Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 14

Merle đứng trên phà, há hốc miệng.

Linus vươn người qua cửa kính đang hạ xuống ở phía phụ lái. “Ông có hạ cầu hay không đây?”

Merle không nhúc nhích.

“Lão già vô dụng,” Linus lầm bầm. “Tôi không biết tại sao chúng ta phải giao phó cho lão lèo lái một con tàu to đến vậy. Tôi ngạc nhiên là lão chưa làm chết ai đấy.”

“Chúng ta sẽ đắm phà và chìm xuống biển và có khi là sẽ chết ư?” Chauncey hỏi. “Thế thì thật khéo quá.”

Linus thở dài. Anh thật sự cần học cách uốn lưỡi trước khi nói tốt hơn. Anh quay lại nhìn ra sau xe. Sáu đứa trẻ nhìn anh cùng vẻ thích thú ở nhiều mức độ khác nhau trước việc chìm xuống biển và chết. Lucy và Chauncey còn hơn cả những đứa khác.

Zoe, ngồi ở hàng ghế thứ ba, nhướn mày nhìn anh, tỏ ý mà không nói một lời nào rằng đây là rắc rối của anh và tốt nhất là anh nên nhận tội đi.

Anh hy vọng rằng mình sẽ không hối hận vì đã cho lũ trẻ đi chơi.

Rất có khả năng là anh sẽ phải hối hận.

“Chúng ta sẽ không chìm xuống biển và thiệt mạng,” Linus nói, kiên nhẫn hết mức có thể. “Đó chỉ là một cách nói người lớn hay dùng, và do vậy, trẻ con như các cháu không nên nói những điều như vậy đâu.”

Arthur khụt khịt cười từ bên ghế lái, nhưng Linus lờ người nọ đi. Anh đang phản ứng rất kỳ lạ với Arthur kể từ cái đêm trong phòng ngủ của người kia. Trong khi trước đây anh chưa từng gặp vấn đề gì trong việc ăn nói thẳng thừng với hiệu trưởng của ngôi trường này, giờ anh lại thấy mình đỏ mặt và lắp bắp như một cậu học trò. Thật là lố bịch.

“Người lớn nghĩ về cái chết nhiều lắm ạ?” Lucy hỏi. Thằng bé nghiêng đầu theo một góc độ kỳ quái. “Như thế hẳn có nghĩa là cháu cũng là người lớn rồi vì lúc nào cháu cũng nghĩ về việc đó. Cháu thích những thứ chết chóc. Cháu vẫn sẽ thích chú nếu chú chết đi, chú Baker ạ. Có khi còn thích hơn ấy chứ.”

Zoe lấy mu bàn tay chặn lại tiếng cười và quay đầu nhìn ra cửa sổ.

Vô dụng. Cả bà lẫn Arthur.

“Người lớn không nghĩ tới cái chết nhiều lắm đâu,” Linus nghiêm khắc nói. “Thật ra, họ hầu như chẳng nghĩ đến chuyện ấy. Thế nào nhỉ, suy nghĩ chết chóc còn chẳng hiện ra trong đầu họ nữa là.”

“Vậy thì tại sao người lớn viết nhiều sách vở về cái chết đến vậy?” Phee hỏi.

“Chú không… Đấy là vì… Chuyện ấy chẳng liên quan gì hết. Điều chú đang cố nói ở đây là không được nói về cái chết hay chết chóc nữa!”

Talia vừa gật gù ra vẻ khôn ngoan vừa vuốt râu. “Chính xác. Vì tốt hơn là không nên biết liệu chúng ta có sắp chết hay không. Như vậy thì chúng ta sẽ không bắt đầu la hét ngay từ lúc này. Việc ấy sẽ là một điều ngạc nhiên. Sau đó chúng ta vẫn có thể la hét mà.”

Theodore lo lắng chiếp chiếp, giấu đầu vào dưới cánh trong khi ngồi trong lòng Sal. Sal cúi xuống vuốt lưng thằng bé.

“Mình có thể biết được khi nào các cậu sẽ chết đấy,” Lucy nói. Nó ngả đầu ra sau và nhìn lên trần xe. “Mình nghĩ nếu đủ cố gắng thì mình có thể thấy được tương lai. Chú Baker ơi? Chú có muốn cháu xem xem khi nào thì chú chết không? Ồ! Phải rồi, hình ảnh ấy đang hiện ra trong đầu cháu ngay bây giờ này. Cháu thấy được rồi. Chú sẽ thiệt mạng trong một vụ…”

“Chú không muốn,” Linus cấm cảu. “Và chú sẽ nhắc nhở cháu lần nữa, khi chúng ta ở trong làng, cháu không thể đi lang thang và đề nghị rằng cháu sẽ nói cho họ biết số mệnh đang chờ đợi họ là gì đâu.”

Lucy thở dài. “Làm sao cháu có bạn mới nếu không được nói với họ rằng họ sẽ chết như thế nào đây? Thế thì đi chơi để làm gì?”

“Ăn kem và mua đĩa,” Arthur nói.

“Ồ! Vâng ạ.”

Đây là một ý tưởng cực kỳ tệ hại.

“Mọi người thấy mình trông có được không?” Chauncey hỏi chắc phải đến lần thứ một trăm. “Mình không biết trang phục của mình có phù hợp không nữa.”

Thằng bé mặc một cái áo choàng đi mưa tí hon, và một cái mũ chóp cao đặt giữa hai mắt nó. Nó nói rằng đây là lớp ngụy trang của nó nhưng hai thứ đồ đó chẳng làm được gì nhiều. Đó là ý tưởng của nó, và Linus đã không muốn tranh cãi, đặc biệt là khi Chauncey đã vô cùng ồn ào tuyên bố rằng nó không thể khỏa thân mà đi vào làng được, dù phần lớn thời gian ở trên đảo nó đều trần trụi như vậy. Linus chưa bao giờ nghĩ tới việc ấy theo cách này. Và giờ anh không thể ngừng nghĩ như vậy.

“Trông cháu ổn mà,” Linus nói. “Thậm chí còn bảnh bao ấy chứ.”

“Như một gián điệp ẩn mình trong bóng tối chuẩn bị tiết lộ một bí mật to lớn vậy,” Sal nói với nó.

“Hoặc giống như cậu ấy chuẩn bị banh áo ra và khoe thân với chúng mình vậy,” Talia lầm bầm.

“Này! Mình sẽ không làm vậy đâu nhé. Chỉ khi cậu yêu cầu thôi.”

Zoe không còn cố giấu tiếng cười nữa.

Linus quay về chỗ cũ trên ghế, nhìn qua kính trước. Merle vẫn đang há hốc mồm nhìn họ.

“Nghĩ lại rồi à?” Arthur hỏi. Linus không cần nhìn người ấy để biết rằng anh đang mỉm cười.

“Không,” Linus nói. “Dĩ nhiên là không rồi. Chuyện này sẽ ổn cả thôi. Chuyện này sẽ… Trời đất ạ! Lão già kia! Hạ cái cầu chết tiệt xuống đi!”

“Ồ!!!,” lũ trẻ đồng thanh.

“Chú Baker chửi thề kìa,” Talia thì thầm khiếp sợ.

Chuyến đi này sẽ ổn cả thôi.

“Chúng tôi sẽ trở lại vào buổi chiều,” Arthur nói với Merle khi họ xuống phà. “Tôi hy vọng rằng như vậy sẽ không thành vấn đề. Tôi sẽ đảm bảo rằng có chút thưởng thêm sau chuyến đi này cho ông.”

Merle gật đầu, vẫn há hốc miệng. “Vậy… Vậy thì tốt, cậu Parnassus ạ.”

“Tôi cho là sẽ tốt thôi. Thật vui khi được gặp lại ông.”

Merle bỏ chạy về phà.

“Một ông bạn kỳ quặc, phải không nào?” Arthur hỏi. Anh lái xe về phía ngôi làng.

Vì lúc ấy là gần cuối tháng chín và do đó đã bắt đầu hết mùa cao điểm nên làng Marsyas không rộn ràng như bình thường. Ngay cả khi Linus đến đây ba tuần trước, trên hè phố vẫn đông người, ngó nghiêng vào các cửa hiệu, hay trẻ con mặc đồ bơi, theo chân cha mẹ xỏ những đôi chân nhợt nhạt trong dép xỏ ngón, mang nào ô nào khăn tắm nào thùng giữ nhiệt khi đi về phía bãi biển.

Thị trấn không hẳn là chết lặng mà yên tĩnh, điều ấy khiến Linus thả lỏng. Anh muốn chuyến đi này diễn ra suôn sẻ hết mức, để họ có thể lại đi vài chuyến nữa sau khi anh rời đảo. Anh chưa từng thật sự nhận ra mình đang nghĩ theo chiều hướng rằng trại trẻ sẽ tiếp tục như cũ. Sau này việc ấy mới hiện ra trong đầu anh.

Nhưng những người đang ở trên phố không làm gì mấy để che giấu sự thật rằng họ đang trợn mắt há mồm nhìn lũ trẻ.

Talia ngồi gần cửa sổ nhất, vẫy tay khi họ đi ngang qua một người phụ nữ và hai đứa con.

Lũ trẻ vẫy tay chào lại.

Người mẹ túm lấy chúng và ôm sát vào người như thể cô ta nghĩ chúng sắp sửa bị bắt cóc.

Chauncey ngồi ở đầu bên kia băng ghế, dán mặt lên kính cửa, mắt láo liên. “Khách sạn kia kìa! Mình thấy nó rồi! Nhìn nó kìa! Nhìn… Ôi trời! Ở đó có nhân viên hành lý. Một nhân viên hành lý sống sờ sờ, bằng xương bằng thịt. Nhìn đi! Nhìn đi!”

Và đúng là có thật, một người đàn ông gầy còm đang giúp một bà già khoác quá chừng lông thú bước ra khỏi một chiếc xe đắt tiền. Họ nghe thấy tiếng rú rít của Chauncey qua cửa kính hạ xuống, và Linus ngoái lại nhìn đúng lúc để thấy Chauncey áp miệng lên kính và thổi ra một hơi thật lớn, khiến đầu thằng bé phình ra.

Bà già lảo đảo, đưa tay lên ôm cổ. Nhân viên hành lý bắt được bà ta trước khi bà ta ngã ngửa.

“Òa,” Chauncey thì thào rồi gỡ mặt ra khỏi kính. “Nhân viên hành lý làm được mọi việc luôn nhé.”

Chuyến đi sẽ ổn thôi.

Sẽ ổn mà.

Arthur rẽ vào bãi đỗ xe dành riêng cho những người ra bãi biển. Vì giờ không phải mùa cao điểm, bãi đỗ hầu như trống trơn, và chẳng có ai ở quầy thu phí, nơi cửa cuốn đã hạ xuống hết. Người nọ đỗ vào chỗ trống đầu tiên và tắt máy. “Các con,” anh dịu dàng nói. “Hãy xuống xe và ghép cặp với nhau nào.”

Một đàn tê giác mang thai nặng nề đang hùng hục lao đi cũng sẽ không ồn ào bằng lũ trẻ vào lúc đó.

Linus túm chặt bản báo cáo trên đùi khi cái xe rung lắc dữ dội. Bản báo cáo thứ ba được niêm phong kín trong bì như mọi khi, đóng dấu và gửi tới Ban Quản Lý Thượng Tầng, ở Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu. Anh nghĩ đến chuyện ra bưu điện trước, nhưng lại nghĩ tốt nhất là đợi tới khi họ dã ngoại xong xuôi. Không cần phải phân tâm vì chuyện này. Anh đặt phong bì lên táp lô.

“Ổn cả chứ?” Arthur khẽ hỏi.

Linus liếc nhìn người nọ rồi nhớ ra cảm giác khi tay họ đan vào nhau, và lại ngoảnh mặt đi. Những suy nghĩ mới phù phiếm làm sao. “Tôi ổn,” anh trả lời cộc lốc. “Mọi việc đều ổn.”

“Tôi tin rằng đó là câu thần chú của anh cho ngày hôm nay. Anh đã niệm nó quá đủ rồi đấy.”

“Ừ, chà, càng nhắc lại nhiều lần, biết đâu nó lại càng thành sự thật.”

Arthur vươn tay sang và chạm lên vai anh trong thoáng chốc. “Lũ trẻ sẽ cư xử tử tế thôi.”

“Tôi không lo lắng về chúng nó,” Linus thú nhận.

“Tôi nhớ rõ là có người nọ đã tuyên bố rằng anh ấy sẽ không chấp nhận những hành động thô lỗ. Lúc đó trông anh ấy vô cùng dữ dằn. Tôi ấn tượng lắm đấy.”

“Nếu từng ấy đã làm anh ấn tượng thì có lẽ anh nên ra ngoài nhiều hơn.”

Arthur bật cười. “Anh vui tính quá. Và hãy nhìn xem! Tôi đã ở ngoài đường rồi đây. Giờ thì, hãy đi thăm thú những nơi chúng ta muốn thăm thú thôi nhỉ? Chúng ta không thể cứ ở mãi trong xe được.”

Đúng vậy, họ không thể ở mãi trong xe, kể cả khi Linus muốn vậy. Anh đang cư xử thật ngốc nghếch nhưng anh không thể xua tan nỗi khiếp sợ kỳ lạ quặn thắt trong bụng mình. Đây là ý tưởng của anh, một ý tưởng anh đã cổ vũ, nhưng giờ khi họ đã ở đây rồi sao?

Anh nhìn qua kính trước. Ở bên hông tòa nhà trước mặt họ, dưới một biển quảng cáo Chunky Cola - Cái gì ngon chúng tôi cũng có! - là một băng rôn, nhắc nhở mọi người THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI.

“Anh mang theo giấy ghi danh của bọn trẻ chưa?” Linus khẽ hỏi.

“Tôi mang rồi.”

“Thế thì được.”

Linus mở cửa và xuống xe.

Lũ trẻ đã xếp hàng theo cặp ở sau xe. Lucy và Talia. Sal và Theodore. Phee và Chauncey. Chúng đã tự chọn bạn cặp của mình, và dù Linus đã đoán rằng Sal và Theodore sẽ đi cùng nhau nhưng nghĩ đến Lucy và Talia sánh vai đủ để khiến anh rùng mình. Hai đứa trẻ này có xu hướng khích lệ lẫn nhau. Anh đã phải rõ ràng và cứng rắn bảo Talia rằng con bé không được mang xẻng đi, bất chấp vẻ bất mãn của nó.

Đó là lý do tại sao anh giật mình khi Arthur nói, “Phee và Chauncey, hai đứa đi với bà Chapelwhite. Sal và Theodore, các con đi với ta. Lucy và Talia, ta giao các con cho chú Baker.”

Lucy và Talia đồng loạt chậm rãi quay đầu, trên mặt là nụ cười y hệt nhau khiến Linus lạnh sống lưng.

Anh lắp bắp. “Có khi chúng ta nên… Ý chú là, thật sự không cần phải… Chú nghĩ chúng ta nên… Ôi trời!”

“Chú bị sao thế ạ, chú Baker?” Lucy ngọt ngào hỏi.

“Phải, chú Baker,” Talia hỏi. “Chú bị sao thế?”

“Chú ổn,” anh nói. “Mọi chuyện đều ổn. Dẫu rằng, tôi nghĩ tất cả chúng ta đi cùng nhau sẽ là một ý hay.”

“Hết mức có thể,” Arthur thoải mái nói. Quần người này lại quá ngắn so với chân. Đôi tất của anh màu tím. Linus tới số rồi. “Tuy vậy, tôi nghĩ hầu hết bọn trẻ sẽ thấy chán khi vào cửa hàng đĩa than, và còn ai giúp Lucy chọn nhạc tốt hơn anh đây? Các con, có nhớ mang theo tiền tiêu vặt không đấy?”

Cả đám đều gật đầu, ngoại trừ Chauncey, thằng bé than vãn, “Không. Con quên mất rồi. Con bận mặc quần áo quá. Giờ con rỗng túi rồi, và con sẽ chẳng có gì cả.”

“May cho con. Ta đoán rằng chuyện ấy sẽ xảy ra,” Arthur nói. “Đó là lý do tại sao ta đã đưa tiền của con cho Zoe rồi.”

Chauncey lập tức bình tĩnh lại, ngước nhìn Arthur đầy sùng bái.

Arthur nhìn đồng hồ đeo tay. “Nếu cuối cùng chúng ta tách ra, ta dự định là chúng ta sẽ tụ tập ở hàng kem lúc hai rưỡi. Đồng ý không?”

Mọi người đều đồng ý.

“Vậy thì đi thôi.” Arthur phấn khởi.

Lucy và Talia lập tức với lên nắm tay Linus.

“Chú nghĩ ở đây có nghĩa trang không, chú Baker?” Lucy hỏi. “Nếu có, thì cháu muốn đi xem xem.”

“Cháu đã bảo chú là cháu nên mang theo xẻng mà,” Talia lầm bầm. “Làm sao cháu đào xác chết lên được mà không có xẻng?”

Có khi rốt cuộc anh sẽ ước gì mình chưa từng đề nghị cho chúng đi chơi.

Dù Linus có tránh không để việc ấy xảy ra đến thế nào thì ba chú cháu vẫn tách ra khỏi nhóm thăm quan sau xấp xỉ ba phút và hai mươi sáu giây. Linus hoàn toàn không biết làm thế nào mà chuyện ấy xảy ra. Giây trước, họ đều đi cùng nhau, và giây sau, Talia đã càu nhàu gì đó bằng tiếng Thần vườn mà dường như để biểu lộ nỗi sung sướng tột cùng, và họ bị kéo vào một cửa hàng, tiếng chuông leng keng trên đầu khi cửa đóng lại sau lưng.

“Cái gì vậy?” Linus hỏi, ngoái đầu ra sau và thấy những người khác đang tiếp tục đi dọc phố. Arthur nháy mắt với anh rồi cứ thế mà đi. “Đợi đã, có lẽ chúng ta nên…”

Nhưng không gì cản được Talia. Con bé kéo tay Linus và bước đều bước về phía trước, lầm bầm với chính mình bằng tiếng Thần vườn.

“Ôi không!” Lucy rên rỉ. “Trong tất cả những cửa hàng lẽ ra chúng ta có thể ghé vào, bạn ấy lại chọn nơi tệ nhất.”

Linus chớp mắt.

Họ đang ở trong cửa hàng kim khí.

Và Talia đang đảo qua đảo lại trước một kệ trưng bày dụng cụ làm vườn, vuốt râu và săm soi từng cái xẻng con, cái thuổng, cái bồ cào. Con bé khựng lại và thảng thốt. “Đây là những chiếc B.L. Mack mới. Cháu còn không biết loại này đã được bày bán kìa.” Con bé vươn tới lôi một cái thuổng hình thù kỳ quặc ra khỏi kệ, tay cầm được trang trí bằng hình in hoa. Nó quay lại khoe thứ này với Linus. “Đây là những cái thuổng hạng nhất trong tạp chí Nguyệt San Dụng Cụ Làm Vườn. Cháu tưởng mùa xuân năm sau người ta mới phát hành loại này. Chú có biết như vậy có nghĩa là gì không?”

Linus hoàn toàn không biết. “Có… ó?”

Talia điên cuồng gật đầu. “Chính xác. Hãy nghĩ mà xem. Cháu có thể mua cái này, và chúng ta có thể ra nghĩa địa như Lucy muốn. Cháu có thể đào được biết bao nhiêu thứ bằng thuổng này.”

“Đừng to tiếng đến vậy.” Linus rít lên với con bé, nhưng nó lờ anh đi, tiếp tục giả vờ đào bới như thể đang làm quen với tay cầm và sức nặng của cái thuổng.

Ngay cả Lucy trông cũng thích thú. “Cái này hơi nhỏ,” thằng bé nghi hoặc nói. “Làm sao cậu đào được cả nghĩa trang lên bằng thứ đồ nhỏ tí này?”

“Vấn đề không phải là kích cỡ,” Talia chê cười. “Mà là mình sẽ dùng nó vào việc gì. Không phải sao, chú Baker?”

Linus húng hắng ho. “Chú… Rất chí lý, chú nghĩ vậy.”

“Và mình là Thần vườn, Lucy ạ. Cậu biết mình giỏi đào bới thế nào mà.”

Lucy gật đầu, trông có vẻ nhẹ nhõm. “Vậy thì tốt. Vì có khi chúng ta sẽ phải đào lên ít nhất là ba bốn cái xác…”

“Chúng ta sẽ không đào cái xác nào lên cả,” Linus gắt lên. “Nên hãy bỏ cái suy nghĩ đó ra khỏi đầu các cháu ngay bây giờ đi.”

“Chúng ta không đào ạ?” Talia hỏi, nhìn xuống cái thuổng. “Nhưng thế thì còn được cái tích sự gì nữa?”

“Tích sự? Tích sự của cái gì cơ?”

“Đi ra nghĩa trang ấy ạ,” Lucy nói, giật giật tay anh.

“Chúng ta sẽ không ra nghĩa trang.”

Talia nheo mắt nhìn anh. “Nhưng chú đã nói là chúng ta có thể đi mà.”

“Ôi không!” Lucy rên rỉ. “Chú đã lẩm cẩm rồi ư? Chú ấy già đến nỗi lú lẫn luôn rồi. Cứu với! Làm ơn, có ai cứu chúng cháu với! Người đàn ông này lẽ ra phải trông chừng chúng cháu nhưng chú ấy đang dần lẩm cẩm rồi và cháu lo không biết chú ấy sẽ làm gì nữa.”

Một người phụ nữ béo lùn xuất hiện cuối một trong mấy dãy kệ với vẻ lo lắng, trên trán dính một vệt đất, trên tay đeo găng làm vườn. Bà ta đang cầm một cặp kéo cắt cành. “Trời ạ, có chuyện gì vậy? Các cháu ổn…chứ…?”

Người này khựng lại khi thấy Talia cầm thuổng. Bà chậm rãi nhìn sang Lucy, thằng bé cười toe toét với bà, khoe ra kha khá răng.

Bà ta lùi lại. “Các người từ đảo ra phải không?”

“Phải,” Talia nói bằng giọng thẳng thừng. “Và cháu muốn nói chuyện với bác về mấy món đồ của B.L. Mack. Chúng có ở cửa hàng từ khi nào? Chúng có tốt như người ta bình chọn không? Chúng có vẻ nhẹ hơn cháu tưởng đấy.”

“Chúng cháu sẽ ra nghĩa trang,” Lucy thêm vào bằng giọng đều đều đầy đe dọa. “Ở đây có nhiều người chết không? Cháu hy vọng là có.”

Người phụ nữ trợn trừng mắt.

“Chúng ta sẽ không ra nghĩa trang,” Linus vội vã nói. “Cháu Talia đây có khu vườn đẹp nhất quả đất và được chăm sóc kỹ càng. Sao nhỉ, tôi không biết liệu mình đã từng thấy nơi nào không chê vào đâu được như vậy chưa.”

Lời này có vẻ chẳng khiến người phụ nữ kia bình tĩnh lại mấy, dù Talia rất hãnh diện. “Cảm ơn chú, chú Baker.” Con bé lại nhìn người kia. “Nhìn cách ăn mặc của chú ấy thì bác không nhận ra đâu, nhưng đôi khi chú Baker cũng có gu lắm đấy.”

Bà ta gật đầu, đầu giật lên rồi lại giật xuống. “Vậy thì… tốt.” Bà hắng giọng. “Cậu vừa nói là một khu vườn hả? Trên đảo à? Tôi tưởng đó là…” Bà tái mặt.

Talia nghiêng đầu. “Bác tưởng là gì ạ?”

“Là… Ờ. Không quan trọng đâu.” Bà vội vã liếc Linus rồi nở nụ cười gượng ép rất trắng trợn trên mặt. “Kể cho bác nghe về khu vườn của cháu đi, và bác sẽ xem xem mình có nghĩ ra được dụng cụ gì phù hợp với cháu không.”

“Ôi không!” Lucy rên rỉ. “Giờ bạn ấy sẽ không bao giờ ngậm miệng lại mất.”

Talia lờ thằng bé đi rồi bắt đầu giải thích vô cùng kỹ lưỡng về khu vườn của mình. Thật ra, kỹ lưỡng đến nỗi Linus tưởng con bé sẽ miêu tả từng tấc đất một. Và dù thầm đồng ý với Lucy nhưng anh vẫn tập trung vào người bán hàng, theo dõi xem có dấu hiệu gì tỏ ra rằng bà ta chỉ đang làm Talia vui lòng để đuổi họ đi hay không.

Tuy ban đầu trông rõ ràng là như vậy nhưng người phụ nữ bắt đầu thả lỏng và cắt lời Talia, hỏi những câu hỏi về độ pH trong đất, những loại hoa và cây mà con bé đang trồng. Trông bà có vẻ ấn tượng với hiểu biết của Talia và với những gì nó đã gây dựng nên.

Cuối cùng, bà nói, “Dù dụng cụ của B.L. Mack được coi là hàng cao cấp nhưng bác nhận ra chúng có xu hướng hỏng hóc nhanh hơn đấy. Người như cháu…”, bà hắng giọng, “Người biết mình đang làm gì, thì dùng đồ của Foxfaire thì tốt hơn đấy. Loại đó bền hơn và không đắt bằng. Đó là loại bác dùng ở cửa hàng và ở nhà.”

Talia đặt cái thuổng về lại trên giá với vẻ gần như sùng kính. “Foxfaire ạ? Nguyệt San Dụng Cụ Làm Vườn nói là hãng đó…”

“Nguyệt San Dụng Cụ Làm Vườn ấy à?” người phụ nữ cười khẩy. “Ôi cháu yêu ơi, Nguyệt San Dụng Cụ Làm Vườn giờ đã là Tuần San Dụng Cụ Làm Vườn của giới dụng cụ rồi. Tạp chí Dụng Cụ Làm Vườn Hai Tháng Một Lần mới là xu hướng. Đó là tạp chí mà ai nghiêm túc làm vườn cũng đọc.”

Talia thảng thốt. “Thế ạ?” Con bé ngẩng lên lườm Linus. “Tại sao cháu không biết điều này? Các chú còn giấu cháu chuyện gì nữa?”

Linus bất lực nhún vai. “Chú chẳng biết chuyện gì đang xảy ra cả.”

Người phụ nữ nheo mắt nhìn anh. “Cậu ổn chứ, thưa anh? Cậu có bị lẩm cẩm không?”

Linus thở dài trong khi Lucy cười khành khạch.

Sau khi tính toán, tổng số tiền khiến người ta bàng hoàng. Cả đời Linus chưa từng tiêu nhiều tiền đến vậy vào dụng cụ làm vườn.

Talia mỉm cười với người phụ nữ. “Bác đợi cháu một lát được không?”

Bà gật đầu.

Talia quay đi khỏi bà, nụ cười tắt ngấm. Trông con bé thật hoảng loạn. Nó túm tay Linus giật, kéo anh xuống. “Cháu không có đủ tiền,” nó thì thầm. “Và chúng ta không thể hạ gục bác ấy và ăn cắp đồ được, phải không? Vì làm vậy là sai trái.”

“Chúng ta tuyệt đối không thể hạ gục bà ấy và ăn cắp đồ được,” Linus nói.

Lucy đảo mắt. “Cháu biết chú sẽ nói vậy mà.” Thằng bé cau mày rồi đút tay vào túi quần. Nó lấy ra một nắm tiền nhăn nhúm đưa ra cho Talia. “Chỗ này đủ không, cậu nghĩ sao?”

Talia lắc đầu. “Không, Lucy. Cậu không làm vậy được. Tiền này để mua đĩa cho cậu mà.”

Lucy nhún vai. “Mình biết. Nhưng không phải tất cả số đĩa đều đã vỡ. Và dù sao những cái bị vỡ đều là lỗi của mình cả. Cậu cứ lấy đi.”

“Cất tiền của các cháu đi,” Linus khẽ nói. “Cả hai đứa.”

“Nhưng, dụng cụ của cháu…”

Anh bước tới quầy, thả tay lũ trẻ và lấy ví của mình ra. Anh mỉm cười yếu ớt với người phụ nữ khi đưa bà Thẻ Hội Viên Hàng Ăn, chiếc thẻ anh chỉ dùng trong trường hợp khẩn cấp. Bà đặt nó lên máy cà thẻ và gạt tay cầm sang để in nó lên hóa đơn.

Anh nghe thấy tiếng thì thầm sau lưng và ngoái lại nhìn, muốn chắc chắn rằng hai đứa trẻ không thật sự lên kế hoạch cướp cửa hàng đồ làm vườn. Thay vào đó, anh thấy Talia mỉm cười, mắt ươn ướt trong khi Lucy quàng tay ôm vai con bé.

Người phụ nữ hắng giọng, và Linus quay lại. Bà đưa anh cái thẻ và bắt đầu đóng gói số dụng cụ. Linus cảm thấy Talia bước tới bên cạnh mình, vươn người lên quầy, khua tay vì hoàn toàn không nhìn được trên mặt quầy. Người phụ nữ đưa túi đồ cho nó.

Bà lưỡng lự rồi nói “Khu vườn này của cháu ấy. Nghe dễ thương lắm.”

“Dễ thương thật mà,” Talia trả lời không chút kiêu ngạo.

“Liệu nó… Bác thích chụp ảnh vườn tược ở Marsyas.” Bà chỉ về phía cái bảng gỗ bần ghim ảnh của nhiều khu vườn khác nhau treo trên tường. “Ảnh của những người mua đồ ở đây. Mỗi khu vườn đều khác nhau, bác nghĩ vậy. Chúng khắc họa tính cách của những người chăm sóc chúng.”

“Trong vườn của chúng cháu không có xác chết đâu,” Lucy ân cần nói. “Nhưng ngoài việc đó ra, trông nó hoàn toàn giống Talia đấy.”

“Cháu nói vậy thì tốt rồi,” người phụ nữ yếu ớt nói. Bà lắc đầu. “Có lẽ… Nếu chú Baker đây thấy ổn, có lẽ một hôm nào đó bác ra đó thăm quan vườn của cháu được không? Vào mùa xuân, khi hoa cỏ đua nở? Hoặc sớm hơn, nếu được.”

“Ồ được chứ,” Talia nói, mắt lấp lánh. “Được chứ ạ. Chỉ có điều, không phải là chú Baker. Bác sẽ phải hỏi Arthur. Nhưng cháu tin là thầy sẽ đồng ý thôi. Chú Baker ở đây để đảm bảo rằng chúng cháu không chết đói hay bị đánh đập hay bị giam trong cũi. Chú ấy sắp về nhà rồi.”

Linus ngẩng đầu lên trần nhà, thầm cầu xin trời cao dẫn lối.

“Ồ!” người phụ nữ nói. “Vậy thì… tuyệt vời?”

Lucy gật đầu. “Quá tuyệt vời luôn. Nhưng chú Baker không phải hoàn toàn xấu xa đâu. Ý cháu là, phải, cháu đã cố dọa cho chú ấy rời đảo khi chú mới tới, nhưng giờ thì cháu mừng là chú ấy còn sống chứ không… phải là ngược lại.”

Linus thở dài.

“Tuyệt vời,” người phụ nữ yếu ớt nói. “Vậy thì vui quá. Bác sẽ gửi lời tới Arthur khi có thể ra đảo.”

Talia tặng bà một nụ cười chói sáng. “Cháu hy vọng là bác đã sẵn sàng để ngỡ ngàng. Vườn của cháu khiến mấy khu vườn trên bảng ghim ảnh của bác trông như rác.”

Đến lúc phải đi rồi. “Cảm ơn bà,” Linus vừa kiên quyết nói vừa túm cánh tay lũ trẻ và bắt đầu kéo chúng ra khỏi tiệm.

“Tạm biệt nhé, bác bán cây!” Lucy ré lên. “Hẹn bác một ngày rất không xa nhé!”

Khi họ trở lại dưới ánh nắng bên ngoài thì Linus mới hít thở lại được. Nhưng trước khi kịp nói ra suy nghĩ trong lòng, anh kinh ngạc khi chân phải của anh bị bao bọc thật chặt trong một cái ôm. Anh cúi xuống và thấy Talia đang bám lên chân mình. “Cảm ơn chú, chú Baker,” con bé khẽ nói. “Vừa rồi chú tốt bụng lắm ấy.”

Anh lưỡng lự, nhưng rồi cúi xuống và vỗ về mái đầu con bé qua cái mũi chóp nhọn, một việc mà kể cả mấy ngày trước anh cũng sẽ không dám làm. “Đừng bận tâm làm gì.”

“Chú ấy thật tuyệt vời và hào phóng,” Lucy nói, xoay một vòng trên hè phố, hai tay vươn ra vì những lý do mà Linus không hiểu nổi. “Và mình hy vọng là chú ấy nhớ mà đối xử tương tự với mình, để mình không phải tiêu tiền của mình, cảm thấy lạc lõng và phải mở cửa địa ngục và nhìn ngôi làng này bị nuốt chửng. Bởi vì việc ấy lại dễ dàng quá.”

Linus hầu như không có thời gian để tự hỏi tại sao những lời đe dọa của Lucy không dọa sợ anh nhiều như đã từng thì họ đã tiếp tục bước đi.

“Ở mãi ngoài kia à,” người đàn ông trong tiệm đĩa than thì thào, mắt lấp lánh và vằn vện tơ máu. Cậu ta có mái tóc dài để xõa xuống vai và trông như thể cần phải đi tắm.

Dĩ nhiên như vậy có nghĩa là Lucy mê mẩn cậu ta. “Mãi ngoài kia đấy,” thằng bé đồng tình. Nó đã trèo lên được mặt quầy và đang ngồi quỳ gối trước mặt người đàn ông. “Gọi anh là J-Bone đi, nghe có thủng chưa?” Có một người khác ở cuối cửa tiệm, nhìn họ đầy cảnh giác.

“Chú mày là, kiểu như…” J-Bone bắt chước tiếng nổ, xòe bung hai tay.

“Đúng vậy,” Lucy nói. “Là em đấy. Bùm.”

Linus ngay lập tức không tin tưởng được J-Bone vì có cái tên như vậy. Cậu ta nhìn xuống Talia, người vẫn ngồi trên sàn tiệm đĩa, vừa ngân nga vừa săm soi từng món dụng cụ mới. “Bạn nhỏ này có râu quai nón. Và là một cô bạn.”

“Râu mềm lắm,” Lucy nói. “Bạn ấy có đủ loại xà phòng dành cho râu. Chúng có mùi như hoa cỏ và đồ của con gái vậy.”

“Quá thiện lành,” J-Bone nói. “Anh nể đấy, cô bạn ạ.”

“Đây là cái bay,” Talia nói. “Cái bay này là của em.”

“Ngầu đét.” Cậu ta lại quay sang Lucy, ngồi cách mặt mình chỉ vài tấc. “Anh giúp gì được cho chú nhỉ, cậu bạn nhỏ?”

“Em cần có đĩa than,” Lucy tuyên bố. “Những đĩa khác của em đã vỡ sau khi em gặp ác mộng về việc bị nhện ăn thịt và em cần phải thay thế chúng. Chú Baker sẽ trả tiền, nên chúng ta không cần phải tiết kiệm.”

J-Bone gật đầu. “Anh không biết chú vừa nói cái gì, nhưng anh nghe thấy đĩa than, và đĩa than thì anh giúp được.” Cậu ta gật đầu về phía người đàn ông đứng ở cuối tiệm. “Anh và Marty có thể dàn xếp cho chú.”

“Người anh có mùi kỳ quá,” Lucy nói, vươn tới trước và hít hà thật sâu. “Như… cây cối vậy, nhưng không giống bất kỳ loại cây nào Talia trồng trong vườn.”

“Ồ phải,” J-Bone nói. “Anh tự trồng và hút…”

“Như vậy là quá đủ rồi đấy,” Linus nói. “Chúng tôi không cần biết bất kỳ điều gì về sinh hoạt ngoại khoá của cậu đâu.”

“Ông chú cổ lỗ sĩ này là ai?” J-Bone thì thầm.

“Chú Baker đấy,” Lucy thì thầm trả lời. “Chú ấy ở đây để đảm bảo rằng em không thiêu sống ai bằng quyền năng tâm trí rồi nuốt lấy linh hồn từ cái xác bốc khói của họ.”

“Đỉnh của chóp, bạn nhỏ ơi,” J-Bone nói, giơ tay lên và Lucy vui vẻ đập tay với cậu ta. “Ý anh là, anh mong là việc ấy không xảy ra với mình, nhưng chú mày cứ tự tin làm chính mình đi.” Cậu ta hất tóc ra sau lưng. “Chú đang kiếm đĩa gì?”

“The Big Bopper. Ritchie Valens. Buddy Holly ạ.”

“Òa. Hàng cổ à?”

“Loại ấy xua đuổi lũ nhện trong đầu em đi.”

“Anh hiểu được mà. Chú thích The King không?”

Lucy vừa cười khẩy vừa nhún nhảy trên đầu gối. “Em có thích The King không ấy à? Dĩ nhiên là em thích nhạc The King rồi. Em nghĩ bố đẻ của mình từng gặp ông ấy rồi.”

Linus lựa chọn việc không đặt câu hỏi theo sau lời ấy.

“Bố đẻ, hở?” J-Bone hỏi, nghiêng mình tới trước trên quầy.

“Ờ.” Mắt Lucy liếc ngang liếc dọc. “Ông ấy… không có ở đây.”

“Vô tích sự à?”

“Anh có thể cho là vậy. Ông ấy nhiều việc lắm.”

“Ôi bạn ơi, tôi hiểu mà. Bố anh nghĩ anh chẳng làm được cái gì cho đời cả, chú biết không? Nghĩ là anh nên làm nhiều thứ khác hơn là cái hàng đĩa này.”

Lucy sửng sốt. “Nhưng… Nhưng hàng đĩa là nơi tuyệt vời nhất quả đất luôn.”

“Đúng không? Ông ấy muốn anh làm luật sư về thương tích cá nhân như ông ấy.”

Lucy méo mặt. “Bố em biết nhiều luật sư thương tích cá nhân lắm. Tin lời em đi, anh ở đây thì tốt hơn đấy.”

“Đấy cũng là cái anh nghĩ. Có từng nghe nói tới Santo và Johnny chưa?”

“Sleep Walk là bài tủ của em đó, người ơi!” Lucy thốt lên. “Nhưng em không có cái đĩa đó.”

“May cho chú đấy. Vì anh nghĩ anh còn một bản ở đằng cuối tiệm. Để xem chúng ta có tìm ra nó không nào.”

Lucy nhảy khỏi quầy khi J-Bone đi vòng qua. Họ bắt đầu đi về phía cuối tiệm. “Ây, Marty!” J-Bone nói. “Có anh bạn nhỏ này đang kiếm mấy đĩa nhạc cũ hàng tuyển. Hãy xem chúng ta có giúp được chú em này không nào.”

“Quá thiện lành luôn,” Lucy thảng thốt, sùng bái ngước lên nhìn J-Bone. “Nhạc cũ hàng tuyển ấy!”

Marty không nói gì. Cậu ta chỉ gật đầu và quay lưng đi sâu hơn vào trong tiệm.

Linus không thích việc họ đang đi xa khỏi anh như vậy. Anh nhìn xuống Talia. “Chú sẽ đi xem họ có ổn không. Cháu ngồi một mình ở đây được chứ?”

Con bé đảo mắt. “Cháu đã hai trăm sáu mươi ba tuổi rồi. Cháu tin là mình sẽ ổn thôi.”

“Đừng ra khỏi tiệm nhé.”

Nó lờ anh đi, tiếp tục trìu mến lấy ngón tay mân mê mấy dụng cụ mới.

Lucy, J-Bone và Marty đã đi mất dạng. Linus đi theo hướng họ biến mất. Sau khúc quanh gần cuối cửa hàng là một cánh cửa đã đóng lại. Linus thử mở cửa, rồi nhận ra rằng cửa đã khóa. Anh cau mày và lại ấn lên cửa.

Cánh cửa không hề nhúc nhích.

Từ bên trong vang lên tiếng kêu và tiếng va đập ầm ĩ.

Linus không hề phân vân. Anh tông cả người lên cửa. Anh nghe thấy tiếng cánh cửa nứt ra trong khuôn. Anh lùi lại và lao về phía trước, vai đâm sầm lên nó.

Cánh cửa bật tung khỏi bản lề, đập xuống sàn.

Linus gần như lảo đảo nhưng đã xoay sở lấy lại thăng bằng vào phút cuối.

Ở bên trong, anh thấy Marty rũ rượi tựa lên bức tường đằng xa. J-Bone đứng trước cậu ta, vẻ ghê tởm hiện lên trên mặt.

Lucy đang lướt qua đống đĩa than xếp trong một cái rổ.

“Đã có chuyện gì?” Linus tra hỏi.

Lucy ngẩng lên nhìn anh và nhún vai. “Ồ, anh ta bắt đầu nói về Giê-su và Chúa và rằng cháu là thứ quái thai dị dạng hay gì đó.” Thằng bé gật đầu về phía Marty bất tỉnh. Treo trên dây chuyền quanh cổ cậu ta là một cây thập giá trang trí bằng bạc. “Anh ta cố dí thứ đó vào mặt cháu.” Lucy vừa bật cười vừa lắc đầu. “Anh ta nghĩ cháu là gì chứ, ma cà rồng à? Thật ngốc nghếch. Cháu thích thập giá mà. Thứ đó chỉ là hai cái que ghép vào với nhau, nhưng lại có ý nghĩa lớn lao như vậy với rất nhiều người. Cháu đã thử tạo ra một biểu tượng bằng que kẹo mút để đem đi bán và làm giàu, nhưng Arthur nói như vậy là không đúng đắn. Nhìn này chú Linus, Chuck Berry này, Thiện lành quá!” Nó vừa phấn khích reo hò vừa lấy một cái đĩa ra khỏi rổ.

“Không ngầu tí nào, bạn ạ,” J-Bone mắng mỏ Marty đang bất tỉnh. “Thật luôn ấy. Âm nhạc là dành cho tất cả mọi người mà.” Cậu ta thúc vào chân Marty. “Òa. Hoàn toàn bất tỉnh. Anh bạn nhỏ này, chú mày là thứ dữ đấy.”

“Dữ lắm luôn,” Lucy tán thành.

Linus lại nhìn xuống Marty. Cậu ta đang thở. Có lẽ cậu ta sẽ tỉnh dậy cùng cơn đau đầu không hơn. Linus nghĩ tới chuyện tặng cho cậu ta một cục u khác trên đầu bằng một cú đá đúng mục tiêu, nhưng vai anh đau nhức và anh đã tiêu tốn quá đủ năng lượng vào lúc này. “Hắn có làm đau cháu không?”

Lucy ngẩng lên khỏi cái đĩa Chuck Berry. “Sao giọng chú lại như vậy?”

“Như thế nào?”

“Như thể chú đang giận vậy. Chú giận cháu à?” Lucy cau mày. “Cháu không làm gì đâu, thật đấy.”

“Thật mà,” J-Bone nói. “Marty chiến lắm, anh không biết đâu.”

Linus lắc đầu. “Chú không bao giờ giận cháu được. Không phải vì chuyện này. Nếu giọng chú nghe có tức giận, thì đó là vì cái… cái tên này, không phải vì cháu.”

“Ồ! Vì chú quý cháu, hở?”

Đúng vậy. Trời cao phù hộ anh, đúng là vậy. Anh vô cùng yêu quý nó. Thật ra là yêu quý tất cả lũ trẻ. “Từa tựa vậy.”

Lucy gật đầu và quay lại với cái giỏ. “Cháu tìm ra sáu cái đĩa cháu muốn mua. Cháu mua sáu cái được không?”

“Thì mua sáu cái đi.”

Anh tới bên Lucy để giúp thằng bé cầm chỗ đĩa nó tìm được trước khi nó đánh rơi cái nào. Họ bỏ mặc Marty trên sàn và quay ra ngoài cửa…

Chỉ để thấy túi dụng cụ của Talia trên sàn. Nhưng không có Talia ở đó.

Tim Linus vọt lên cổ. Anh chỉ mới quay lưng có vài giây và…

Anh thấy con bé đứng ở đầu tiệm, nhìn ra ngoài cửa kính. Có một bé gái đứng trên hè phố bên ngoài, tầm năm sáu tuổi không hơn. Cô bé đang cười, mái tóc sẫm màu thắt thành hai bím trên vai. Đứa bé áp tay lên kính cửa. Talia cũng làm vậy. Tay chúng cùng một cỡ và hoàn hảo trùng lên nhau. Talia bật cười, và đứa bé kia mỉm cười.

Đúng vậy, nó mỉm cười, cho tới khi một người phụ nữ chạy dọc vỉa hè, túm nó ra xa, trên mặt là vẻ khiếp hãi. Cô ta ôm đứa bé vào lòng, quay mặt nó vào vai mình. Cô ta lườm Talia qua lớp kính. “Sao mày dám làm vậy?” cô ta gắt lên. “Để con gái tao yên, thứ quái dị này!”

Linus giận dữ đi tới. “Chà, nghe này—”

Nhưng người phụ nữ đã nhổ nước bọt lên kính cửa rồi quay mặt và vội vã chạy đi, ôm chặt bé gái trong ngực.

“Bà cô đó xấu tính quá,” Lucy thì thầm với Linus. “Chú có muốn cháu ném cô ta lên tường như đã làm với Marty không? Làm vậy thì có thiện lành không?”

“Không,” Linus nói, kéo theo Lucy. “Như vậy là không thiện lành đâu. Trường hợp duy nhất mà cháu nên làm vậy là khi cháu cần bảo vệ bản thân hoặc người khác. Cô ta xấu xa, nhưng chỉ dùng lời nói mà thôi.”

“Lời nói cũng có thể gây tổn thương vậy,” Lucy nói với anh.

“Chú biết. Nhưng chúng ta phải chọn lọc và chọn lựa xem mình đấu tranh vì cái gì. Chỉ vì có ai đó cư xử kiểu này, không có nghĩa là chúng ta phải đáp trả theo cách tương tự. Đó là điểm khiến chúng ta khác biệt. Đó là điều làm chúng ta tốt đẹp.”

“Anh béo đúng đấy,” J-Bone nói, đi đến sau lưng họ. “Người ta phèn lắm, nhưng đôi khi, họ cứ nên chìm nghỉm trong bể phèn của chính họ mà chẳng đáng được chúng ta giúp đâu.”

Linus chắc chắn rằng đó hoàn toàn không phải ý anh muốn nói. Anh cũng rất không hài lòng với biệt danh mới này.

Talia vẫn đang đứng bên cửa kính. Bãi nước bọt của người phụ nữ kia chảy xuống trên kính. Trông Talia không quá buồn bã, nhưng anh không biết được. Con bé có vẻ ngạc nhiên khi Lucy và Linus xuất hiện đằng sau nó.

“Việc ấy kỳ quặc quá, ha?” con bé nói. Nó lắc đầu. “Con người lạ thật đấy.”

“Cháu ổn chứ?”

Nó nhún vai. “Bé gái kia tử tế đấy. Bạn ấy nói bạn ấy thích râu của cháu. Chỉ có mụ già kia mới khốn nạn thôi.”

“Cô ta… Người phụ nữ kia không…”

“Cháu biết cô ta cố ý hay không,” Talia nhẹ giọng. “Cháu từng thấy cảnh này rồi. Thật tồi tệ, nhưng đây không phải việc gì cháu chưa từng đối mặt đâu. Nhưng mà vui phết, phải không?”

Linus không tìm thấy điều gì vui vẻ trong chuyện này cả. “Cái gì vui cơ?”

“Rằng ngoài kia có nhiều hy vọng đến thế ngay cả khi trông chẳng có vẻ gì là vậy.”

Anh sửng sốt. “Ý cháu là như thế nào?”

“Bé gái ấy. Cô bé không sợ cháu. Bạn ấy rất tử tế. Bạn ấy không quan tâm đến ngoại hình của cháu. Như thế có nghĩa là bạn ấy có thể tự đưa ra quyết định. Có thể người phụ nữ đó sẽ nói với bạn ấy rằng cháu xấu xa. Và có thể bạn ấy sẽ tin là vậy. Hoặc có thể bạn ấy sẽ không tin chút nào. Arthur nói với cháu rằng để thay đổi suy nghĩ của nhiều người, chúng ta phải bắt đầu với suy nghĩ của vài người đã. Bạn ấy chỉ là một người mà thôi. Nhưng bà cô kia cũng vậy.” Talia cười toe toét. “Giờ chúng ta có thể ra nghĩa trang chưa ạ? Cháu muốn thử cái thuổng mới này. Cậu mua gì rồi, Lucy?”

“Chuck Berry,” Lucy tự hào nói. “Mình cũng đã ném Marty lên tường.”

“Làm nứt cả vữa đấy.” J-Bone vừa nói vừa cười ha hả. “Ghê gớm lắm luôn.”

“Òa,” Talia nói, vẻ ấn tượng trong mức phù hợp. “Anh ta chết chưa? Chúng ta có phải chôn anh ta không? Để mình đi lấy dụng cụ, và chúng ta có thể…”

“Không, anh ta chưa chết. Mình không nghĩ như vậy sẽ khiến chú Baker vui vẻ gì, nên mình để anh ta giữ yên nội tạng ở trong người.”

Talia thở dài. “Có lẽ như vậy là tốt nhất. Mình thích Chuck Berry lắm. Mình nóng lòng muốn nghe cái đĩa đó lắm.”

“Đúng không? Nó thiện lành lắm luôn!” Thằng bé ngẩng lên nhìn Linus. “Bây giờ chúng ta có thể trả tiền đĩa không ạ? Chúng ta không thể ăn cắp đĩa được vì J-Bone không phải là một người cổ lỗ sĩ. Đúng không ạ?”

Giọng thằng bé nghe như thể dẫu là thế nhưng nó vẫn sẽ đồng ý với việc ăn cắp đĩa vậy.

“Đúng vậy, cậu ta không cổ lỗ sĩ,” Linus nói, thầm thề rằng sẽ không bao giờ lặp lại cụm từ ấy nữa. “Chúng ta có thể trả tiền…”

“Thôi,” J-Bone nói. “Tiền của anh không dùng được ở đây đâu. Số đĩa đó là miễn phí cho chú mày luôn, anh bạn nhỏ ạ. Xin lỗi vì vụ Marty-cố-trục-vong-chú mày nhé. Đưa tay đây nào.”

Lucy vui vẻ bắt tay cậu ta. “Linus! Cháu được cho đĩa miễn phí này. Thế này còn tuyệt hơn cả ăn cắp nữa.”

Linus thở dài. “Đấy không phải… Không hiểu tại sao mình còn phí hơi nữa.”

“Cổ lỗ sĩ quá đấy, anh béo ạ,” Lucy lầm bầm, nhưng nó huých vai lên hông Linus, như thể để bày tỏ rằng ý nó không phải vậy.

Vào lúc hai rưỡi, họ gặp những người khác trước quán kem. Người đi đường tránh xa họ và công khai nhìn chằm chằm, nhưng chẳng đứa trẻ nào có vẻ quan tâm. Chúng đang nghe Chauncey huyên thuyên, thằng bé trông như đang đội một cái mũ khác so với cái trước đây. Nó đang khua tay múa chân đầy phấn khích trong khi Zoe và Arthur đứng nhìn, vẻ thích thú.

“Họ đây rồi!” Chauncey thốt lên. “Lucy! Talia! Các cậu sẽ không tưởng tượng được chuyện gì đã xảy ra đâu! Xem mình có gì này.” Thằng bé nhấc cái mũ lên khỏi đầu, hai cọng mắt phấn khích giãn ra khi mắt nó vươn lên cao. Trong những xúc tu, nó đang nắm một cái mũ quen mắt trông như…”

“Bác ấy trao nó cho mình,” Chauncey nghẹn ngào. “Mình không phải hỏi xin gì cả. Tất cả những gì mình làm là nói với nhân viên hành lý rằng mình nghĩ bác ấy là người vĩ đại nhất từng sống trên đời và rằng khi mình lớn lên, mình muốn giống y như bác, và bác ấy trao mũ cho mình. Các cậu tin được không?” Thằng bé đặt cái mũ lại lên đầu. “Trông mũ thế nào?”

“Bảnh lắm đấy,” Linus nói. “Chú gần như ao ước rằng mình có va li để có thể đưa cho cháu xách hộ đấy.”

Chauncey ré lên. “Chú nói thật chứ? Chú nghĩ vậy thật chứ?”

“Trông đẹp đấy,” Lucy nói, vỗ vỗ mặt trên mũ. “Có khi chúng ta có thể tìm ra cách may một cái áo khoác cùng bộ. Mình nghĩ mình thích cái này hơn cái mũ kia của cậu, dù cái kia cũng đẹp.”

“Cảm ơn cậu, Lucy. Luôn sẵn sàng phục vụ cậu.”

“Và các con có gì ở đây nhỉ?” Arthur hỏi, ngồi xổm xuống khi Talia và Lucy khoe kho tàng của mình với anh. “À! Cái thuổng mới xinh làm sao. Và chỗ đĩa than này nữa. Chúng ta sẽ phải bật chúng lên ngay khi về đảo mới được.”

“Mọi chuyện ổn cả chứ?” Zoe khẽ hỏi, khi lũ trẻ không để ý.

“Nếu bà hỏi liệu có tội ác nào diễn ra không thì… đại loại là có. Nhưng không phải chuyện gì mà tôi không xử lý được.”

“Chúng ta có phải lo lắng về chuyện gì không?”

Linus lắc đầu. “Chúng ta sẽ bàn thêm khi không có nhiều đôi tai tí hon xung quanh đến vậy. Tôi nghĩ chúng không cần phải biết Lucy đã…”

“Mình đã ném một thằng cha cổ lỗ sĩ tên Marty lên tường sau khi hắn cố gắng trục vong mình trong phòng nhỏ khóa trái cửa. Và rồi mình được J-Bone tặng chỗ đĩa này miễn phí. Không phải thiện lành lắm sao?”

“Ồ!,” mấy đứa còn lại cảm thán.

Linus thở dài.

“Ta nghĩ đến lúc ăn kem rồi,” Arthur nói.

Quán kem cũ kỹ theo cách đầy vui tươi. Có những ghế xoay bằng nhựa màu đỏ đặt trước quầy, và Little Richard đang than thở ở trên cao về một cô gái tên Sue, tutti frutti, ôi Rudy. Trong quán bật đèn sáng trưng, tường sơn màu đỏ và hồng kẹo ngọt. Chuông leng keng kêu khi họ bước qua cửa.

Một người đàn ông đang quay lưng về phía họ, cúi mình trên quầy đằng sau hàng dãy chậu kem màu sắc và đặc lỏng khác nhau. Anh ta quay lại, nụ cười đã hiện lên trên mặt và nói, “Xin chào! Tôi có thể…” Nụ cười héo đi. Mắt anh ta mở to.

Lũ trẻ áp tay lên kính tủ, nhìn xuống các loại kem. “Òa,” Phee nói. “Mình sẽ ăn mọi vị cùng lúc. Mình tuyệt đối sẽ phát ốm vì kem đấy.”

“Con có thể chọn hai vị,” Arthur bảo con bé. “Không hơn. Con không muốn cơm tối mất ngon đâu.”

“Có chứ, con muốn vậy mà,” con bé đảm bảo với anh. “Con muốn nó mất ngon lắm đây.”

“Các người là… Các người…” Người đàn ông sau quầy lắp bắp.

“Phải,” Linus nói. “Tôi là tôi. Cảm ơn vì đã nhận ra. Các cháu, làm ơn xếp hàng lại nào. Từng đứa một, để quý ông đây không choáng ngợp…”

“Không,” người này nói, điên cuồng lắc đầu. “Tuyệt đối không. Các người phải đi ngay.”

Lũ trẻ lặng đi.

Trước khi Linus kịp mở miệng, nỗi sợ hãi bắt đầu trào dâng trong anh, Arthur đã giành trước. “Sao cơ?”

Mặt người đàn ông dần đỏ lên. Gân xanh nổi lên trên trán hắn. “Tôi không phục vụ cái loại như các người ở đây.”

Zoe chớp mắt. “Cái gì cơ?”

Hắn chỉ lên một mặt tường. Ở đó, hiện hữu mọi lúc mọi nơi, là một tấm áp phích quen thuộc. THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI!

“Tôi có quyền từ chối phục vụ,” hắn nói. “Với bất kỳ ai tôi thích. Tôi thấy có chuyện, tôi phải nói. Và tôi đang nói rằng không đời nào các người có được bất kỳ thứ gì từ tôi.” Hắn lườm Theodore, thằng bé đang đậu trên vai Sal. “Các người không được chào đón trong tiệm của tôi. Các người không được chào đón trong làng này. Tôi không quan tâm chúng tôi được trả bao nhiêu tiền để giữ im lặng. Quay về cái đảo chết tiệt của các người đi.”

“Anh câm cái miệng thối của anh lại!” Linus gắt lên. “Anh không có quyền…”

“Tôi có đấy,” hắn cãi lại, đập tay lên mặt quầy. Âm thanh đó ồn ào vang vọng quanh họ và…

Theodore quang quác đầy giận dữ khi nơi neo đậu của thằng bé đột ngột biến mất. Quần áo Sal đang mặc bỗng nhiên rơi xuống khi nó biến thành một con phốc sóc. Linus nhớ lại lần đầu tiên thằng bé làm vậy khi Linus mới lên đảo. Nó đã biến hình vì sợ hãi.

Tên này đã dọa Sal sợ đến mức thằng bé biến thành chó.

Có những tiếng anh ách đáng thương vang lên từ đống quần áo khi Sal vật lộn để thoát ra. Phee và Talia cúi xuống giúp thằng bé trong khi Theodore bay sang Zoe. Chauncey chạy sang núp đằng sau Linus, ngó ra từ sau chân anh, cái mũ mới của nó gần như rơi xuống sàn.

Lucy nhìn xuống Sal, hai chân trước của nó vẫn kẹt trong áo. Phee và Talia đang khe khẽ thì thầm với thằng bé, nói với nó rằng không sao đâu, hãy ngừng cựa quậy để chúng có thể gỡ nó ra nào. Lucy quay lại về phía người đàn ông sau quầy. “Lẽ ra ông không nên dọa anh tôi,” nó nói bằng giọng vô cảm. “Tôi có thể bắt ông làm nhiều việc. Nhiều việc xấu xa.”

Hắn mở miệng để quát tháo, nhưng bị chặn họng khi Arthur Parnassus nói, “Lucy.”

Linus chưa từng nghe Arthur nói bằng giọng người ấy dùng ngay lúc đó. Giọng nói ấy lạnh lùng và khắc nghiệt, và dù chỉ là một từ duy nhất, Linus có cảm giác như lời ấy đang nghiến lên da thịt mình. Anh quay sang và thấy Arthur đang nhìn gã đàn ông sau quầy chằm chằm, mắt nheo lại, tay gập lại hai bên người.

Người sau quầy có vẻ không sợ lũ trẻ.

Nhưng hắn sợ Arthur.

“Sao anh dám?” Arthur khẽ cất tiếng, và Linus nghĩ đến một con hổ đang rình mồi. “Sao anh dám nói năng kiểu ấy với chúng? Chúng là trẻ con đấy.”

“Tôi không quan tâm,” hắn nói, bước lùi ra sau. “Chúng là đám quái thai dị dạng. Tôi biết loại như chúng làm được những gì…”

Arthur tiến lên một bước. “Anh nên lo lắng hơn về những gì tôi làm được đấy.”

Trong phòng đã nóng hơn so với chỉ vài giây trước đó.

Nóng hơn rất nhiều.

“Arthur, đừng,” Zoe nói. “Không phải ở đây. Không phải trước mặt bọn trẻ. Cậu phải nghĩ thông suốt chuyện này.”

Arthur lờ bà đi. “Tất cả những gì chúng muốn là ăn kem. Có vậy thôi. Chúng tôi sẽ trả tiền và chúng sẽ vui vẻ, và rồi chúng tôi sẽ đi. Sao ngài dám, thưa ngài!”

Linus bước tới trước mặt Arthur. Anh quay lưng về phía gã đàn ông sau quầy và ngẩng lên. Anh đưa hai tay lên ôm lấy mặt Arthur. Anh cảm thấy như người ấy đang thiêu đốt từ trong ra ngoài. “Đây không phải là cách hay để giải quyết chuyện này đâu.”

Arthur cố quay mặt khỏi tay anh, nhưng Linus giữ chặt. “Hắn không thể…”

“Hắn có thể đấy,” Linus khẽ nói. “Và thật không công bằng. Không công bằng chút nào. Nhưng anh phải nhớ vị trí của mình. Anh phải nhớ những ai đang noi gương mình. Những đứa trẻ mình đang chăm sóc. Và chúng sẽ nghĩ gì nữa. Vì những việc anh làm ở đây, bây giờ, sẽ theo chúng đến hết đời.”

Mắt Arthur lóe lên lần nữa trước khi anh sụm xuống. Anh cố mỉm cười, và cũng gần thành công. “Anh nói phải, dĩ nhiên là vậy. Thật không…”

Chuông trên cửa lại leng keng, “Ở đây có chuyện gì vậy?”

Linus buông tay và lùi lại.

“Helen!” gã đàn ông sau quầy hô lên. “Những… Những thứ này không chịu đi.”

“Chà! Trông họ có vẻ như chưa có kem, Norman ạ, nên tôi nghĩ là không đâu.”

Là người phụ nữ béo lùn ở cửa hàng kim khí. Trên trán bà vẫn còn vết bùn đất dù bà đã cởi găng ra. Trông bà không hài lòng chút nào. Linus hy vọng họ sẽ không gặp thêm rắc rối nào khác.

“Tôi không phục vụ chúng,” Normal gầm ghè. “Sẽ không có chuyện đó đâu.”

Người phụ nữ - Helen - duyên dáng khịt mũi. “Việc ấy không phải do anh quyết định. Tôi không muốn mang chuyện anh đang xua đuổi khách hàng tiềm năng như thế nào ra nói ở cuộc họp hội đồng tiếp theo đâu. Hợp đồng thuê nhà của anh sắp phải xét lại sau năm mới, đúng không? Anh mà không được thì tiếc lắm đây.”

Linus nghĩ gân xanh trên trán Norman chuẩn bị nổ tung. “Bà sẽ không làm vậy đâu.”

Helen nhướn mày. “Anh thật sự muốn biết à?”

“Tôi sẽ không phục vụ chúng!”

“Vậy thì ra đằng sau đi và tôi sẽ xử lý việc này.”

“Nhưng…”

“Norman.”

Linus tưởng Norman sẽ tiếp tục cự cãi. Thay vào đó, hắn lườm lũ trẻ và Arthur lần nữa rồi quay gót và huỳnh huỵch xông qua một cánh cửa hai chiều. Cửa đập đánh rầm lên tường.

Helen thở dài. “Quả là một thằng khốn dở người.”

“Khi lớn lên cháu muốn trở thành người như bác,” Talia thì thào khiếp sợ. Phee đứng cạnh con bé, gật đầu đồng tình. Nó đang ôm Sal trong tay, mặt thằng bé vùi lên cổ nó.

Helen nhăn mặt. “Ôi! Đừng để ý đến bác. Lẽ ra bác không nên nói vậy. Đừng bao giờ chửi thề, các cháu ạ. Nghe chưa?”

Lũ trẻ gật đầu, nhưng Linus đã thấy được Lucy vui sướng mấp máy môi kêu thằng khốn dở người.

“Bà là ai thế?” Zoe nghi hoặc hỏi.

Người phụ nữ mỉm cười với bà. “Tôi là chủ cửa hàng dụng cụ. Lúc nãy tôi vừa có một cuộc thảo luận vô cùng thú vị với cháu Talia đây về khu vườn của cháu. Cô bé hiểu sâu biết rộng lắm.”

“Helen cũng là thị trưởng của Marsyas,” Arthur nói. Bất cứ thứ gì vừa thiêu đốt trong anh có vẻ như đã dịu đi. Anh đã trấn tĩnh lại và một lần nữa trông lại bình thản.

“Và công việc ấy nữa,” Helen đồng tình. “Arthur, thật vui vì được gặp lại cậu.”

“Thị trưởng ư?” Talia hỏi. “Việc gì bác cũng làm ạ?”

Linus phải đồng ý với con bé. Anh đã không lường trước được chuyện đó.

“Cháu sẽ phải thấy vậy đấy,” Helen nói. Bà liếc cánh cửa, vẫn đang đu đưa trên bản lề. “Và rõ ràng trong đó có cả việc xử lý hậu quả cho đám đàn ông cáu bẳn. Thật luôn. Sau tất cả những dọa nạt quát tháo, bác để ý thấy đàn ông rất dễ dàng nhụt chí. Rặt mấy bông tuyết thủy tinh, bọn họ là vậy đấy.”

“Cháu không vậy nhé,” Lucy nghiêm túc nói với bà. “Cháu sẽ khiến hắn ta nghĩ rằng da hắn đang bị luộc bong hết ra trước khi bác đến đây. Nhưng cháu vẫn là đàn ông nhé.”

Helen trông sững sờ, nhưng nhanh chóng hoàn hồn. “Chà, bác mừng là mình đã xuất hiện vào lúc ấy. Và bác nghĩ cháu vẫn còn một chặng đường dài để đi trước khi trở thành đàn ông. Nhưng bác có hy vọng rằng cháu sẽ là một người đàn ông tốt đẹp hơn. Quanh cháu rõ ràng toàn người tốt cả.”

Lucy cười toe toét với bà.

Bà vỗ tay. “Kem nào. Không phải đó là lý do tại sao các cháu đến đây à?”

“Bác cũng phục vụ kem được ạ?” Talia hỏi.

Helen vừa gật đầu vừa đi vòng qua quầy đến chỗ Norman đứng lúc nãy. “Đó là công việc đầu tiên của bác. Vào năm mười bảy tuổi. Khi ấy bác làm ở một quán kem khác, nhưng bác nghĩ bác vẫn nhớ cách dùng kẹp gắp kem. Bác quen cậu Arthur đây như vậy đấy. Khi còn trẻ con cậu bé này thường đến đây ăn kem.”

Chuyện ấy khiến Linus chú ý.

“Arthur từng là trẻ con ư?” Phee hỏi, vẻ sửng sốt.

“Sao con lại nghĩ là không nhỉ?” Arthur hỏi, bế Sal lên từ tay con bé.

“Con không biết. Con… đoán vậy, con đã luôn tưởng là trước kia trông thầy cũng như bây giờ.”

“Ồ! Nói vậy chắc chắn là gần đúng rồi đấy,” Helen nói. “Cậu ấy vẫn ăn mặc như bây giờ, ít ra là vậy. Như người trưởng thành tí hon nhất thế giới vậy. Lúc nào cũng lịch sự. Cậu ấy thích vị anh đào nhất, nếu bác nhớ không nhầm.”

Mọi người chậm rãi quay sang nhìn Arthur chằm chằm. Cả Linus cũng nhìn anh.

Arthur nhún vai. “Tôi thích màu hồng của vị kem đó. Các con, xếp hàng nào. Linus, anh làm ơn giúp Sal nhé? Tôi nghĩ thằng bé sẽ muốn như vậy.”

Linus không làm được gì ngoài ngơ ngẩn gật đầu. Đầu anh đang chạy rần rần, và anh có nhiều câu hỏi đến nỗi hầu như không thể suy nghĩ mạch lạc được. Chauncey đưa anh quần áo của Sal. Anh kẹp chúng dưới nách khi Arthur trao Sal cho anh.

Sal đang run lẩy bẩy, nhưng thằng bé cuộn tròn áp lên người Linus.

“Có phòng vệ sinh đằng sau cậu đấy,” Helen nói khi Lucy bắt đầu hỏi bà liệu trong kem vị hạt dẻ cười có bọ không. “Để cho riêng tư.”

“Cảm ơn anh,” Arthur vừa thì thầm vừa vuốt một ngón tay dọc lưng Sal.

“Vì chuyện gì cơ?” Linus hỏi.

Arthur nhìn vào mắt anh. “Anh biết là chuyện gì mà. Lẽ ra tôi không nên để gã đó chọc tức mình như vậy.”

Linus lắc đầu. “Đó không phải… Tôi có làm gì đâu.”

“Có mà,” Arthur nói. “Ngay cả khi anh không tin là vậy, tôi cũng sẽ tin đủ cho cả hai ta. Anh là một người tốt đẹp, Linus Baker ạ. Tôi vô cùng vui sướng khi được quen biết anh.”

Linus nặng nề nuốt khan rồi quay lưng đi về phía phòng vệ sinh.

Đây là nhà vệ sinh trọng công năng và dành cho mọi giới, trong có một bồn rửa tay và một bệ xí. Anh đặt quần áo của Sal xuống và tựa lưng lên tường.

“Không sao đâu,” anh nói với chú chó đang run rẩy trong vòng tay mình. “Chú biết đôi khi cuộc đời có thể rất đáng sợ. Nhưng chú cũng biết là Arthur và Zoe sẽ không để cháu chịu bất kỳ tổn thương nào. Và Talia hay Phee cũng vậy. Hay Theodore hay Chauncey hay Lucy. Thật ra, chú nghĩ họ sẽ làm mọi thứ để cháu được an toàn. Cháu có nghe thấy lúc Lucy gọi cháu là anh trai chưa? Chú nghĩ những đứa trẻ khác cũng cảm thấy như vậy đấy.”

Sal khẽ ư ử, cái mũi lạnh toát chạm lên cổ Linus.

“Thật không công bằng,” Linus nói, nhìn vào khoảng không. “Một số người có thể cư xử như vậy. Nhưng miễn cháu nhớ rằng hãy sống ngay thẳng và nhân hậu như con người cháu mà chú vẫn biết, về lâu dài những gì đám người đó nghĩ sẽ chẳng quan trọng gì đâu. Lòng thù ghét trông rất to lớn, nhưng chú nghĩ cháu sẽ hiểu được chỉ là có đôi ba người la hét, nóng lòng muốn người ta nghe mình nói mà thôi. Có khi cháu sẽ chẳng bao giờ có thể thay đổi suy nghĩ của họ, nhưng miễn cháu nhớ là mình không đơn độc, cháu sẽ vượt qua những kẻ ấy thôi.”

Sal sủa vài tiếng.

“Phải, tên đó quả là một thằng khốn dở người, phải không? Giờ thì, chú sẽ đứng ngoài cửa và đợi cháu biến hình lại và mặc đồ nhé. Và rồi chúng ta sẽ ra ngoài và ăn kem. Dẫu rằng có lẽ chú không nên ăn, nói cho cùng thì thứ ấy không tốt cho vòng eo. Chú đã để mắt đến vị bạc hà hạt sô cô la rồi đấy. Chú xứng đáng nhận được chút phần thưởng. Chú nghĩ cháu cũng vậy. Cháu thấy sao?”

Sal ngọ nguậy trong tay anh.

“Tốt. Tốt hơn rồi đấy. Và nếu có lúc nào đó cháu cảm thấy sợ hãi như thế này, không có gì phải ngại khi biến hình như cháu vừa làm hết, miễn là cháu nhớ tìm cách trở lại.” Anh đặt Sal xuống. Sal vẫy cái đuôi tí hon với anh. “Chú sẽ ở ngay ngoài cửa nhé.”

Anh ra khỏi cửa, đóng lại sau lưng. Anh nghe thấy âm thanh như tiếng xương răng rắc và lách cách, theo sau là tiếng thở dài nặng nề. Ngoài cửa hàng, Lucy, Talia và Phee đang ngồi trong ghế lô. Bằng cách nào đó Lucy đã quệt được kem lên tóc mình. Chauncey đang bưng cốc giấy đi về phía chúng, mũ nhân viên hành lý ngộ nghĩnh đội trên đầu. Zoe đang đứng cạnh bàn, giơ thìa lên cho Theodore, thằng bé thè lưỡi liếm láp, mắt đê mê trợn ngược.

Arthur đang đứng bên quầy, nhỏ giọng trò chuyện với Helen. Linus nhìn bà vươn tay sang đặt lên tay người kia.

“Được rồi,” một giọng nói vang lên qua cửa. “Cháu sẵn sàng rồi.”

“Thế thì tốt,” Linus nói. “Vậy ra đây xem nào.”

Cửa mở ra. Sal trông có chút ngượng ngùng, tay xoa xoa gáy.

“Cháu tôi đây rồi,” Linus nói. “Chuẩn không cần chỉnh nhé.”

Sal gật đầu, mắt nhìn ra chỗ khác. “Chú Linus ơi?”

“Ừ?”

Hai tay Sal siết lại thành nắm đấm. “Ý hắn là sao?”

“Về chuyện gì?”

Sal ngước lên nhìn anh rồi lại quay đi. “Hắn nói… Hắn nói hắn không quan tâm hắn được trả bao nhiêu tiền để giữ im lặng. Như vậy là có ý gì?”

Dĩ nhiên Sal đã để ý đến chi tiết ấy. Linus lưỡng lự, cố lựa lời để nói. “Hắn… Chuyện này ngớ ngẩn lắm, thật đấy. Nhưng cháu đặc biệt, tất cả các cháu. Và nếu thế giới biết các cháu đặc biệt thế nào, có khi họ cũng chẳng hiểu đâu. Làm vậy là vì sự an toàn của các cháu thôi.”

Sal gật đầu, dù trông thằng bé thật muộn phiền. “Tiền bịt miệng ạ.”

Linus thở dài. “Có vẻ là vậy đấy. Nhưng không quan trọng đâu. Cháu cứ để chú giải quyết chuyện ấy, được không? Chúng ta đi mua kem cho cháu nào.”

Helen giật mình khi thấy thằng bé. Bà nheo mắt nhìn nó, rồi nhìn sang nhà vệ sinh, rồi lại nhìn Sal. “Là cháu đấy à?”

Vai Sal căng cứng.

“Thật tuyệt vời quá,” Helen nói. “Ngay khi bác tưởng mình đã thấy hết mọi thứ trên đời. Cháu được ăn ba viên, bác nghĩ vậy. Một cậu bé ở tuổi ăn tuổi lớn với khổ người như cháu xứng đáng được ba viên kem. Cháu thích vị nào?”

Trông Sal thật kinh ngạc. Thằng bé liếc sang Linus. “Cứ ăn đi,” Linus nói. “Ba viên cho cháu nhé.”

Nó cẩn thận chọn vị kem, giọng gần như không hơn mức lầm bầm là bao. Helen thủ thỉ trìu mến với nó, khiến thằng bé mỉm cười với mũi giày của mình. Khi bà đưa cốc kem qua, nó khẽ cảm ơn bà rồi đi về bàn. Những đứa trẻ khác hò reo khi thấy Sal, dịch sang để dành chỗ cho nó. Thằng bé ngồi cạnh Lucy, quàng tay qua vai đứa em nhỏ tuổi và kéo nó sát vào mình. Lucy bật cười và ngước lên nhìn thằng bé, ánh mắt rạng ngời. Trong lúc lũ trẻ ăn kem, tay Sal vẫn giữ nguyên tư thế ấy.

“Tôi vừa hỏi cậu Arthur đây về việc ra thăm vườn của Talia,” Helen nói với anh. “Tôi nghe nói khu vườn ấy rất đáng chiêm ngưỡng.”

“Nơi ấy đẹp lắm,” Linus tán thành. “Con bé đã chăm chỉ chăm sóc cây cối. Tôi tin là nó sẽ muốn khoe khoang khu vườn ấy. Nó vốn đã nghĩ bà bước đi được trên mặt nước rồi đấy.”

Helen bật cười. “Tôi cũng nghĩ vậy.”

“Nhưng tôi phải đặt câu hỏi. Tại sao lại là lúc này?”

Trông bà có vẻ sửng sốt. “Xin lỗi, cậu nói gì?”

“Linus à,” Arthur cảnh cáo.

Linus lắc đầu. “Không. Đó là một câu hỏi hợp lý. Trại trẻ mồ côi không phải nơi mới mẻ gì. Có vài đứa trẻ đã ở đó được một thời gian rồi. Bà rõ ràng đã ở đây một thời gian rồi.” Anh nhìn Helen. “Tại sao lại là bây giờ? Tại sao bà chưa từng ra đó trước đây? Tại sao phải thấy lũ trẻ ở đây rồi bà mới đưa ra quyết định đó?”

Arthur nói, “Tôi xin lỗi. Anh ấy rất bao bọc…”

Helen giơ một tay lên. “Cậu ấy nói đúng, Arthur ạ. Đây là một câu hỏi hợp lý.” Bà hít một hơi thật sâu. “Và tôi chẳng có cái cớ nào cả. Có lẽ tôi đã để cho cái nhìn của mình bị… nhuốm màu định kiến. Hoặc có lẽ là mắt không thấy, tâm không phiền.”

“Thấy gì ư, nói gì đi,” Linus lầm bầm.

Helen cau mày rồi liếc tấm áp phích trên tường, “Ừ. Cái kia ấy à. Thật… đáng tiếc. Chúng tôi mắc kẹt trong những bong bóng tí hon của chính mình, và dẫu thế giới này là một nơi rộng lớn và kỳ bí nhưng những bong bóng ấy lại bao bọc chúng tôi trước những điều ấy. Để rồi thiệt thân.” Bà thở dài. “Nhưng việc ấy thật dễ dàng vì có gì đó rất dễ chịu trong những thói quen thường nhật. Ngày này qua ngày khác, ngày nào cũng như nhau. Khi chúng tôi bị lung lay khỏi vòng lặp ấy, khi bong bóng kia vỡ tan, có thể thật khó để hiểu được tất cả những điều chúng tôi đã bỏ lỡ. Có khi chúng tôi còn sợ hãi trước chúng. Vài người chúng tôi thậm chí còn đấu tranh để cố gắng giành lại cái bong bóng kia. Tôi không biết liệu mình có đấu tranh vì thứ ấy hay không, nhưng tôi quả đã sống trong bong bóng.” Bà rầu rĩ mỉm cười, “Ơn trời các cậu đã chọc vỡ nó rồi.”

“Lẽ ra tôi không cần phải làm việc ấy,” Linus nói. “Lẽ ra lũ trẻ không cần phải làm việc ấy.”

“Phải, lẽ ra là vậy. Và dù chỉ là một cá nhân, tôi xin các cậu thứ lỗi cho chúng tôi vì chuyện ấy. Tôi hứa là mình sẽ không để việc này xảy ra lần nữa.” Bà ngoái lại nhìn cánh cửa Norman đã đi qua. “Tôi sẽ làm hết sức mình để đảm bảo rằng mọi người trong làng hiểu là tất cả lũ trẻ ở trại trẻ đều được đón chào vào bất kỳ lúc nào. Tôi không biết họ sẽ tiếp nhận chuyện ấy suôn sẻ đến mức nào, nhưng tôi có thể rất ồn ào khi cần đấy.” Mắt bà hấp háy khi thêm vào, “Tôi không muốn bị ném lên tường mà.”

Linus nhăn nhó. “Marty à?”

“Martin,” Helen nói, đảo mắt. “Tới chỗ tôi và kể cho tôi nghe mọi chuyện. Cháu tôi là một thằng ngốc. J-Bone đuổi việc nó ngay khi nó tỉnh lại. Tôi cũng sẽ làm như vậy.”

“Tôi đồng ý với bà về việc ấy.” Anh lưỡng lự. Rồi, “Bà có nghĩ cậu ta sẽ gây khó dễ không?” Ít nhất, nếu chuyện này truyền đi, anh có thể thấy là Ban Quản Lý Thượng Tầng sẽ muốn can thiệp. Có khi họ còn triệu tập Lucy đến trước mặt họ. Chuyện ấy không phải chưa từng xảy ra. Linus không rõ liệu mình lo lắng cho Lucy hay cho Ban Quản Lý Thượng Tầng hơn nữa. Rất có thể là vế sau, nếu anh trung thực với bản thân.

“Ôi!” Bà nói. “Đừng lo lắng về Martin. Tôi sẽ tự tay xử lý nó.”

Anh không chắc mình muốn biết nội dung cuộc xử lý này. “Cậu ta sẽ nghe chứ?”

Bà khịt mũi. “Tôi quản lý quỹ ủy thác của cha mẹ nó, mong họ trên trời có linh. Nó sẽ nghe thôi.”

“Tại sao?” Anh hỏi. “Tại sao bà lại hành động?”

Bà vươn sang nắm tay anh trong tay mình. “Thay đổi sẽ tới khi người ta đủ khát khao, cậu Baker ạ. Và tôi có đủ. Tôi hứa với cậu đấy. Có thể sẽ mất chút thời gian, nhưng rồi cậu sẽ thấy. Chuyện hôm nay là một cú thúc gọn lẹ vào mông tôi.” Bà siết tay anh rồi thả ra. “Giờ thì, cậu thích vị gì nào?”

“Vị anh đào,” Linus nói mà không cần nghĩ.

Bà bật cười. “Dĩ nhiên là vậy rồi. Hai viên, phải không nhỉ.” Bà khẽ khàng hát một bài trong khi đi lấy kem cho anh.

Linus ngẩng lên và thấy Arthur đang nhìn mình chằm chằm. “Gì vậy?”

Arthur chậm rãi lắc đầu. “Tôi không hiểu tại sao anh không thấy được nữa.”

“Thấy gì cơ?”

“Thấy anh. Thấy mọi điều nơi anh.”

Linus lo âu ngọ nguậy. “Con người tôi không có gì nhiều nhặn, nhưng tôi cố gắng sống với mọi thứ tôi có.” Rồi, “Tôi… Lẽ ra tôi không nên ép uổng. Bắt các anh đến đây như tôi đã làm. Lẽ ra tôi nên nghe lời anh.”

Trông Arthur lại khoái chí. “Tôi nghĩ mọi chuyện đều êm xuôi rồi còn gì. Có chút va vấp dọc đường, nhưng không phải chuyện gì mà chúng ta không xử lý được. Lucy không thật sự giết ai cả, nên tôi cho đó là một thắng lợi.”

“Hai viên anh đào tới đây,” Helen hô lên. “Cho mỗi cậu.” Mấy viên kem màu hồng tươi tắn với những vụn quả màu đỏ. “Tôi mời nhé.”

“Ôi, bà không cần phải…” Arthur dợm từ chối.

Bà xua tay với anh. “Đừng nghĩ nhiều làm gì. Đãi cậu chút kem là việc tối thiểu tôi có thể làm cho cậu. Tất cả những gì tôi hỏi xin là cậu để tôi lên đảo để thăm quan khu vườn kia.”

“Rất sẵn lòng,” Arthur nói. “Bất cứ khi nào bà muốn. Bà có thể ở lại ăn trưa.”

Bà mỉm cười. “Nghe tuyệt đấy. Có lẽ là hai tuần nữa? Tôi có nhân viên, nhưng tuần này cậu ta nghỉ, nên chỉ có tôi thôi. Tôi tin là cậu và cậu Baker đây sẽ là những gia chủ tuyệt nhất…”

“Tôi e rằng sẽ chỉ có tôi và lũ trẻ thôi,” Arthur nói, cầm cốc kem của mình lên. Giọng anh đã pha thêm chút líu nhíu kỳ lạ. “Một tuần nữa tính từ hôm nay Linus sẽ rời chỗ chúng tôi. Cảm ơn vì cốc kem, Helen ạ. Và vì đã tốt bụng đến vậy.” Anh quay lưng và đi về phía bàn.

Linus cau mày. Anh chưa từng thấy Arthur thất thố đến vậy trước đây.

“Anh sẽ đi ư?” Helen hỏi, giọng đầy bối rối. “Tại sao vậy?”

Linus thở dài. “Đây là một nhiệm vụ của DICOMY. Khoảng thời gian tôi ở đây vốn luôn là tạm thời mà thôi.”

“Nhưng cậu sẽ trở lại, đúng không?”

Linus ngoảnh mặt đi. “Tại sao phải vậy? Sau khi tôi đưa ra đề xuất, tôi sẽ không cần quay lại nữa. Phần việc của tôi sẽ hoàn tất.”

“Phần việc của anh à?” Bà lặp lại. “Đối với anh tất cả chuyện này chỉ là vậy thôi ư? Là công việc?”

“Nó còn là gì được…”

Bà lại vươn tới nắm tay anh. Lần này, tay bà nắm rất chặt. “Đừng nói vậy. Cậu có thể lừa dối bản thân mình thế nào tùy ý, cậu Baker ạ, nhưng đừng cố nói dối tôi. Tôi không chấp nhận đâu. Cậu thể hiện bản thân theo một cách nhất định, nhưng ngay cả khi ở trong cửa hàng của tôi, tôi có thể nhìn xuyên ngay qua vỏ ngoài. Cái cách cậu lên tiếng bênh vực lũ trẻ chỉ càng đúc kết điều tôi thấy. Cậu biết cả những việc khác mà.”

“Nơi đó không phải nhà tôi,” Linus khẽ thú nhận. “Tôi sống trong thành phố mà.”

Helen cười khẩy. “Nhà không phải lúc nào cũng là ngôi nhà nơi ta sống. Đó còn là những người chúng ta lựa chọn để ở bên. Có thể cậu không sống trên đảo, nhưng cậu không thể nói với tôi rằng đó không phải là nhà cậu được. Bong bóng của cậu, cậu Baker ạ. Nó đã vỡ rồi. Tại sao cậu lại để nó lần nữa mọc lên quanh mình?”

Bà quay đi và rống lên gọi Norman, biến mất sau cánh cửa hai chiều, bỏ lại Linus nhìn chằm chằm theo bóng lưng mình. Kem của anh đã bắt đầu tan chảy.

Người đàn ông ở bưu điện hầu như không để tâm đến sự hiện diện của anh. Ông ta chỉ càu nhàu khi Linus trả tiền để gửi bản báo cáo đi.

“Có gì cho tôi không?” Linus hỏi, mệt mỏi với trò ra vẻ này.

Ông ta lườm anh rồi quay đi đào bới trong cái thùng nhựa, loạt soạt lướt qua các phong bì. Lần này ông ta lôi ra một cái cỡ lớn. Thứ đó dày hơn bất kỳ lá thư nào khác mà Linus từng nhận được khi ở trên đảo. Anh cau mày khi ông ta đưa nó qua.

Thư này gửi từ DICOMY.

“Cảm ơn,” Linus nói, đầy lơ đễnh. Phong bì này trĩu nặng và cứng đơ khi anh cầm nó lên. Anh ra khỏi bưu điện.

Anh đứng trong nắng vàng rực rỡ. Anh hít một hơi thật sâu. Những người khác đang ở ngoài xe đợi anh. Anh không nên mở nó ra bây giờ, nhưng… anh phải biết trong đó có gì.

Anh cẩn thận xé mở mép trên của phong bì.

Trong đó có một tập hồ sơ, cũng giống như số hồ sơ anh được giao cho khi bị phái tới đảo. Hồ sơ này không ghi tên trên nhãn. Mặt bìa trống trơn.

Trang đầu tiên là thư mở đầu.

Anh lấy lá thư ra, và chớp mắt khi có gì đó rơi xuống lề đường, nảy lên mũi giày của anh.

Anh nhìn xuống.

Đó là một chiếc chìa khóa kim loại cũ kỹ.

Anh cúi xuống nhặt nó lên. Chìa nhẹ hơn anh tưởng.

Lá thư viết:

SỞ PHỤ TRÁCH THANH THIẾU NIÊN NHIỆM MÀU

LỜI NHẮN TỪ BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG

Gửi anh Baker:

Cảm ơn anh vì bản báo cáo thứ hai. Báo cáo này vẫn kỹ lưỡng, như mọi khi, và làm sáng tỏ rất nhiều vấn đề. Miêu tả về sinh hoạt hàng ngày của lũ trẻ cấp cho chúng tôi rất nhiều thông tin để cân nhắc.

Tuy vậy.

Chúng tôi có vài mối lo ngại.

Như anh nhớ, trước đây chúng tôi đã yêu cầu một cái nhìn sâu sắc hơn về Arthur Parnassus. Và dù anh đã cung cấp cái nhìn đó cho chúng tôi, chúng tôi không thể không để ý thấy rằng nó có vẻ thiếu… khách quan hơn chúng tôi tưởng. Thật ra, toàn bộ bản báo cáo không giống như bất kỳ báo cáo nào anh từng viết. Anh được chọn để làm nhiệm vụ này phần nào là vì sự chí công vô tư của anh. Anh đã có thể duy trì một mức độ xa cách khỏi lũ trẻ và những người anh đang điều tra, cả khi đối đầu với nghịch cảnh.

Trong trường hợp này thì có vẻ lại không như vậy.

Chúng tôi cảnh cáo anh về việc ấy, anh Baker ạ. Người ta sẽ nói và làm mọi việc họ có thể để ru ngủ những người nắm giữ quyền hành. Đó là một thứ vũ khí, và là vũ khí mà người ta rất mực khéo léo sử dụng. Những người không miễn nhiễm với trò ấy có thể sẽ phát hiện ra mình đang suy nghĩ theo những cách không nên nghĩ. Quãng thời gian của anh ở Marsyas chẳng mấy chốc sẽ chấm dứt. Anh sẽ quay về thành phố. Anh sẽ được giao cho nhiệm vụ khác và chuyện này sẽ lại lặp lại từ đầu đến cuối. Hãy đóng cửa lòng mình, anh Baker ạ, vì đó là nơi họ sẽ nhắm tới đầu tiên. Anh không thể để mình mù mờ trước những gì là thực ở đây. Anh phải luôn khách quan. Vì chúng tôi tin là anh đã biết, cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH chỉ rõ rằng bất kỳ và mọi mối quan hệ anh tạo dựng phải hoàn toàn là vì công việc. Anh không thể để mình bị coi là đã bị tác động, đặc biệt là khi có bằng chứng cho thấy một trại trẻ cần phải đóng cửa để bảo vệ lũ trẻ.

Phải thừa nhận là, chúng tôi có thể đã đánh giá thấp mức độ dễ rung động của anh trước những quan tâm để ý đến từ một người như anh Parnassus. Vì anh chưa kết hôn, chúng tôi có thể hiểu anh đang thấy hoang mang hay mâu thuẫn như thế nào. Vì việc đó, chúng tôi muốn nhắc anh rằng DICOMY và Ban Quản Lý Thượng Tầng luôn đồng hành bên anh. Chúng tôi quan tâm tới anh. Khi anh trở lại từ đảo, chúng tôi sẽ yêu cầu anh tham dự một buổi đánh giá tâm lý để tâm hồn của chính anh được thanh thản, dĩ nhiên là vậy. Sức khỏe của các nhân viên công tác xã hội của chúng tôi là điều quan trọng bậc nhất. Các anh là nguồn sống của DICOMY, và không có các anh, thì sẽ không có chúng tôi. Sẽ không có hy vọng cho lũ trẻ. Anh quan trọng, anh Baker ạ.

Để hỗ trợ anh trong việc đảm bảo rằng suy nghĩ của anh đi vào quy củ và minh bạch tuyệt đối, chúng tôi đã kèm theo một bản hồ sơ bán hoàn chỉnh về Arthur Parnassus. Như anh sẽ sớm thấy được, anh ta không phải người như anh đã tưởng. Trại trẻ Mồ côi Marsyas là một phép thử nghiệm. Để xem xem liệu một người với… thái độ như của anh ta có thể phụ trách một nhóm trẻ con khác thường hay không. Để giữ tất cả bọn họ ở cùng một chỗ để bảo toàn lối sống của chúng ta. Anh ta biết rõ hòn đảo, do từng lớn lên ở trong một trại trẻ mồ côi từng đóng cửa vì chính anh ta. Báo cáo này chỉ dành riêng cho anh. Không được đem nó ra thảo luận với bất kỳ ai khác, kể cả anh Parnassus. Hãy coi như nó được bảo mật ở cấp độ bốn.

Thêm vào đó, anh sẽ tìm thấy một chiếc chìa khóa kèm theo. Nếu ổ khóa chưa bị thay, chìa này sẽ mở được cửa hầm ẩn giấu trong vườn. Nơi ấy sẽ cho anh cái nhìn thấu triệt hơn về những việc Arthur Parnassus thật sự có khả năng gây ra.

Chẳng lâu nữa đâu, anh Baker ạ. Chẳng bao lâu nữa anh sẽ về nhà thôi.

Chúng tôi mong chờ báo cáo tiếp theo và lần phỏng vấn cuối cùng khi anh trở lại.

Trân trọng,

CHARLES WERNER

BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3