáo #3 về Trại trẻ mồ côi Marsyas
Linus Baker, nhân viên công tác xã hội BY78941
Tôi xin trang trọng thề rằng nội dung của bản báo cáo này là chính xác và đúng với sự thực. Theo chủ trương của DICOMY, tôi hiểu rằng bất kì sự sai lệch nào bị phát hiện có thể dẫn đến việc bị khiển trách và đuổi việc
Bản báo cáo này sẽ bao gồm những quan sát của tôi vào tuần thứ ba ở trên đảo.
Khi nghĩ về nội dung của bản báo cáo trước, tôi đã đề cập một vấn đề cụ thể với anh Parnassus, đó là: việc lũ trẻ trên đảo Marsyas bị cô lập. Tôi hiểu sự do dự của anh ta, như tôi đã chỉ ra trong báo cáo #2, ngôi làng mang bầu không khí đầy định kiến đến kỳ lạ. Và dù định kiến nơi đây quả thật có vẻ như sâu đậm hơn, ví dụ như, trong thành phố, tôi cho rằng đó chỉ là vì vùng này nằm gần trại trẻ mồ côi và hòn đảo.
Tôi cố gắng đặt mình vào vị trí của dân làng để xem xét. Họ sống gần một ngôi nhà cũ kỹ nằm trên một hòn đảo nơi những thanh thiếu niên nhiệm màu sinh sống. Nhưng vĩ lũ trẻ phải tránh xa ngôi làng, việc ấy làm cho tin đồn lan tràn. Dù có vài đứa trong số bọn trẻ quả thật là đặc biệt, như vậy không có nghĩa là chúng ta không nên cho phép chúng vào làng bất cứ khi nào chúng muốn.
Anh Parnassus có vẻ miễn cưỡng, dù anh ta đã hứa sẽ suy nghĩ về chuyện ấy. Tôi thấy sự gắn kết mà anh ta đã bồi đắp với bọn trẻ mới thật thú vị làm sao. Chúng vô cùng quan tâm tới anh ta, và tôi tin rằng chúng coi người này như bậc cha chú. Vì bản thân chưa từng làm hiệu trưởng của trại trẻ mồ côi nào nên tôi không xác nhận được thứ năng lực một người phải có để quản lý những đứa trẻ như vậy. Dù rõ ràng là khác thường nhưng tôi nghĩ cách quản lý này hợp với chúng.
Dẫu vậy, nó cũng có khả năng gây khó khăn cho lũ trẻ. Vì một ngày nào đó chúng sẽ phải rời đảo, không phải lúc nào chúng cũng có thể dựa dẫm vào anh Parnassus. Trong những lần làm việc trước đây với các hiệu trưởng của các trại trẻ khác, tôi đã chứng kiến mọi thái độ từ thờ ơ nhạt nhòa tới độc ác trắng trợn. Dù có thể tuân thủ cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH nhưng tôi nghĩ chúng ta nên cho rằng những điều ấy là các chỉ dẫn chứ không phải một bộ luật thật sự. Và ngay cả vậy, những chỉ dẫn ấy được đề ra từ nhiều thập kỷ trước, và chưa bao giờ được cập nhật. Làm sao chúng ta có thể áp dụng một thứ gì đó chưa bao giờ được chỉnh sửa theo thời thế?
Các ngài yêu cầu tôi bổ sung chi tiết về anh Parnassus. Đây là những điều tôi biết được:
Phee là một Tinh linh giữ rừng, đôi khi được Zoe Chapelwhite kèm cặp. Và tôi tin là nhờ sự dạy bảo này, cô bé đã có khả năng kiểm soát vững vàng hơn, có lẽ là tốt hơn bất kỳ đứa trẻ Tinh linh nào tôi từng gặp, dù có thể là số đó không nhiều nhặn gì. Và dù cần chút thời gian, cô bé có thể khiến cây cối và hoa cỏ mọc lên, không giống với bất kỳ năng lực nào tôi từng thấy trước kia. Tôi tin rằng trong việc này bà Chapelwhite đã giúp đỡ cháu.
Theodore là một Wyvern, đúng vậy, và khi chúng ta nghĩ về những sinh vật như cậu bé theo lối thường nghĩ, dù biết rằng cháu là một sinh vật hiếm có, chúng ta (phải, chúng ta) thường nghĩ về họ như thú vật không hơn. Tôi có thể đảm bảo với Ban Quản Lý Thượng Tầng rằng sự thật không phải như vậy. Theodore có khả năng suy nghĩ và có những cảm xúc phức tạp như bất kỳ con người nào. Cậu bé rất thông minh và tháo vát. Hôm qua, sau khi tôi hồi phục lại sau đợt ngộ độc thực phẩm do ăn phải cá sống, cháu một mình đến nhà khách nơi tôi đang ở và hỏi tôi liệu nó có thể khoe với tôi một góc kho tàng của cháu không. Hãy lưu ý rằng tôi dùng từ hỏi. Vì cậu bé có sử dụng ngôn ngữ, dù đó không phải thứ ngôn ngữ chúng ta quen dùng. Và ngay cả trong khoảng thời gian ngắn ngủi của tôi ở đây, tôi đã có thể phân biệt ngữ điệu trong những tiếng chiếp chiếp của cháu.
Talia là một đứa trẻ khá cáu kỉnh, nhưng tôi cho rằng đó là do cô bé là Thần vườn. Ít ra thì ban đầu là vậy, vì đó là những gì tôi được dạy về giống loài của cháu. Tôi phát hiện ra nhận thức của chúng ta chịu ảnh hưởng của những gì chúng ta được dạy. Ngay cả khi còn bé, chúng ta được dạy rằng thế giới này vận hành theo một cách nhất định, và đây là những quy luật của nó. Mọi chuyện là như thế đó, và một trong những chuyện đó là Thần vườn nóng tính và vừa thấy con người là sẽ lấy xẻng đập lên đầu chúng ta. Và dù hình ảnh ấy có thể dùng để miêu tả Talia ở mức bề mặt nhưng có thể nói rằng điều ấy cũng đúng với hầu hết các bé gái trong độ tuổi thiếu niên. Đó không phải là đặc tính giống loài. Đó là do hoóc-môn. Ta chỉ cần dành thời gian ở bên cô bé là có thể đào sâu xuống dưới vẻ ngoài ra chiều dạn dĩ ấy để thấy rằng cô bé rất mực che chở những người mình yêu thương. Các Thần vườn, như chúng ta đã biết, sống theo nhóm gọi là donsy. Ít ra là đã từng khi số lượng Thần vườn dồi dào hơn. Talia đã xây dựng donsy của mình ở nơi này.
Chauncey ở đây đơn giản là vì giống loài của cậu bé. Và vì chúng ta không biết chính xác cháu là loài gì nên DICOMY cần một chỗ để gửi gắm cháu. Tôi tin rằng - và đây không phải là bày tỏ ý kiến cá nhân mà là dựa trên trải nghiệm - cậu bé bị liệt vào mức bảo mật cấp độ bốn đơn giản chỉ vì ngoại hình. Người ta liên tục nói với Chauncey rằng cháu là quái vật, từ trẻ con, hiệu trưởng, đến những người làm ở nhiều chức vụ mà lẽ ra nên khôn ngoan hơn. Ta càng đánh chó, chúng càng co rúm lại khi ta giơ tay lên. Vậy nhưng, dù Chauncey đã bị tấn công bằng ngôn từ trước khi tới Marsyas (tôi không nghĩ là cháu từng bị bạo hành thể xác, dù lời nói có thể gây ra những tổn thương tương đương với đòn roi), cậu bé là một đứa trẻ hoạt bát và đáng yêu. Cháu có ước mơ. Tôi tự hỏi liệu người ta có hiểu điều này không? Chauncey mơ về một tương lai mà cháu không bao giờ có thể chạm tới. Và dù những mơ ước này có thể trông thật vặt vãnh, chúng vẫn là của riêng cháu.
Sal là đứa trẻ trầm lặng nhất trong nhóm. Cậu bé đã bị bạo hành về thể xác trước khi lên đảo. Chuyện ấy đã được ghi chép rõ ràng, dù không có trong hồ sơ các ngài cấp cho tôi. Anh Parnassus đã cho tôi xem những báo cáo vụ việc có chữ ký của DICOMY về tình huống cụ thể khi ấy. Việc điều ấy thực sự đã xảy ra quả là một trò đùa. Việc điều ấy xảy ra với một cậu bé ngại ngùng và khiêm tốn là không thể chấp nhận được. Khoảng thời gian Sal trải qua trên đảo này là ngắn nhất và cậu bé vẫn còn một chặng đường dài để đi cho tới thời điểm mà tôi tin là cháu sẽ hoàn toàn bình phục. Nhưng tôi nghĩ cháu sẽ bình phục lại thôi, vì dù chắc chắn là sẽ giật mình trước những tiếng động khẽ khàng nhất, cháu đang nảy nở ngay trước mắt tôi. Cháu thích viết lách, và tôi đã may mắn được đọc một số tác phẩm của cháu. Tôi cho rằng chúng ta sẽ thấy được những điều vĩ đại ở cậu bé này nếu cho cháu cơ hội. Dù tôi không vui vẻ gì khi phải so sánh lần nữa, nhưng một chú chó sẽ thu mình lại cho tới khi không thể bé nhỏ hơn được nữa. Cậu bé phải được động viên, chứ không phải là e sợ.
Các ngài có thể đang băn khoăn, mà tôi tin là các ngài đang cảm thấy vậy, những chuyện này thì có liên quan gì tới anh Parnassus. Chúng không liên quan gì tới anh ta cả. Những việc ấy có thể xảy ra chính là nhờ vào anh ta. Nơi đây không đơn giản chỉ là một trại trẻ mồ côi. Đây là một mái ấm chữa lành, và là một nơi mà tôi nghĩ là cần có trên đời. Có một nhà thơ, Emma Lazarus, từng viết rằng, “Hãy trao cho ta những mỏi mệt, những khốn khổ, những gánh tâm tư đang khát cầu giải thoát.”
Tôi tin là các ngài sẽ để ý thấy rằng tôi chưa nhắc đến Lucy.
Đã hai ngày kể từ khi tôi bắt đầu viết bản báo cáo này. Tôi đã thong thả, vì tìm ra những từ ngữ thích hợp dường như là một việc quan trọng tột bậc. Đêm qua, đã có một sự kiện xảy ra. Tôi đã bị một việc kỳ lạ nhất trần đời đánh thức khỏi giấc ngủ say sưa…
Nói vậy có lẽ còn là nói giảm nói tránh.
Linus hổn hển mở mắt, ngồi bật dậy trên giường, tay túm ngực, tim đập dồn dập. Anh hoang mang, không biết chuyện gì đang xảy ra nữa. Mắt anh thích nghi lại với bóng tối, và mất một lát anh mới hiểu được mình đang chứng kiến điều gì.
Căn nhà có vẻ như đang co lại.
Trần nhà trên cao gần anh hơn nhiều so với khi anh đi ngủ.
“Chuyện quái gì thế này?” Anh thảng thốt.
Anh nghe tiếng meo vang lên từ đâu đó phía dưới. Anh nhìn qua mép giường, chỉ để thấy rằng không phải là ngôi nhà đang co lại. Không, lý do tại sao trần nhà trông gần đến vậy là vì cái giường đang lơ lửng cách đất một mét rưỡi.
“Ôi trời!” Linus nói, túm chặt chăn trong khi Calliope ngước lên nhìn anh, đôi mắt sáng quắc trong đêm, đuôi giật giật.
Linus chưa bao giờ nằm trên một cái giường bay trước đây. Anh véo mình thật mạnh để đảm bảo rằng mình đang không nằm mơ.
Không phải mơ.
“Ôi trời!” anh lại nói.
Và rồi anh nghe thấy tiếng gầm trầm thấp, rền vang từ bên ngoài nhà.
Anh kéo chăn lên tận cằm khi cái giường khẽ đu đưa. Đó có vẻ là lựa chọn an toàn nhất.
Calliope lại réo gọi anh.
“Tao biết rồi,” anh gắng gượng trả lời, giọng bít bùng qua tấm chăn dày. “Chắc không có chuyện gì đâu, phải không? Tao cứ nên ngủ tiếp thôi. Như vậy sẽ là tốt nhất cho tất cả mọi người. Theo tất cả những gì tao biết, chuyện này là chuyện lúc nào cũng xảy ra mà.”
Cái giường nghiêng phắt sang bên phải, và Linus hầu như không hô lên được tiếng nào trước khi đáp đất, chăn gối lả tả rơi xuống quanh anh.
Anh vừa rên rỉ vừa nằm ngửa ra.
Calliope liếm liếm mái tóc thưa thớt của anh. Anh chẳng bao giờ hiểu được tại sao lũ mèo hay làm vậy.
“Chà, giờ thì rõ là tao dậy rồi,” anh nói, nhìn lên cái giường trên đầu. “Có lẽ nên đi xem chuyện này là thế nào. Có lẽ chỉ là… động đất mà thôi. Phải. Một cơn động đất, và nó sắp chấm dứt rồi.”
Anh chống tay ngồi dậy khỏi sàn, đập đầu lên đáy giường. Anh vừa xoa trán vừa tự càu nhàu cho mình nghe. Anh tìm được đôi giày mà ơn trời trông vẫn có vẻ như đang nằm yên trên sàn. Anh xỏ chúng vào và ra khỏi phòng ngủ, Calliope theo sát đằng sau.
Cái ghế trong phòng khách đang bay, biếng nhác xoay vòng trong không trung. Máy hát di động hết bật lại tắt. Những ngọn đèn nhấp nháy.
“Tao xử lý được hầu hết tất cả mọi thứ,” anh thì thầm với Calliope. “Nhưng tao tin giới hạn của tao là ma cỏ. Tao nghĩ tao không thích việc bị vong theo đâu.”
Âm thanh rền rĩ lại vang lên, và anh cảm thấy nó rung truyền qua sàn. Nhưng có vẻ như nó vang lên từ ngoài nhà, và dù không muốn làm việc này, anh vẫn mở cửa trước.
Ánh sáng đang bùng lên trong nhà chính. Anh nhớ đến quầng sáng cam rực rỡ mình đã thấy sau khi anh Parnassus ra về vài đêm trước, nhưng việc này không giống vậy. Trông như thể chuyện gì đó đang xảy ra trong nhà chính. Dù anh không mong muốn gì hơn là đóng cửa lại trước cảnh đó và giả vờ rằng không có gì xảy ra hết nhưng anh vẫn bước từ trên hiên xuống bãi cỏ.
Và ngay lập tức thét lên khi có bàn tay đặt lên vai mình.
Anh quay phắt lại và thấy Zoe đứng sau lưng, vẻ lo lắng hiện trên mặt bà.
“Sao bà lại làm thế hả?” anh gầm gừ với bà. “Bà đang cố gắng làm tôi chết sớm à? Cứ như thể bà dọa tôi để giải trí vậy!”
“Lucy đấy,” bà già khẽ nói, cánh lấp lánh sau lưng dưới ánh trăng. Trông bà thật hư ảo. “Thằng bé đang gặp ác mộng. Anh phải đến đó ngay.”
Lũ trẻ đã xuống tầng một ở nhà chính, đứng bên nhau, ngẩng đầu nhìn trần nhà. Chúng túm tụm lại quanh Sal, còn thằng bé thì đang cau mày. Đứa nào trông cũng nhẹ nhõm khi thấy Linus và Zoe.
“Các cháu đều ổn chứ?” Linus hỏi. “Có ai bị thương không?”
Chúng đều lắc đầu.
“Thi thoảng chuyện này vẫn xảy ra ấy mà,” Phee nói, hai tay ôm lấy thân hình mảnh dẻ. “Chúng cháu biết phải làm gì khi có chuyện, dù rằng cậu ấy đã không gặp ác mộng trong nhiều tháng liền rồi.”
“Như vậy không có nghĩa là cậu ấy xấu xa đâu!” Chauncey ùng ục kêu, mắt láo liên. “Cậu ấy chỉ… thích rung lắc đồ vật thôi. Như phòng chúng cháu chẳng hạn. Và cả ngôi nhà nữa.”
“Và chỉ vì cậu ấy có thể làm rung cả nhà không có nghĩa là cậu ấy muốn làm hại chúng cháu đâu,” Talia nói, nheo mắt.
Theodore chiêm chiếp tán thành từ chỗ đậu trên vai Sal.
“Chúng cháu biết em ấy sẽ không làm gì mình cả,” Sal khẽ nói. “Và cảnh này trông có thể đáng sợ, nhưng đây không phải lỗi của em ấy. Em ấy không kìm nén được con người mình.”
Mất một lúc Linus mới hiểu ra lũ trẻ đang làm gì: Chúng nghĩ anh sẽ dùng việc này để phản đối Lucy. Phản đối chúng. Dù có thể lũ trẻ đã chậm rãi bắt đầu tin tưởng anh, anh vẫn là một nhân viên công tác xã hội ở DICOMY. Anh vẫn đang ở đây để điều tra. Và vụ việc này, dù bản chất là gì đi nữa, trông sẽ chẳng tốt đẹp gì.
“Chú mừng là các cháu vô sự,” Linus nói, lờ đi cơn đau nhói trong ngực. “Đó mới là điều quan trọng.”
Trông Phee thật bối rối. “Dĩ nhiên là chúng cháu vô sự rồi. Lucy sẽ không làm gì với chúng cháu đâu.”
“Chú biết mà,” Linus nói.
Lũ trẻ trông không có vẻ gì là tin anh.
Lại có tiếng gầm nữa vang lên từ trên tầng. Âm thanh này nghe như thể thứ quỷ quái nào đó đã trỗi dậy.
Linus thở dài. Anh không biết tại sao mình lại quyết định giờ là lúc thích hợp để kiểm tra độ gan dạ của mình. “Bà ở đây với chúng nhé?” anh hỏi Zoe.
Trông bà như thể chuẩn bị phản đối, nhưng rồi lại gật đầu. “Nếu cậu muốn vậy.”
Điều Linus muốn là vẫn được say giấc nồng trên giường, nhưng điều ấy là hoàn toàn không thể. Anh nói, “Đúng vậy. Bà có nghĩ bà cần dẫn lũ trẻ ra khỏi nhà không?” Anh nhìn số đồ đạc lơ lửng quanh họ đầy đề phòng.
“Không. Thằng bé sẽ không hại các bạn đâu.”
Và vì nhiều lý do mà Linus không giải thích nổi, anh tin bà. Tin lũ trẻ.
Anh yếu ớt mỉm cười với chúng rồi quay lưng đi về phía cầu thang.
“Chú Baker!”
Anh nhìn lại qua vai.
Chauncey vẫy xúc tu với anh. “Cháu thích bộ đồ ngủ của chú lắm.”
“Ừm. Cảm ơn cháu, nói vậy thật… Cháu thu tay về được chứ? Cháu sẽ không được boa tiền vì nịnh nọt người ta đâu!”
Chauncey thở dài và buông xúc tu.
Talia vuốt râu. “Nhớ này, nếu chú thấy cái gì đó… là lạ, thì đó chỉ là ảo giác thôi đấy nhé.”
Anh nặng nề nuốt khan, “Ồ! Đó… quả là một lời khuyên tuyệt vời. Chú rất cảm kích đấy.”
Con bé vênh mặt tự đắc.
Có cảm giác như lan can cầu thang đang rung lên dưới tay anh khi anh bước từng bước một. Tranh ảnh treo trên tường xoay những vòng lười biếng. Anh nghe thấy tiếng nhạc đinh tai nhức óc bùng lên, những giai điệu của cả tá bài hát khác nhau mà anh nghe ra được. Có nhạc hòa tấu, jazz, rock’n’roll và vang vọng đâu đó là những bài hát của ngày âm nhạc về trời. The Big Bopper và Buddy Holly và Ritchie Valens ngân nga quanh anh bằng thứ giọng ma quái.
Anh lên đến đầu cầu thang. Mọi cánh cửa đều mở trừ cái ở tận cùng hành lang. Anh tiến lên một bước nữa, và chúng đồng loạt đóng sập lại. Anh thảng thốt bước lùi lại khi hành lang bắt đầu xoắn vặn, sàn gỗ cọt kẹt. Anh nhắm mắt lại, đếm đến ba, và lại mở mắt ra.
Hành lang trông vẫn như mọi khi.
“Được rồi, anh bạn già,” anh lầm bầm với chính mình. “Mày làm được mà.”
Những cánh cửa vẫn đóng khi anh đi qua, dù ánh đèn chớp tắt sau cửa, từng đợt ngắn ngủi chiếu rọi sàn nhà. Anh càng tới gần cửa ở cuối hành lang thì tiếng nhạc càng to hơn và nghe như thể mọi cái đĩa than từng được sản xuất đều đang bật lên cùng lúc, một bản hòa âm rít gào khiến chân răng Linus ê buốt.
Khi đến chỗ cánh cửa cuối cùng, anh có cái ý định kỳ cục là gõ cửa nhưng rồi lắc đầu. Anh vừa hít một hơi thật sâu vừa đặt tay lên nắm cửa và xoay vòng.
Nhạc tắt ngấm khi cửa mở ra.
Linus nghĩ anh đã thấy một thoáng ánh sáng vàng cam ở khóe mắt, nhưng quầng sáng ấy đã lụi tàn trước khi anh tìm ra được nó từ đâu tới.
Cửa phòng ngủ của Lucy mở toang, hơi buông ra khỏi bản lề.
Bản thân Lucy đứng ở chính giữa phòng, hai tay vươn dài ra khỏi người như đôi cánh, những ngón tay gồng lên. Đĩa than từng trang trí tường phòng thằng bé đang chậm rãi xoay vòng quanh nó. Vài cái đĩa đã nứt và sứt mẻ. Đầu nó ngửa ra sau và mắt đang mở, nhưng ánh mắt trống rỗng và vô hồn. Miệng nó há hốc, gân xanh nổi lên trên cổ.
Arthur đang quỳ trước mặt thằng bé, một tay đỡ lấy gáy Lucy. Người nọ liếc Linus, mắt thoáng mở to, rồi lại quay lại với Lucy. Anh bắt đầu thì thầm điều gì đó mà Linus không nghe ra được, nhưng giọng anh mềm mại và dịu êm. Anh khẽ xoa nắn gáy Lucy.
Linus bước một bước tới gần họ hơn.
“… và ta biết là con sợ,” Arthur nói, “Và ta biết thi thoảng khi nhắm mắt con thấy những thứ mà không ai phải thấy bao giờ. Nhưng trong con có phần thiện lương, Lucifer ạ, thiện lương vô cùng tận. Ta biết là có mà. Con đặc biệt. Con quan trọng. Không chỉ đối với những bạn khác. Mà cả đối với ta. Chưa từng có ai như con trước đây, và ta nhìn nhận con bằng tất cả những điều trong con, và tất cả những điều khuyết thiếu. Về nhà đi con. Tất cả những gì ta muốn con làm là về nhà thôi.”
Lucy ưỡn cong người như thể bị điện giật. Miệng thằng bé ngoác ra rộng hơn, gần như tới mức bất khả thi. Tiếng gầm rú kia lại vang lên, bò ra từ họng nó. Âm thanh ấy hắc ám và vặn vẹo, và trong mắt Lucy lóe lên ánh đỏ, một sắc đỏ đậm đặc và cổ xưa khiến Linus nổi gai ốc.
Nhưng Arthur chưa từng buông thằng bé ra.
Lucy nhũn người, đổ gục về phía trước. Arthur đỡ được nó.
Những khung kính cửa sổ ngừng trượt lên xuống.
Số đĩa than rơi xuống đất, vài cái vỡ tan thành từng mảnh nhỏ tung tóe khắp sàn.
“Arthur?” Lucy hỏi, giọng khản đặc. “Arthur? Chuyện gì xảy ra vậy? Con đang ở-… Ôi! ôi! Arthur ơi.”
“Ta ở đây,” Arthur nói, kéo nó vào lòng ôm chặt. Lucy vùi mặt vào cổ Arthur và bắt đầu nức nở, thân thể nhỏ bé của nó run rẩy. “Ta ở đây.”
“Giấc mơ xấu xa quá,” Lucy khóc. “Con bị lạc, và ở đó có nhện. Con không tìm được thầy. Mạng nhện to quá, và con đi lạc mất.”
“Nhưng con đã tìm được ta đấy thôi,” Arthur nhẹ nhàng nói. “Vì con ở đây rồi. Và chú Baker cũng ở đây nữa.”
“Thế ạ?” Lucy sụt sịt. Thằng bé quay mặt ra nhìn về phía cửa. Mặt nó ửng đỏ và lấm lem nước mắt. “Chào chú, chú Baker. Cháu xin lỗi vì đã đánh thức chú. Cháu không cố ý đâu.”
Linus lắc đầu, cố gắng tìm lời thích hợp để nói. “Không cần xin lỗi đâu, cháu yêu ạ. Chú dễ bị tỉnh lắm.” Anh không hề dễ tỉnh. Mẹ anh thường nói một đàn ngựa hoang cũng không thể khiến anh tỉnh giấc. “Chú chỉ mừng là cháu ổn rồi thôi. Điều ấy là quan trọng hơn cả.”
Lucy gật đầu. “Cháu gặp ác mộng, thi thoảng lại thế.”
“Chú cũng vậy.”
“Thật ư?”
Linus nhún vai. “Đó là một phần của cuộc sống, chú nghĩ vậy. Nhưng ngay cả khi cháu gặp ác mộng, cháu phải nhớ rằng chúng chỉ có vậy. Chỉ là mơ mà thôi. Cháu sẽ luôn luôn tỉnh dậy khỏi giấc mộng ấy. Và dần dà chúng sẽ phai nhạt. Chú phát hiện ra rằng tỉnh dậy khỏi một cơn ác mộng mang đến cảm giác nhẹ nhõm hơn bất kỳ việc gì trên đời. Như thế có nghĩa là những gì cháu đã thấy đều không có thật.”
“Cháu làm vỡ đĩa than mất rồi,” Lucy đau khổ nói. Thằng bé tách ra khỏi Arthur, đưa cánh tay lên quệt ngang mặt. “Cháu thích chúng biết bao, mà giờ chúng vỡ hết rồi.” Nó sầu thảm nhìn xuống những mảnh nhựa đen sáng bóng trên sàn.
“Đừng nói vậy,” Linus quở nó. “Đây chỉ là những cái treo trên tường thôi, đúng không?” Anh đi sâu hơn vào trong phòng và cúi xuống cạnh Lucy, nhặt một mảnh đĩa than vỡ lên.
“Không phải cái nào cũng vậy,” Lucy nói. “Có vài cái là đĩa cháu hay nghe. Chúng còn là những đĩa than yêu thích của cháu nữa.”
“Chú chia sẻ với cháu điều này được không?”
Lucy gật đầu, nhìn xuống đống đĩa than.
Linus lại nhặt một mảnh khác lên. Trông mảnh này như cùng bộ với mảnh anh đã nhặt. Anh ghép chúng lại trước mặt Lucy. Chúng vừa vặn nối vào nhau, tạo thành một cái đĩa hoàn chỉnh. “Khi một thứ bị vỡ, cháu có thể lắp ghép nó lại. Có thể nó không khít y như cũ, hay chạy như đã từng trước kia, nhưng như vậy không có nghĩa là nó không còn hữu dụng. Nhìn này, thấy không? Chỉ cần chút keo dán và chút may mắn, nó sẽ tốt như mới. Sao nào, khi đã treo lên tường ấy à, cháu còn chẳng nhìn ra được có chỗ nào khác đâu.”
“Nhưng còn những đĩa cháu hay nghe thì sao?” Lucy sụt sịt hỏi. “Những đĩa treo trên tường vốn đã xước rồi.”
Linus lưỡng lự. Nhưng trước khi anh nghĩ ra được điều gì để nói, Arthur đã lên tiếng trước.
“Có một cửa hàng đĩa than ở trong làng.”
Linus và Lucy ngẩng lên nhìn anh. “Thế ạ?” Lucy hỏi.
Arthur chậm rãi gật đầu. Trên mặt người nọ là một biểu cảm kỳ lạ. “Đúng vậy. Chúng ta có thể đến đó, nếu con muốn.”
Lucy lại quệt mắt. “Thật ạ? Thầy nghĩ mình đến đó được ạ?”
“Được,” Arthur nói. Người nọ chậm rãi đứng lên. “Ta nghĩ như vậy sẽ ổn thôi. Có lẽ chúng ta có thể biến nó thành một ngày dã ngoại. Cho tất cả chúng ta.”
“Cả chú Baker nữa ư?”
“Nếu chú ấy vâng lời,” Arthur nói, giọng đầy thích thú. “Có lẽ chú ấy sẽ muốn chọn đĩa cùng con đấy, vì hai người đều yêu thích âm nhạc. Gu của hai chú cháu vượt xa gu của ta nhiều.”
Lucy quay ngoắt lại, vẻ mặt rạng rỡ. Linus ngỡ ngàng trước sức bật của thằng bé. “Chú đi cùng chúng cháu chứ, chú Baker? Chúng ta có thể cùng nhau tìm đĩa nhạc đấy.”
Linus kinh ngạc. Cuối cùng anh xoay sở trả lời được, “Đư… ợc, việc ấy… Việc ấy chắc chắn là khả thi rồi.”
“Hay con đi nói với các bạn rằng mọi người có thể về giường đi?” Arthur đề nghị. “Ta tin là chúng sẽ muốn thấy rằng con vẫn ổn trước khi đi ngủ đấy.”
Lucy cười toe toét với anh, một nụ cười rạng ngời khiến tim Linus nhức nhối. “Vâng ạ!” Thằng bé chạy ào qua cửa, hò hét dọc hành lang rằng nó chưa chết, và rằng lần này không có gì bắt lửa cả, và vừa nãy không hoành tráng lắm ư?
Linus lại đứng lên, đầu gối kẽo kẹt. “Già rồi,” anh càu nhàu, thấy xấu hổ một cách kỳ lạ. “Dù là, tôi cho rằng tuổi tác đến với cả những người giỏi giang nhất…”
“Thằng bé không làm hại ai đâu,” Arthur nói, giọng gay gắt.
Linus ngạc nhiên ngẩng lên. Arthur đang cau mày nhìn anh, và biểu cảm lạ lùng kia đã trở lại. Linus hoàn toàn không nhìn thấu vẻ mặt ấy. Và tại sao anh lại bị đồ ngủ của Arthur làm cho phân tâm, anh cũng không biết nữa. Arthur đang mặc quần đùi, đầu gối trắng bệch và xương xẩu. Áo ngủ của người đàn ông này có diềm xếp nếp. Trông anh trẻ hơn bao giờ hết. Và gần như đang lạc lối. “Vậy thì tốt rồi.”
“Và tôi biết chắc là anh sẽ phải ghi chép điều này vào báo cáo,” Arthur tiếp tục, như thể Linus chưa từng lên tiếng. “Tôi không trách anh về việc đó, và cũng không cố ngăn cản anh. Nhưng tôi yêu cầu anh nhớ cho là Lucy chưa từng hại ai cả. Thằng bé… Những lời tôi nói là thật. Thằng bé rất tốt. Trong lòng nó có biết bao thiện lương. Nhưng tôi không nghĩ nó sẽ sống được khi phải đi khỏi nơi đây. Nếu ngôi trường này phải đóng cửa, hay nó phải bị thuyên chuyển, tôi không biết liệu nó có…”
Linus không nghĩ ngợi gì mà vươn tới nắm lấy tay Arthur. Lòng bàn tay họ trượt lên nhau, ngón tay đan vào nhau. Arthur siết chặt tay anh. “Tôi hiểu anh đang nói gì mà.”
Trông Arthur nhẹ cả người.
Nhưng trước khi người kia có thể lên tiếng, Linus phải nói xong đã. “Tuy vậy, ngay cả khi thằng bé không phải là mối nguy hiểm đối với bất kỳ ai khác, thế còn với chính nó thì sao?”
Arthur lắc đầu. “Đó không phải…”
“Vậy nhưng đó là lý do tại sao anh giữ nó ở đây với mình, đúng không? Để thằng bé luôn trong tầm tay nếu cần có anh.”
“Phải.”
“Nó đã bao giờ tự làm đau mình chưa?”
Arthur thở dài. “Không… Không phải về thể xác. Nhưng nó là chuyên gia tự trừng phạt bản thân sau đó. Nếu có gì bị vỡ, dù là đồ của ai, nó cũng sẽ mang nặng tội lỗi ấy trên vai mình.”
“Có gì đó nói với tôi rằng anh cũng biết đôi chút về việc tự trừng phạt mình đấy.”
Môi Arthur cong lên. “Đôi chút thôi.”
“Giờ trông nó khá ổn rồi.”
“Dù là ai đi nữa, thằng bé vẫn chỉ là trẻ con thôi. Trẻ con bật dậy một cách phi thường. Cháu nó sẽ ổn thôi, tôi nghĩ vậy. Ít ra là cho tới lần tiếp theo.” Arthur khẽ nheo mắt. “Và tôi cũng sẽ có mặt vào lúc đó.”
Đó là một lời thách thức và là chuyện Linus không thể đáp ứng. Dù đề xuất của anh là gì, quyết định vẫn là của DICOMY. “Anh nói rằng việc này không thường xuyên xảy ra. Ít ra là không còn vậy nữa. Và tôi nghĩ mình hẳn sẽ để ý thấy một chuyện như thế này trong thời gian ở đây mới phải.”
“Tôi đã nghĩ… Tôi đã hy vọng rằng thằng bé đang vượt qua giai đoạn này rồi.” Giọng Arthur nghe có vẻ nản chí.
“Vậy thì điều gì đã gây nên cơn ác mộng này? Anh có biết không? Hôm nay đã có chuyện gì à?”
Arthur lắc đầu. “Theo như tôi biết thì không. Tôi nghĩ… Dù nghe có ghê tởm nhưng tôi nghĩ có phần nào đó là thật khi thằng bé nói trong đầu nó có nhện. Có nhiều điều chúng ta không biết về việc sẽ thế nào khi phải làm Kẻ Ph…”
“Ấy,” Linus quở trách, siết tay Arthur. “Ở đây chúng ta không được nói từ ấy đâu nhé.”
Arthur nở nụ cười dịu êm. “Đúng vậy, tôi nghĩ chúng ta không được nói vậy. Cảm ơn vì đã nhắc nhở tôi nhé. Lũ nhện, dù chắc chắn là không phải nhện thật, nhưng tượng trưng cho những gì đang diễn ra trong đầu thằng bé. Những dòng suy nghĩ hắc ám đan xen vào những trong sáng của nó.”
“Ấy là một góc con người thôi,” Linus nói. “Chúng ta đều có vấn đề riêng mà. Tôi quấn một vòng lốp xe quanh bụng. Cha nó là quỷ Satan. Chẳng có gì không thể xử lý khi chúng ta cố gắng hết mình cả.”
Arthur ngửa đầu lên trần, nhắm mắt lại rồi cười càng tươi hơn. “Tôi khá thích anh như bây giờ đấy.”
Linus lại thấy nóng bừng cả lên. Anh chắc chắn rằng lòng bàn tay mình đang ào ạt đổ mồ hôi, nhưng không đào đâu ra sức để rút tay về. “Tôi… Chà. Vậy… Tôi nghĩ vậy thì tốt rồi.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.”
Anh tha thiết muốn đổi đề tài trước khi nói ra điều gì khiến mình phải hối hận. Đây là một cuộc chiến trong đó anh đang dần yếu thế, nhưng anh vẫn phải chiến đấu hết mình.
Anh buông tay Arthur rồi nói, “Vậy thì, đến ngôi làng hả? Tôi thấy là anh đã quyết định rồi đấy.”
Arthur mở mắt và thở dài. Anh nhìn Linus. “Anh nói đúng. Có lẽ đã đến lúc rồi. Tôi lo lắm, nhưng tôi lúc nào cũng lo cả.”
“Tôi tin là mọi chuyện sẽ ổn thôi,” Linus nói, bước lùi lại. “Và nếu không, tôi đảm bảo với anh rằng tôi sẽ nói thẳng ra. Tôi không có thì giờ hay kiên nhẫn cho bất kỳ hành động thô lỗ nào đâu.” Anh cảm thấy không chút ràng buộc đến kỳ lạ, như thể anh đang bồng bềnh ngoài cơ thể của chính mình. Anh tự hỏi liệu toàn bộ chuyện này trông có như một giấc mơ vào sáng mai không. “Đến giờ đi ngủ rồi, tôi nghĩ vậy. Trời sắp sáng đến nơi rồi đấy.”
Anh quay đi, tin chắc rằng mặt mình đang đỏ rực. Anh đã gần ra đến cửa thì Arthur gọi tên anh.
Anh dừng bước, nhưng không quay đầu lại.
“Tôi nói thật đấy,” giọng Arthur khẽ khàng.
“Về?”
“Thích anh như anh bây giờ ấy. Tôi không biết liệu tôi có từng nghĩ tới bất kỳ ai nhiều đến vậy không nữa.”
Linus túm lấy tay nắm cửa. “Nói vậy thì… Cảm ơn anh. Anh thật tốt bụng khi nói vậy. Chúc ngủ ngon, Arthur.”
Arthur khúc khích. “Chúc ngủ ngon, Linus.”
Và cứ thế, Linus bỏ chạy khỏi phòng ngủ.
Suốt phần còn lại của đêm hôm đó anh không hề chợp mắt.
Khi đã đẩy cái giường về đúng chỗ trong phòng ngủ nhà khách, anh đổ gục xuống đó, tin chắc rằng mình sẽ ngất luôn sau khi đã kinh qua đêm nay.
Chuyện không hề như vậy.
Thay vào đó, anh nằm thao thức, nghĩ về cảm giác khi tay của Arthur nằm trong tay anh, và hai bàn tay đã vừa vặn áp lên nhau thế nào. Suy nghĩ ấy thật ngốc nghếch, và rất có thể là nguy hiểm, nhưng trong bóng đêm tĩnh lặng, không một ai có thể cướp đi điều ấy của anh.