Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 15

Dù tính tò mò đang liên tục đưa ra cảnh báo, Linus vẫn lờ tập hồ sơ đi.

Anh lờ nó đi khi trở lại chỗ xe đậu.

Anh lờ nó đi khi vào trong xe.

Anh lờ nó đi khi Arthur mỉm cười với anh, hỏi xem anh đã sẵn sàng về nhà chưa.

“Rồi,” anh đều đều nói. “Tôi sẵn sàng rồi.”

Lũ trẻ đang phấn khích vì ăn ngọt và vì chuyến dã ngoại hôm đó, và lải nhải hầu hết quãng đường ra phà. Merle cau có nhìn họ khi hạ cầu xuống, nhưng họ lờ ông ta đi. Tới khi họ đi được nửa đường qua eo biển về đảo, lũ trẻ đã thiếp đi, ngoại trừ Sal. Theodore cuộn tròn trong lòng thằng bé, úp cánh lên đầu để che đi ánh nắng.

“Cháu đi chơi có vui không?” Linus nghe thấy Zoe hỏi nó.

“Cháu nghĩ là có,” Sal trả lời. “Chú Baker đã giúp cháu. Chú bảo rằng cháu có thể sợ hãi, nhưng nên nhớ rằng trong cháu còn nhiều điều hơn là nỗi sợ.” Thằng bé thở dài. “Người ta có thể thô lỗ, và họ có thể nghĩ những thứ ngu ngốc về cháu, nhưng cháu có tất cả mọi người rồi, và đó là điều quan trọng nhất. Phải không, chú Baker?”

Linus nghĩ đã quá muộn để đóng cửa lòng rồi.

Lũ trẻ chậm rãi mở mắt tỉnh dậy khi Arthur tắt máy xe trước nhà chính. Lucy ngáp dài và vươn vai, lỡ huých cùi chỏ vào mặt Talia. Con bé đẩy tay nó ra. “Xin lỗi nhé,” nó nói.

“Có lẽ tối nay chúng ta sẽ ăn tối sớm hơn một chút,” Arthur tuyên bố. “Ta nghĩ vài đứa trong số các con sẽ không tỉnh táo được bao lâu nữa đâu. Vào nhà thôi, và mang theo đồ của mình nhé. Hãy đảm bảo rằng các con cất chúng thật cẩn thận. Talia, con có thể ra vọng lâu nếu đó là nơi con muốn cất dụng cụ mới.”

Con bé lắc đầu khi Zoe trượt mở cửa xe. “Con sẽ giữ chúng bên mình đêm nay. Đấy là chuyện riêng của Thần vườn. Dụng cụ phải được đặt trên giường con vào đêm đầu tiên để chúng biết chúng sẽ thuộc về con.”

Arthur nhoẻn miệng cười. “Hay thật đấy, trước kia ta chưa nghe nói về chuyện ấy bao giờ.”

“Một truyền thống cực kỳ cổ xưa của Thần vườn. Cực kỳ bí mật. May cho thầy là con còn đang kể chuyện ấy cho thầy nghe đấy.”

“Thật không? Từ giờ trở đi ta sẽ nhớ kỹ chuyện đó nhé.” Nói rồi, anh mở cửa và xuống xe.

Mất một lúc Linus mới nhận ra mình là người duy nhất ngồi lại. Anh giật mình khi cửa bên anh giật mở. Anh nhìn ra và thấy Zoe quan sát mình. “Đi không nào?”

Anh gật đầu, nắm chặt tập hồ sơ bằng hai tay. Anh để ý thấy bà liếc xuống thứ ấy, và trán bà hơi cau lại.

Anh ra khỏi xe.

Bà đóng cửa sau lưng anh. “Trên đường về nhà cậu im lặng muốn chết.”

“Hôm nay vất vả mà,” anh nói.

“Có vậy thôi à?”

Anh gật đầu. “Tôi không còn trẻ như đã từng nữa.”

“Phải,” bà chậm rãi nói. “Tôi cũng nghĩ vậy. Vào nhà thôi chứ?”

Anh mỉm cười yếu ớt. “Tôi nên đi xem Calliope thế nào. Để chắc chắn rằng con mèo có đồ ăn và nước uống. Hãy cho tôi chút yên bình và tĩnh lặng trước bữa tối.”

“Dĩ nhiên rồi. Tôi sẽ phái một trong mấy đứa trẻ đi gọi cậu khi đến lúc dùng bữa.” Bà đưa tay sang siết cánh tay anh. “Hôm nay cậu làm tốt lắm, Linus ạ. Tôi không biết chúng tôi có thực hiện được chuyến đi này mà không có cậu hay không. Cảm ơn cậu.”

Lần đầu tiên kể từ khi lên đảo tới giờ anh tự hỏi liệu mình có đang bị lợi dụng hay không.

Điều ấy khiến anh đau đớn hơn là anh tưởng.

Anh mỉm cười. “Tôi nghĩ không phải vậy đâu.”

Bà nhìn anh trong chốc lát rồi hỏi “Cậu chắc là mình ổn chứ?”

“Chỉ mệt thôi,” anh nói. “Nắng thế cơ mà. Tôi chỉ quen với mưa thôi.”

Trông bà như thể chuẩn bị nói thêm gì đó, nhưng Phee đã gọi bà, nói rằng hôm nay đến lượt con bé giúp bà nấu nướng, và nó có vài ý tưởng này nọ.

Zoe bỏ lại anh đứng cạnh chiếc xe.

Anh nhìn họ đi vào nhà.

Arthur là người cuối cùng. Anh ngoái nhìn qua vai. “Lát nữa gặp lại nhé?”

Linus chỉ có thể gật đầu.

Anh rảo bước qua lại trước giường, cứ chốc lát lại nhìn tập hồ sơ mình đã đặt lên đó.

“Chẳng có gì đâu, nhỉ?” anh hỏi Calliope, cô ả đang theo dõi anh từ chỗ ngồi trên bệ cửa sổ. “Rất có thể hoàn toàn là rác rưởi. Tại sao họ lại không giao cho tao thông tin này trước kia, nếu nó cần thiết đến vậy? Và họ trách tội tao vì thiếu khách quan. Tao, chứ không phải ai khác. Tao chưa từng nghe ý kiến nào vớ vẩn như vậy. Đám người này to gan thật, ăn trên ngồi trốc quá mà.”

Calliope meo meo với anh.

“Tao biết chứ.” anh thốt lên. “Thật là phi lý. Và ngay cả nếu họ có lý, thì tao vẫn có thể trân trọng phẩm chất tốt đẹp của những người ở đây. Việc ấy chẳng cần mang ý nghĩa gì hết. Việc ấy chẳng có nghĩa lý gì cả.”

Đuôi Calliope giật giật.

“Chính xác. Và rõ ràng là Arthur có bí mật. Ai mà chẳng có. Tao cũng có bí mật này.” Anh dừng bước và cau mày. “Chà, nói vậy có khi không đúng. Chỉ vì tao chưa từng nói ra chuyện gì đó không có nghĩa là nó sẽ biến thành bí mật đâu. Nhưng tao có thể có bí mật. Và đó sẽ là điều bí mật nhất trần đời.”

Calliope ngáp dài.

“Mày nói đúng,” Linus hạ quyết tâm. “Tại sao thứ này lại quan trọng nhỉ? Có khi nó chẳng là gì cả. Là chiến thuật dọa rồ thôi. Và kể cả có không phải đi nữa, nó cũng chẳng thay đổi gì cả. Tao không có bất kỳ cảm xúc không phù hợp với bất kỳ ai cả, và một tuần nữa, chúng ta sẽ đi khỏi đây, và dần dà, chúng ta sẽ trìu mến nhớ lại quãng thời gian ở đây, chỉ có vậy thôi. Chúng ta chắc chắn sẽ không tiếc nuối gì vì đã không nói bất kỳ điều gì với bất kỳ ai về bất kỳ cảm xúc không tồn tại nào hết.”

Calliope gối đầu lên chân và nhắm mắt lại.

Cô ả có ý hay đấy. Có lẽ Linus nên ngủ cho quên đi. Chợp mắt một lát, có lẽ vậy. Hoặc thậm chí là lờ nó đi tới ngày mai. Anh không nói dối khi trả lời rằng ngày hôm nay đã vất vả. Anh mệt thật. Đã có nhiều chuyện xảy ra, và dù không phải chuyện nào cũng tốt đẹp, chuyến dã ngoại chắc chắn đã không phải là một thảm họa kết thúc bằng việc Lucy khiến ai đó nổ tung hay Talia đập đầu người khác bằng cái thuổng mới.

“Đúng vậy,” anh tự nhủ. “Đi tắm rồi đi ngủ. Có khi mình còn không tỉnh dậy tới tận ngày mai. Chắc chắn là mình bỏ một bữa được, đặc biệt là sau khi ăn kem vị anh đào.” Anh dừng lại, cân nhắc. “Mà mình còn không thích món đó.”

Lời đó thật dối trá. Món kem ngon tuyệt. Nó có vị như tuổi thơ vậy.

Anh quay lưng để ra khỏi phòng ngủ.

Thay vào đó, chân anh dẫn anh tới mép giường.

Anh nhìn xuống tập hồ sơ. Chìa khóa đặt cạnh nó.

Anh tự nhủ hãy mặc kệ nó đi.

Rằng nếu có điều gì cần biết, anh chỉ cần hỏi là được.

Anh nhớ lại ánh sáng lóe lên trong mắt Arthur.

Và cách da thịt người ấy nóng rực đến vậy.

Anh nhớ lại cách Arthur mỉm cười, cách người ấy bật cười, cách người ấy sống ở đây trên hòn đảo này như thể đã có mọi thứ mình từng mong muốn trên cõi đời này. Hình ảnh ấy mời gọi anh, và anh nghĩ đến việc thế giới của mình đã lạnh lẽo và ẩm ướt và xám xịt ra sao cho tới khi đến đây. Anh có cảm giác như lần đầu tiên được thấy màu sắc trong đời vậy.

“Bạn có ước mình đang ở đây không?” anh thì thầm.

Ồ! Có chứ. Anh nghĩ có khi mình ước ao điều ấy hơn bất cứ thứ gì khác.

Anh phải ngừng lại. Vì anh nghĩ mình sẽ không chịu được nếu tất cả hóa ra đều là dối trá.

Anh mở hồ sơ ra. Nó bắt đầu y như những tập hồ sơ trước.

TÊN: ARTHUR PARNASSUS

TUỔI: BỐN MƯƠI LĂM

MÀU TÓC: VÀNG

MÀU MẮT: NÂU SẪM

Phần này giống như hồ sơ đầu tiên. Phần còn lại của hồ sơ đó đã là những chi tiết phác họa ra Arthur Parnassus, cung cấp thông tin mơ hồ về việc người ấy là ai và anh đã làm hiệu trưởng của Trại trẻ Mồ côi Marsyas được bao lâu rồi.

Tuy nhiên, hồ sơ này tiếp tục như những tập hồ sơ khác.

MẸ: KHÔNG RÕ (ĐƯỢC CHO LÀ ĐÃ MẤT)

CHA: KHÔNG RÕ (ĐƯỢC CHO LÀ ĐÃ MẤT)

Helen đã nói gì nhỉ?

Đó là công việc đầu tiên của bác. Vào năm mười bảy tuổi. Khi ấy bác làm ở một quán kem khác, nhưng bác nghĩ bác vẫn nhớ cách dùng kẹp gắp kem. Bác quen cậu Arthur đây như vậy đấy. Khi còn trẻ con cậu bé này thường đến đây ăn kem.

Và rồi anh đọc dòng tiếp theo, dòng chữ ghi PHÂN LOẠI THANH THIẾU NIÊN NHIỆM MÀU, và mọi chuyện đều thay đổi.

Bữa tối, tóm lại, thật lúng túng.

“Chú không đói ạ, chú Baker?” Talia hỏi. “Chú không ăn kìa.”

Linus sặc nước bọt.

Mọi người nhìn anh chằm chằm.

Anh lấy khăn giấy lau miệng. “Có vẻ như chú khá no vì ăn kem rồi.”

Lucy cau mày. “Thật ạ? Nhưng bụng chú có nhiều chỗ thế kia mà. Cháu ăn hết kem của mình, và cháu vẫn đói này.” Như thể để chứng tỏ điều ấy, Lucy cố gắng nhồi nguyên miếng thăn lợn vào mồm. Thằng bé không thành công cho lắm.

Linus mím môi cười. “Chuyện là như vậy đó. Bụng chú có thể có… rất nhiều chỗ, như cháu nói, nhưng như vậy không có nghĩa là chú phải lấp đầy bụng mình.”

Theodore nghiêng qua nhìn anh, một mảnh mỡ treo lòng thòng từ miệng xuống.

“Chú cũng hết sức im lặng nữa,” Phee nói, lấy nĩa dồn đuổi một quả cà chua bi. “Có phải vì hôm nay Lucy suýt nữa thì giết người không?”

“Mình không có suýt nữa giết anh ta. Mình còn không gắng sức cho lắm. Nếu muốn, mình đã có thể làm anh ta nổ tung bằng quyền năng tâm trí rồi.”

Lời ấy chắc chắn không khiến Linus cảm thấy khá hơn chút nào, dù nó không khiến anh sợ hãi nhiều như vài tuần trước nữa. Anh tự hỏi liệu đây có phải điều Ban Quản Lý Thượng Tầng muốn nói trong thư của họ không. Mặc cho những e ngại của mình, suýt nữa thì anh đã bị mê hoặc rồi. Đây không phải dấu hiệu gì tốt.

“Cậu không được giết người,” Chauncey nói. Thằng bé vẫn chưa cởi mũ nhân viên hành lý xuống. Arthur đã bảo nó rằng chỉ lần này thôi nó có thể đội mũ đó vào bữa tối. “Giết người là xấu lắm. Cậu có thể vào tù đấy.”

Lucy dữ dằn xâu xé miếng thịt. “Không có nhà tù nào nhốt được mình đâu. Mình sẽ trốn thoát và quay lại đây. Không ai dám đuổi theo mình đâu vì mình có thể khiến nội tạng họ tan chảy.”

“Chúng ta không được làm nội tạng của người khác tan chảy,” Zoe kiên nhẫn nhắc nhở nó. “Như vậy là bất lịch sự.”

Lucy thở dài qua một miệng đầy thịt, má phồng lên.

“Chú nên ăn đi,” Sal khẽ nói với Linus. “Ai cũng cần ăn mà.”

Và làm sao anh có thể bác bỏ lý lẽ ấy khi nó xuất phát từ Sal? Linus giả vờ ăn một miếng salad thật to từ trên đĩa.

Làm vậy có vẻ khiến mọi người đều hài lòng. Gần như tất cả mọi người. Arthur vẫn đang nhìn anh từ đầu bàn bên kia. Linus đang cố hết sức không nhìn vào mắt người ấy. Dường như làm vậy khiến anh được an toàn hơn.

Anh không biết Arthur có thể làm được những gì nữa.

Linus cáo lui sau bữa tối, nói rằng anh kiệt sức hơn mình tưởng. Lucy trông hơi thất vọng vì Linus sẽ không nghe những đĩa than mới thằng bé đã mua, nhưng Linus hứa với nó rằng ngày mai sẽ là một ngày mới.

“Trông cậu có hơi ửng đó thật,” Zoe nói. “Tôi hy vọng rằng cậu không mắc phải bệnh gì đó.” Trong mắt bà có tia lấp lánh kỳ lạ. “Đặc biệt vì đây là tuần cuối cùng của anh ở đây.”

Linus gật đầu. “Tôi tin là không phải bệnh gì đâu.”

Bà lấy cái đĩa từ tay anh, vẫn gần đầy thức ăn. “Chà! Đi nghỉ đi, Linus. Chúng tôi không muốn thấy anh ngã bệnh đâu. Chúng tôi cần anh, anh biết mà.”

À! Họ cần anh? Họ cần anh thật ư?

Linus đã gần ra đến cửa khi Arthur gọi tên anh.

Anh nhắm mắt lại, tay đặt lên tay nắm. “Vâng? Có chuyện gì vậy?”

“Nếu anh cần thứ gì, tất cả những gì anh phải làm là đề nghị với tôi.”

Anh nghĩ nắm đấm cửa sẽ nứt ra dưới những ngón tay mình mất. “Anh tốt bụng quá, nhưng tôi không cần gì đâu.”

Arthur đặt tay lên vai anh. “Anh chắc chứ?”

Ôi! Quay người lại mới dễ dàng làm sao? Để ngắm nhìn người đàn ông đã dằn vặt trái tim anh đến vậy? Người đàn ông đã, theo một cách bóng gió, giấu anh nhiều điều đến vậy?

“Tôi chắc chắn mà,” Linus thì thầm.

Bàn tay rời đi. “Hãy khỏe lại nhé, Linus.”

Anh ra khỏi cửa và bước vào màn đêm nhanh hết mức có thể.

Anh nhìn chằm chằm lên trần nhà trong bóng tối, chăn kéo lên tận cằm. Anh không ngủ được. Tập hồ sơ chết tiệt đó đã đảm bảo là như vậy. Ngay cả lúc này, anh vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của nó dưới đệm giường nơi anh đã giúi nó xuống khi trước. Anh không muốn Chauncey tìm ra thứ đó nếu thằng bé vào đây lấy đồ giặt của Linus.

Suy nghĩ ấy lại khiến một đợt sóng khác đổ ập lên anh.

Chúng có biết không? Lũ trẻ có biết Arthur là ai không? Có biết người ấy là thứ gì không?

Dù không muốn, nhưng anh có thể thấy cảnh ấy rõ mồn một trong đầu. Arthur đứng trong lớp, nói với lũ trẻ rằng một người sẽ tới từ đất liền. Người nọ sẽ ở đó để đánh giá chúng, để điều tra chúng. Một người từ Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu, người có thẩm quyền tước đoạt tất cả những điều này khỏi chúng. Lucy, dĩ nhiên, sẽ đề nghị khiến da thịt kẻ xâm nhập tróc ra khỏi xương hắn. Theodore có thể ăn phần còn lại rồi ói vào cái hố Talia đã đào. Cái hố sẽ được lấp đầy, và Phee sẽ trồng một cái cây trên hố. Khi ai đó tới hỏi thăm về kẻ nhiều chuyện kia, Chauncey sẽ đề nghị xách hành lý cho họ, và Sal sẽ thành thật trả lời rằng họ không biết Linus Baker là ai.

Dĩ nhiên Arthur sẽ rõ ràng và kiên quyết bảo chúng rằng giết chóc không phải là giải pháp. Thay vào đó, người ấy thì thầm trong đầu Linus, các con phải khiến hắn quan tâm tới mình. Các con phải khiến hắn có lẽ là lần đầu tiên trong đời nghĩ rằng hắn đã tìm được nơi hắn thuộc về.

Những suy nghĩ ấy thật lố bịch. Tất cả những điều ấy. Nhưng khi giấc ngủ chỉ là một ý niệm phù du thì những suy nghĩ đêm khuya thường là vậy. Trong bóng tối, toàn bộ khung cảnh đó trông như có thể là sự thực.

Đến sau nửa đêm thì anh ngồi dậy trên giường. Calliope ngáp dài ở chỗ nằm gần chân anh.

“Nếu tất cả chỉ là dối trá thì sao?” Trong bóng tối anh chất vấn cô ả. “Thế nào mà tao lại đi đến bước đường không thể chịu đựng nổi những dối trá ấy?”

Cô ả không trả lời.

Trước kia đời anh đã thật trần tục và tầm thường. Anh đã biết vị trí của mình trên cõi đời này, dù thi thoảng một tia nắng tách mây đen rọi xuống dưới hình dạng câu hỏi mà anh gần như không cho phép bản thân suy ngẫm.

Bạn có ước mình đang ở đây không?

Hơn bất kỳ điều gì khác trên đời.

Và rồi một suy nghĩ khác lóe lên trong đầu anh, một điều lạ lẫm đến mức anh gần như không nắm bắt nổi nó. Điều ấy xa rời khỏi tập hợp những điều anh cho là có thể xảy ra đến nỗi nó khiến tâm trí anh rối bời.

Nhỡ đâu, anh thầm nghĩ, người đang nói dối không phải Arthur thì sao? Nhỡ đâu không phải lũ trẻ thì sao?

Nhỡ đâu là DICOMY?

Sẽ có cách để chứng tỏ điều ấy.

Một cách duy nhất.

“Không,” Anh nói, lại nằm xuống giường. “Tuyệt đối không.”

Calliope kêu rừ rù.

“Tao sẽ cứ đi ngủ thôi, và sáu ngày nữa, chúng ta sẽ về nhà, và toàn bộ chuyện này sẽ không quan trọng nữa. Lá thư kia mắng tao là gì nhỉ? Dễ rung động? Phì. Sao nhỉ, ngay cái suy nghĩ ấy cũng đã lố bịch rồi.”

Anh đã cảm thấy khá khẩm hơn.

Anh nhắm mắt lại.

Và nhìn ra cảnh Chauncey trốn dưới gầm giường mình vào sáng đầu tiên thế nào, trông Talia ngồi bên chỗ dụng cụ trên sàn tiệm đĩa than ra sao, Theodore đón nhận những chiếc cúc áo như thể chúng là món quà tuyệt nhất trần đời, Phee đã bế Sal run lẩy bẩy từ đống quần áo lên ra sao, Lucy đã khóc sau khi làm vỡ đĩa nhạc thế nào, Zoe đã mời anh vào nhà thế nào.

Và dĩ nhiên, nụ cười của Arthur. Nụ cười tuyệt đẹp, lặng lẽ khiến anh có cảm giác như lần đầu tiên được nhìn thấy biển.

Linus mở mắt.

“Ôi trời!” Anh thì thầm.

Khí trời ban đêm lạnh, lạnh hơn khi anh mới tới. Sao trời như băng đá khảm lên bầu trời đen như mực trên cao. Mặt trăng gần như chỉ là một mảnh lưỡi liềm. Anh vừa run rẩy vừa siết chặt hơn tấm áo khoác ngoài đồ ngủ. Anh lần tay xuống túi, để chắc chắn rằng chìa khóa vẫn ở đó.

Nó vẫn ở trong túi.

Anh xuống khỏi hiên nhà.

Nhà chính tối om, như nên tối vào lúc khuya khoắt thế này. Lũ trẻ hẳn đang say ngủ trên giường.

Anh hầu như không gây ra tiếng động nào khi đi về phía khu vườn. Đối với một người đàn ông có kích cỡ như anh, anh có thể nhẹ tay nhẹ chân khi cần thiết. Không khí mang mùi muối và có cảm giác nặng nề trên da anh.

Anh đi theo đường mòn qua vườn. Anh tự hỏi Helen sẽ nghĩ gì khi đến đây. Anh nghĩ bà sẽ thấy ấn tượng. Anh hy vọng là vậy, Talia xứng đáng được như vậy. Con bé đã làm việc chăm chỉ.

Anh vòng qua sau nhà. Anh vấp phải một nhánh rễ to dày, nhưng vẫn đứng thẳng được.

Đằng kia, trước mặt anh, là cửa hầm.

Những vết cháy xém giờ hợp lý đến khủng khiếp.

Yết hầu giần giật khi anh nuốt khan. Linus biết, anh có thể quay lưng ngay bây giờ và quên toàn bộ chuyện này đi. Anh có thể về giường, và trong sáu ngày tiếp theo, giữ khoảng cách thật chuyên nghiệp và làm việc người ta cử anh đến đây để làm. Rồi anh sẽ lên phà lần cuối, và một chuyến tàu sẽ đợi ở ga để đưa anh về nhà. Nắng sẽ phai dần sau mây đen, và cuối cùng, trời sẽ bắt đầu đổ mưa. Anh biết cuộc đời ấy. Đó là cuộc đời dành cho một người như Linus. Nó ảm đạm và xám xịt, nhưng đó là cuộc đời anh đã sống rất, rất nhiều năm rồi. Một tháng vừa qua, một thoáng sắc màu rực rỡ này, sẽ chẳng là gì ngoài những kỷ niệm.

Anh lấy chìa ra khỏi túi.

“Nó có khi còn không tra được vào ổ,” anh lầm bầm. “Rất có thể là ổ khóa đã bị thay rồi.”

Không hề. Chìa hoàn hảo tra vào ổ khóa gỉ sét.

Anh xoay chìa.

Ổ khóa bật mở cùng tiếng cạch khẽ khàng.

Nó rơi xuống cỏ.

“Cơ hội cuối cùng đây,” anh tự nhủ. “Cơ hội cuối cùng để quên đi toàn bộ chuyện ngu ngốc này.”

Cánh cửa nặng hơn anh tưởng, nặng tới mức anh gần như không nâng nổi nó lên. Anh vừa gầm ghè vừa kéo nó mở ra, hai tay căng cứng vì sức nặng của cửa. Mất một lúc anh mới phát hiện ra lý do. Dù mặt ngoài cửa hầm là gỗ, mặt trong là một tấm kim loại dày, như thể cửa đã được gia cố.

Và dưới ánh sao, anh có thể thấy những rãnh nông rạch lên lớp kim loại.

Anh giơ tay lên và ấn ngón tay lên những đường rãnh ấy. Có năm rãnh cả thảy, sát bên nhau. Như thể ai đó với bàn tay tí hon đã cào chúng ra từ bên trong.

Suy nghĩ ấy khiến cơn rùng mình ớn lạnh chạy dọc sống lưng Linus.

Trước mặt anh, biến mất vào bóng tối dày đặc, là một cánh cầu thang bằng đá. Anh đợi một lát để mắt mình điều chỉnh lại, thầm ước mình đã nhớ mang theo đèn pin. Hoặc anh có thể đợi đến sáng.

Anh bước xuống hầm.

Linus bám một tay lên tường để giữ thăng bằng. Tường làm từ đá bóng mịn. Anh đếm từng bậc mình bước. Anh xuống đến bậc thứ mười ba thì cầu thang kết thúc. Anh không thấy được gì. Anh lần mò trên mặt tường, hy vọng sẽ tìm thấy công tắc đèn. Anh va vào thứ gì đó, cơn đau nhói dữ dội bò dọc cẳng chân và lên đùi anh. Anh nhăn mặt và quơ quào…

Đây rồi.

Một cái công tắc.

Anh gạt nó lên.

Một bóng đèn duy nhất bừng sáng giữa căn phòng.

Linus chớp mắt trong ánh sáng yếu ớt.

Căn hầm nhỏ hơn anh tưởng. Phòng khách trong nhà khách nơi anh đã ở ba tuần qua còn lớn hơn, dù không nhiều lắm. Tường và trần đều làm bằng đá, và gần như từng tấc đều bám đầy thứ có vẻ như là muội than. Anh nhìn xuống hai tay và thấy rằng chúng đen sì. Anh xoa xoa các ngón tay vào nhau, và lớp muội lả tả rơi xuống sàn.

Anh đã va đầu gối vào một cái bàn học đặt cạnh tường gần công tắc đèn. Bàn đã cháy dở, lớp gỗ đen thui và nứt nẻ. Có một cái giường đôi, khung kim loại đã gãy. Không có đệm, dù Linus nghĩ là như vậy cũng dễ hiểu. Đệm quá dễ cháy. Thay vào đó, có những tấm vải dầu dày cộp mà Linus đoán rằng có thể chống cháy.

Và chỉ có vậy thôi.

Đó là tất cả những gì có ở trong hầm.

“Ôi không!” anh thì thào. “Không, không, không.”

Có gì đó ở góc phòng thu hút ánh mắt anh. Bóng đèn duy nhất trong phòng không sáng lắm, và có nhiều góc tối hơn là vùng sáng. Anh đi tới bức tường đằng xa, và khi tới gần, anh cảm thấy đầu gối mình mềm nhũn.

Những vạch dấu.

Những vạch dấu được gạch ra trên tường.

Bốn vạch một dòng. Gạch chéo bởi vạch thứ năm.

“Năm,” anh đếm. “Mười. Mười lăm. Hai mươi. Hai lăm.”

Anh ngừng lại khi đếm tới sáu mươi. Thế này là quá mức chịu đựng đối với anh. Anh nghĩ những vạch này dùng để đánh dấu ngày tháng, và suy nghĩ ấy khiến tim anh nhức nhối.

Anh nuốt khan qua cục nghẹn trong cổ mình. Nỗi bất công trong toàn bộ chuyện này đang lăm le dìm chết anh.

DICOMY đã không nói dối.

Hồ sơ đã viết đúng.

“Tôi đã không xuống đây nhiều năm rồi,” một giọng nói vang lên sau lưng anh.

Linus nhắm mắt lại. “Phải. Tôi cũng nghĩ vậy.”

“Tôi đã nghĩ rằng trông anh có chút… không đúng,” Arthur lặng lẽ nói. “Sau khi anh từ bưu điện về chỗ chúng tôi, có gì đó đã thay đổi. Tôi không biết là gì, nhưng nó đã thay đổi. Tôi chọn cách tin tưởng anh khi anh nói anh mệt, nhưng rồi vào bữa tối, trông anh như thể vừa gặp ma.”

“Tôi đã cố giấu giếm,” Linus thú nhận. “Có vẻ như tôi làm không tốt lắm nhỉ?”

Arthur khúc khích cười, dù tiếng cười ấy nghe thật buồn bã. “Anh biểu lộ cảm xúc nhiều hơn anh tưởng đấy. Đó là một trong những việc mà tôi… Thôi không sao. Chuyện ấy chẳng liên quan gì. Ít ra là vào lúc này.”

Linus siết hai tay lại thành nắm đấm để giữ cho chúng không run rẩy. “Vậy ra những chuyện ấy là thật à?”

“Những chuyện gì?”

“Những chuyện tôi đã đọc. Trong hồ sơ DICOMY gửi cho tôi.”

“Tôi không biết. Tôi chưa từng đọc hồ sơ của mình. Theo những gì tôi biết, nó đầy rẫy những sự thật nửa vời và những lời nói dối trắng trợn. Hoặc, có lẽ, mọi thông tin đều đúng. Với DICOMY thì chúng ta chẳng bao giờ đoán được đâu.”

Linus vừa chậm rãi quay người vừa mở mắt ra.

Arthur đứng ở chân cầu thang. Người nọ mặc đồ ngủ, tức là anh đang mặc quần đùi và áo phông mỏng. Linus, đầu óc mông muội, muốn đưa áo khoác cho người ta. Trời quá lạnh để Arthur mặc đồ mình đang mặc đi ra ngoài. Anh còn không đi tất. Hay giày. Hai bàn chân anh trông mong manh kỳ lạ.

Anh đang nhìn Linus, dù trong ánh mắt ấy có vẻ chẳng có chút tức giận nào. Ngược lại, trông anh còn hơi bất an, dù Linus không dám chắc.

“Cậu ta đưa chìa khóa cho anh à,” Arthur nói. Đây không phải một câu hỏi.

Linus gật đầu. “Đúng vậy, có một chiếc chìa khóa. Tôi… Đợi đã. Anh nói cậu ta là có ý gì?”

“Charles Werner.”

“Làm sao anh…” Anh khựng lại và hít một hơi thật sâu.

Nhưng tôi đã biến ngôi nhà này thành một mái ấm cho những đứa trẻ tôi đang nuôi nấng, và đang chuẩn bị cho trường hợp nhiều đứa nữa sẽ tới. Người tới trước anh, cậu ta đã… thay đổi. Cậu ta thật dễ thươmg, và tôi đã nghĩ cậu ta sẽ ở lại. Nhưng rồi cậu ta thay lòng đổi dạ.

Chuyện gì đã xảy ra với anh ta?

Cậu ta được thăng chức. Đầu tiên là lên cấp Quản lý. Và rồi, lần cuối tôi nghe được, là lên Ban Quản Lý Thượng Tầng. Đúng như những gì cậu ta hằng mong muốn. Khi ấy tôi đã học được một bài học vô cùng chua chát: Đôi khi chúng ta không bao giờ nên nói ra ước muốn của mình vì những điều ấy sẽ không bao giờ trở thành sự thực.

“Tôi rất tiếc,” Linus nói, vẻ khá bất lực.

“Về chuyện gì?”

Linus không biết chính xác là chuyện gì nữa. “Tôi không…” Anh lắc đầu. “Tôi không biết anh ta có ý gì.”

“Ồ! Tôi nghĩ là tôi biết đấy.” Arthur rời khỏi chân cầu thang. Anh lướt ngón tay dọc mặt bàn cháy đen. “Tôi nghi là cậu ta đã đọc được điều gì đó trong báo cáo của anh khiến cậu ta lo ngại. Đây là cách cậu ta chen vào giữa chúng ta.”

“Tại sao?”

“Vì con người cậu ta là vậy. Người ta có thể giả vờ là thế này thế nọ, và khi ta đã tin là mình biết họ, khi ta đã tin là mình đã tìm thấy điều mình kiếm tìm bấy lâu, họ hé lộ bản chất thật của mình. Cậu ta đã sử dụng tôi, tôi nghĩ vậy. Để đạt được những gì cậu ta muốn. Vị trí mà cậu ta muốn.” Arthur xoa xoa hai tay vào nhau. “Khi ấy tôi trẻ hơn bây giờ. Đắm đuối. Ngu ngốc, dù anh hẳn sẽ thuyết phục tôi là không phải như vậy. Tôi đã tưởng đó là tình yêu. Giờ tôi thấy được là không phải rồi.”

“Anh ta nói đây là một phép thử,” Linus buột miệng. “Để xem liệu… liệu người như anh có thể…”

Arthur nhướn mày. “Người như tôi ư?”

“Anh biết ý tôi là gì mà.”

“Vậy thì tại sao anh không thể nói hẳn ra?”

Ngực Linus co thắt. “Một sinh vật nhiệm màu.”

“Đúng vậy.”

“Có lẽ là loài hiếm nhất trong số đó.”

“Có vẻ là vậy đấy.”

“Anh là…”

“Hãy nói ra đi. Xin anh đấy. Hãy để tôi nghe anh nói. Tôi muốn nghe anh nói ra điều ấy.”

Thế ra, anh có biết một gã phượng hoàng nọ hả?

Đúng vậy. Anh ta khá… tò mò. Nhiều chuyện đã xảy ra với anh ta, nhưng anh ta vẫn ngẩng cao đầu. Tôi thường xuyên nghĩ về con người anh ta đã trở thành.

Linus Baker nói, “Anh là phượng hoàng.”

“Đúng vậy,” Arthur thẳng thừng trả lời. “Và tôi tin tôi là cá thể cuối cùng của giống loài chúng tôi. Tôi chưa bao giờ biết mặt bố mẹ tôi. Tôi chưa bao giờ gặp ai khác giống mình.”

Linus gần như không thở nổi.

“Tôi đã không kiểm soát được sức mạnh ấy,” Arthur nói, cúi đầu nhìn hai tay. “Khi còn bé thì không. Hiệu trưởng khi ấy là một người mà nếu có thể thì tôi không muốn nghĩ đến. Ông ta độc ác và khắc nghiệt, đánh chúng tôi thường xuyên hơn là nhìn chúng tôi. Ông ta ghét chúng tôi vì bản chất của chúng tôi. Tôi không bao giờ biết được lý do. Có lẽ chuyện gì đó đã xảy ra với người đó hay gia đình trước khi ông ta tới đây. Hoặc có khi ông ta chỉ nghe lời thiên hạ nói, và để chúng tiêm nhiễm vào đầu mình như chất độc. Khi ấy mọi chuyện rất khác, không biết anh tin nổi không. Tình hình tồi tệ hơn nhiều với những người như chúng tôi. Ngày nay có những đạo luật nhất định được áp dụng mà ngày xưa không tồn tại để ngăn… Chà! Ngôi làng này không quá tệ nhưng… đó chỉ là một nơi tí hon trong một thế giới khổng lồ, rộng lớn. Là món kem anh đào từ tay một cô gái xinh đẹp. Điều ấy khiến tôi nghĩ rằng có lẽ hòn đảo không phải là sự tồn tại duy nhất trên đời này. Vậy nên tôi đã làm ra một sai lầm nghiêm trọng.”

“Anh đã cầu xin người khác giúp đỡ.”

Arthur gật đầu. “Tôi đã gửi một lá thư tới DICOMY, hoặc ít ra là đã cố làm vậy. Tôi kể với họ chúng tôi bị đối xử tồi tệ như thế nào. Những hành hạ mà chúng tôi phải trải qua dưới bàn tay của người này. Có những đứa trẻ khác ở đây, dù dường như ông ta đặc biệt căm thù tôi, và tôi gánh chịu phần lớn những giày vò ấy. Nhưng tôi thấy như vậy cũng chẳng sao, vì ông ta càng chú ý tới tôi, thì càng ít để tâm tới những người khác. Nhưng ngay cả tôi cũng có giới hạn chịu đựng. Tôi biết nếu mình không làm gì đó, chẳng mấy chốc, tôi sẽ làm hại người khác.”

Ta càng đánh chó, chúng càng co rúm lại khi ta giơ tay lên. Nếu bị dồn ép quá mức, một chú chó có thể sủa và cắn, dù chỉ là để tự vệ.

“Tôi đã cho mình là thông minh khi nghĩ ra chuyện viết thư. Tôi lén mang nó ra ngoài, kẹp nó vào chun quần. Nhưng bằng cách nào đó, ông ta phát hiện ra lá thư khi chúng tôi ở trong làng. Tôi lẻn đi, cố gắng chạy tới bưu điện, nhưng ông ta đã tìm ra tôi. Ông ta cướp lá thư khỏi tay tôi.” Arthur ngoảnh mặt đi. “Đêm đó là đêm đầu tiên tôi ở trong hầm này. Sau đó tôi đã bùng cháy. Tôi bùng cháy dữ dội.”

Linus tưởng như mình sắp ói ra. “Như vậy… Như vậy là không công bằng. Lẽ ra lão không bao giờ có quyền làm vậy với anh. Lẽ ra lão không bao giờ được phép đánh đập anh.”

“Ồ! Giờ thì tôi biết điều ấy rồi. Nhưng ngày xưa thì sao? Tôi chỉ là một đứa trẻ.” Arthur đưa tay ra, ngửa lòng bàn tay lên. Ngón tay anh khẽ co lại và giữa chúng một ngọn lửa nở rộ như hoa. Linus, một người từng thấy biết bao điều kỳ thú và tuyệt vời trong đời, bị ngọn lửa ấy hút hồn. “Hồi đó, tôi đã nghĩ rằng vì bản chất này nên tôi xứng đáng bị như vậy. Ông ta đánh đập tôi cùng cái suy nghĩ ấy cho tới khi tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài tin ông ta.” Khi ấy ngọn lửa bắt đầu động đậy, bò dọc cổ tay anh. Nó quấn quanh cánh tay anh. Khi lan đến mép áo, Linus đã tin chắc rằng nó sẽ bắt đầu bùng lên.

Cái áo không cháy.

Thay vào đó, ngọn lửa lan ra tới khi nó bắt đầu giòn tan lách tách. Nó vươn lên không trung sau lưng anh, tỏa ra tới khi Linus không thể chối bỏ điều mình đang nhìn thấy nữa.

Một đôi cánh.

Arthur Parnassus có một đôi cánh bằng lửa.

Chúng đẹp tuyệt trần. Linus có thể thấy những cọng lông vũ cháy lên trong sắc đỏ và cam, và anh nhớ lại cái đêm mình đã thấy quầng sáng lóe lên ngoài nhà khách sau khi Arthur đi khỏi. Đôi cánh vươn ra hết mức có thể trong căn hầm nhỏ, và Linus nghĩ từ mũi cánh bên này sang bên kia phải dài ít nhất là ba mét. Và dù có thể cảm nhận được sức nóng phả ra từ chúng, anh không cảm thấy thiêu đốt. Đôi cánh phấp phới, tạo ra những vệt lửa vàng rực. Ở trên cao, anh nghĩ mình có thể lờ mờ thấy được dáng dấp đầu chim, cái mỏ sắc và dài.

Arthur khép tay lại.

Phượng hoàng cuộn mình xuống đỉnh đầu anh, hai cánh thu về. Ngọn lửa tắt lụi, để lại những cuộn khói đục ngầu, hình bóng chú chim khổng lồ vẫn còn nhảy múa trong mắt Linus.

“Tôi đã cố đốt ra một đường thoát thân,” Arthur thì thầm. “Nhưng hiệu trưởng đã chuẩn bị cho trường hợp ấy rồi. Hai tấm kim loại bịt lên cửa. Tường xây bằng đá. Và tôi học được, rằng đá có thể chịu được sức nóng khổng lồ. Rất nhanh tôi đã sáng tỏ rằng mình sẽ chết ngạt vì khói trước khi trốn thoát được. Vậy nên tôi làm điều duy nhất mình có thể làm. Tôi ở lại. Ông ta rất khôn ngoan. Ông ta không bao giờ tự mang thức ăn tới hay thay cái xô tôi dùng để đi vệ sinh. Ông ta bắt một đứa trẻ khác làm việc ấy, vì biết rằng tôi sẽ không bao giờ làm hại chúng.”

Dù Linus không muốn biết, anh vẫn hỏi, “Anh đã ở dưới này bao lâu?” Anh không nhìn nổi những vạch dấu gạch ra trên tường nữa.

Arthur trông thật đau khổ. “Tới lúc tôi ra khỏi hầm, tôi nghĩ mới chỉ vài tuần thôi. Hóa ra sáu tháng đã trôi qua. Khi chúng ta sống liên tục trong bóng tối, thời gian trở nên… khó nắm bắt hơn.”

Đầu Linus rũ xuống.

“Cuối cùng, ai đó đã tới. Hoặc bởi vì họ nghi là có gì đó không thích hợp, hoặc vì họ quyết định rằng cần phải thanh tra trường này. Người khác kể với tôi rằng hiệu trưởng cố gắng lấp liếm sự vắng mặt của tôi, nhưng một trong những đứa trẻ khác đã đủ dũng cảm để lên tiếng. Người ta tìm ra tôi và trại trẻ mồ côi bị đóng cửa. Tôi bị gửi tới một trong những ngôi trường của DICOMY, nơi đó tốt hơn, dù chỉ một chút. Ít ra thì ở đó, tôi có thể ra ngoài và duỗi cánh.”

“Tôi không hiểu,” Linus thú thực. “Tại sao anh lại muốn quay về nơi này? Sau tất cả những gì đã xảy ra với anh?”

Arthur nhắm mắt lại. “Vì đây là địa ngục của tôi. Và tôi không thể để mặc nó như vậy được. Căn nhà này chưa từng là mái ấm, và tôi nghĩ mình có thể thay đổi điều ấy. Khi tôi tới DICOMY với ý tưởng mở lại trại trẻ mồ côi Marsyas, tôi có thể thấy sự tham lam trong mắt họ. Ở đây, họ có thể trông chừng tôi. Ở đây, họ có thể gửi tới những đứa trẻ mà họ nghĩ là nguy hiểm bậc nhất. Họ giao cho Charles phụ trách tôi, nói với tôi rằng cậu ta sẽ giúp tôi sắp xếp mọi chuyện. Cậu ta đã làm vậy, nhưng là theo hướng có lợi cho mình. Zoe đã cố gắng cảnh báo tôi, dù tôi đã chọn không tin bà ấy.”

Cơn giận nổi lên trong lòng Linus. “Và bà ấy đã ở đâu? Làm sao mà bà ấy lại không giúp đỡ anh?”

Người kia nhún vai. “Bà ấy không biết. Bà ấy đã trốn đi, sợ bị trả đũa. Zoe là bí mật lớn nhất của hòn đảo này, và là người họ hẳn sẽ cố gắng khai thác khi ấy. Tôi chỉ gặp bà ấy một lần trước khi xuống hầm ở. Tôi chạm mặt bà ấy trong rừng, và bà ấy suýt giết tôi tới khi nhìn ra tôi là thứ gì. Thay vào đó bà ấy đã bỏ chạy. Sau khi tôi quay lại hòn đảo này, bà ấy đến gặp tôi và nói với tôi rằng bà ấy rất tiếc về tất cả những chuyện tôi đã phải chịu đựng. Rằng bà ấy sẽ cho phép tôi ở lại, và sẽ giúp đỡ nếu tôi cần.”

“Như vậy không…”

“Bà ấy không đáng trách,” Arthur đột ngột cắt lời anh và mở toang mắt. “Chắc chắn là tôi không trách bà. Không có chuyện gì bà ấy có thể làm mà không đẩy mình vào vòng hiểm nguy cả.”

“Giờ họ đã biết về bà ấy rồi,” Linus thú nhận. “Tôi đã bao gồm cả bà ấy trong báo cáo của mình.”

“Chúng tôi biết. Chúng tôi đã hạ quyết tâm sau khi nhận được thông báo rằng DICOMY sẽ phái nhân viên công tác xã hội tới. Bà ấy đã chán phải trốn tránh rồi. Bà ấy chấp nhận mạo hiểm vì với bà lũ trẻ quan trọng đến vậy. Bà phải để cho anh thấy rằng mình sẽ không để chúng đi mà không tranh đấu.”

Linus lắc đầu. “Tôi không thể… Thế quái nào mà DICOMY lại cho anh nơi này vậy? Tại sao họ lại đồng ý giao lũ rẻ cho anh chăm sóc?” Anh tái mặt và vội vã thêm vào, “Anh rất giỏi, dĩ nhiên là vậy, chỉ là…”

“Cảm giác tội lỗi là một công cụ hùng mạnh,” Arthur nói. “Sau tất cả những gì tôi phải chịu đựng ở đây, DICOMY sẽ lãnh đủ nếu chuyện ấy truyền ra ngoài. Họ nghĩ họ có thể dùng điều ấy để tác động đến tôi. Để đổi lấy sự im lặng của tôi, họ sẽ cho tôi căn nhà này. Để trông chừng tôi, phải, nhưng cuối cùng họ lại coi hòn đảo này như một nơi biệt lập và hoang vu mà ngôi làng duy nhất ở gần có thể dễ dàng bị mua chuộc. Một nơi họ có thể gửi những đứa trẻ họ coi là… dữ dằn nhất. Đây là một phép thử khổng lồ của họ. Họ tưởng tôi là một con tốt.”

“Nhưng anh đang chơi lại họ,” Linus thì thầm. “Hãy trao cho chúng tôi những mỏi mệt, những khốn khổ, những gánh tâm tư đang khát cầu hơi thở tự do.”

Arthur mỉm cười. “Ồ đúng vậy. Tôi đón nhận những gánh tâm tư của họ và cho chúng một mái ấm nơi chúng có thể hít thở mà không phải lo sợ sự trả thù.” Nụ cười của anh phai nhạt. “Tôi tưởng mình đã hoạch định mọi chuyện. Và có lẽ tôi đã sai lầm. Giữ yên lũ trẻ trên đảo chẳng hạn. Việc ấy xuất phát từ nỗi sợ hãi. Tôi tự nhủ chúng đã phải chịu đủ rồi. Rằng hòn đảo này và Zoe và tôi có thể cho chúng mọi thứ chúng cần. Tôi yêu lũ trẻ hơn bất kỳ điều gì trên thế gian này. Và tôi thuyết phục bản thân rằng tình yêu là đủ để nuôi nấng chúng rồi. Nhưng tôi đã tính sót mất một điều.”

“Điều gì?”

Arthur nhìn anh. “Là anh. Anh là điều tôi không ngờ đến nhất trên đời.”

Linus há hốc mồm nhìn người kia. “Tôi ư? Nhưng tại sao?”

“Bởi vì con người anh. Tôi biết anh không thấy được điều ấy, Linus ạ. Nhưng tôi đã thấy đủ cho cả hai chúng ta. Anh khiến tôi cảm thấy như mình đang thiêu đốt từ bên trong.”

Linus không cách nào tin được người đàn ông này. “Tôi chỉ là một con người. Tôi chỉ là tôi mà thôi.”

“Tôi biết. Và con người anh mới đáng yêu làm sao.”

Chuyện này không thể là sự thực được. “Anh lừa họ. DICOMY ấy. Để đạt được điều anh muốn.”

Mắt Arthur nheo lại. “Phải.”

Linus phải chật vật ép câu chữ tuôn ra. “Anh cũng có thể đang lừa tôi như vậy. Để đạt được điều anh muốn. Để khiến tôi… khiến tôi viết những điều anh muốn trong báo cáo của mình.”

Arthur đột ngột hít vào một hơi. “Ôi! Ôi! Linus. Anh thật sự nghĩ tôi thấp kém đến vậy ư?”

“Tôi không biết phải nghĩ cái gì nữa,” Linus gắt lên. “Anh không phải là người như tôi tưởng. Anh nói dối tôi.”

“Tôi không nói sự thật mà thôi,” Arthur dịu dàng nói.

“Có khác gì nhau đâu?”

“Tôi nghĩ…”

“Chúng có biết về anh không? Lũ trẻ ấy?”

Arthur chậm rãi lắc đầu. “Tôi khá nhanh trong việc học được cách che giấu mình trước hầu hết mọi người.”

“Tại sao?”

“Vì tôi muốn lũ trẻ nghĩ rằng vẫn còn những điều tốt đẹp trên thế gian này. Khi tới với tôi chúng đã vỡ nát thành từng mảnh tí hon. Chúng càng ít biết về tôi càng tốt. Chúng cần phải tập trung vào việc chữa lành cho bản thân. Và tôi là…”

“Chúng đã có thể tìm ra sự tương trợ nơi anh,” Linus cự cãi. “Chúng đã có thể…”

“Và DICOMY lệnh cho tôi không bao giờ được tiết lộ thân phận của mình với chúng.”

Linus lùi lại. Anh va lưng vào tường. “Gì cơ?”

“Đó là một phần của thỏa thuận,” Arthur nói. “Một trong những điều kiện của họ trước khi họ đồng ý cho tôi trở về đây. Tôi có thể mở lại trại trẻ Marsyas, nhưng thân phận của tôi, bản chất của tôi, phải được giữ kín.”

“Tại sao?”

“Anh biết là tại sao mà, Linus. Phượng hoàng… Chúng tôi - Tôi - có thể cháy rất dữ dội, và tôi không biết có giới hạn nào không. Tôi tin là tôi có thể thiêu đốt cả bầu trời nếu tôi cật lực dồn ép bản thân. Nếu họ không tìm ra cách khai thác quyền năng đó, vậy thì ít nhất, họ sẽ khóa mỏ nó lại. Sợ hãi và căm ghét tới từ việc họ không hiểu được…”

“Đó không phải là một cái cớ,” Linus cấm cảu. “Chỉ vì anh làm được những việc người khác không thể không có nghĩa là anh trở thành một thứ cho người ta chửi rủa được.”

Người kia ngượng nghịu nhún vai. “Đó là cách họ tỏ ý rằng dù tôi nhận lại được những gì, họ vẫn kiểm soát được tôi. Đó là lời nhắc nhở rằng tất cả những điều này có thể bị lấy đi bất cứ khi nào họ muốn. Khi Charles đi, không lâu sau khi Talia và Phee đến đây, cậu ta bảo tôi rằng hãy nhớ lấy điều ấy. Và nếu nhận được tin rằng tôi bội ước, hoặc nếu thậm chí chỉ nghĩ là tôi không giữ lời thôi, cậu ta sẽ phái ai đó tới để điều tra và đóng cửa trường chúng tôi nếu cần thiết. Tôi tin là vào một thời điểm nào đó, trong đầu họ đã lóe lên suy nghĩ rằng thay vì im lặng sống trên hòn đảo này cùng những đứa trẻ họ xua đuổi, tôi sẽ tạo dựng một đội quân. Thật ngớ ngẩn, dĩ nhiên là vậy. Tôi chưa từng mong muốn thứ gì hơn là một mái ấm để coi là của mình.”

“Thật không công bằng.”

“Đúng vậy. Không công bằng. Cuộc đời hiếm khi công bằng. Nhưng chúng ta phải xoay sở hết mức có thể. Và chúng ta cho phép bản thân hy vọng về những điều tốt đẹp nhất. Vì một cuộc đời không có hy vọng là một cuộc đời đã chết.”

“Anh phải nói với chúng. Lũ trẻ cần biết anh là ai.”

“Tại sao?”

“Vì chúng phải thấy rằng chúng không chỉ có một mình.” Linus la lên, đập hai tay lên tường. “Rằng phép màu có mặt ở nơi chúng ta ít ngờ đến nhất. Rằng chúng có thể lớn lên và trở thành bất cứ con người nào mà chúng muốn!”

“Có thể thật ư?”

“Thật mà. Và tình hình có thể thay đổi, dù bây giờ trông không có vẻ gì là vậy. Talia nói anh đã dạy con bé rằng để thay đổi suy nghĩ của nhiều người, ta phải bắt đầu với suy nghĩ của vài người trước đã.”

Arthur mỉm cười. “Con bé nói vậy ư?”

“Phải.”

“Tôi tưởng nó còn không nghe tôi nói.”

“Dĩ nhiên là chúng nghe anh chứ,” Linus nói, đầy sốt ruột. “Chúng lắng nghe từng lời anh nói. Chúng trông cậy vào anh vì anh là gia đình của chúng. Anh là…” Anh ngừng lại, nặng nề hít thở. Anh không nên nói ra điều này. Như vậy là không đúng. Toàn bộ chuyện này đều không đúng. Như vậy không… “Anh là cha chúng, Arthur ạ. Anh nói rằng mình yêu mến chúng hơn chính cuộc đời này. Anh phải biết rằng chúng cũng cảm thấy tương tự về anh. Dĩ nhiên là vậy rồi. Làm sao chúng có thể không yêu quý anh được? Nhìn anh đi. Nhìn những gì anh đã tạo dựng ở đây mà xem. Anh là một ngọn lửa, và chúng cần phải biết anh rực cháy ra sao. Không chỉ vì thân phận của anh, mà còn vì con người anh đã trở thành nhờ có chúng.”

Biểu cảm trên mặt Arthur lung lay rồi vỡ vụn. Anh cúi mặt. Vai anh rung lên.

Linus muốn an ủi người ấy, muốn ôm Arthur trong tay và giữ thật chặt, nhưng anh không nhúc nhích được chân mình. Anh bối rối, mọi suy nghĩ quay mòng mòng như gió lốc trong đầu anh. Anh bám lấy suy nghĩ duy nhất mình có thể bám. “Và khi… Khi tôi về, khi tôi đi khỏi nơi này, tôi sẽ cố gắng hết sức để đảm bảo rằng Ban Quản Lý Thượng Tầng biết được việc này. Rằng hòn đảo…”

Đầu Arthur ngẩng phắt dậy. “Khi anh về ư?”

Linus quay mặt đi. “Quãng thời gian tôi trải qua ở đây vốn luôn ngắn ngủi. Sẽ luôn có ngày kết thúc. Và dù ngày ấy tới nhanh hơn tôi mong đợi thì tôi vẫn có một ngôi nhà. Một cuộc đời. Một công việc. Công việc mà tôi nghĩ giờ nó quan trọng hơn bao giờ hết. Anh đã khiến tôi mở mang tầm nhìn, Arthur ạ. Tất cả mọi người ở đây. Tôi sẽ mãi mãi biết ơn anh.”

“Biết ơn à?” Arthur đờ đẫn nói. “Dĩ nhiên rồi. Thứ lỗi cho tôi. Tôi không biết mình đã nghĩ gì nữa.” Linus ngẩng lên và thấy anh mỉm cười, dù nụ cười ấy như đang run rẩy. “Bất kỳ việc gì anh có thể làm để trợ giúp chúng tôi là trên cả tuyệt vời. Anh… Anh là một người tốt, Linus Baker ạ. Tôi rất vinh hạnh khi được quen biết anh. Chúng ta sẽ phải đảm bảo rằng tuần cuối cùng anh ở trên đảo là một tuần anh sẽ không thể nào quên.” Anh dợm quay gót, nhưng rồi ngừng lại. “Và tôi hứa với anh, trong đầu tôi chưa từng có suy nghĩ lợi dụng anh vì bất kỳ mục đích gì. Anh quá quý giá để có thể kể ra thành lời. Tôi nghĩ… giống như một trong mấy chiếc cúc của Theodore vậy. Nếu anh hỏi cháu nó tại sao lại trân trọng chúng đến vậy, thằng bé sẽ nói với anh rằng chỉ vì chúng có mặt trên đời mà thôi.”

Rồi người nọ đi lên cầu thang và bước ra màn đêm.

Linus đứng trong căn hầm, nhìn chằm chằm vào khoảng trống Arthur bỏ lại phía sau. Không trung vẫn ấm áp, và Linus thề rằng anh còn nghe thấy tiếng lửa lách tách reo vang.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3