Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 16
Nếu cuộc đời Linus là một bộ phim tâm lý xã hội thì tuần cuối cùng trong quãng thời gian anh ở trên đảo Marsyas sẽ lạnh lẽo và mưa dầm, mây đen kéo tới trên cao cho hợp với tâm trạng của anh.
Nhưng thời tiết lại nắng ấm, dĩ nhiên là vậy. Bầu trời và mặt biển mang một màu xanh thẳm.
Vào thứ hai, Linus dự giờ học của lũ trẻ, ngồi nghe trong khi chúng thảo luận về cuốn Magna Carta vào buổi sáng và Truyện Cổ Canterbury vào buổi chiều. Sal rất tức tối vì những câu chuyện đó chưa kết thúc, khiến Arthur nhắc tới Bí Ẩn về Edwin Drood. Sal thề sẽ đọc cuốn sách ấy và tự viết ra cái kết riêng của mình. Linus nghĩ như vậy thì thật là tuyệt diệu và tự hỏi liệu mình có bao giờ được đọc phần thằng bé viết không.
Vào thứ ba từ năm giờ chiều tới bảy giờ, anh ngồi với Talia trong vườn. Con bé hơi phiền lòng về việc Helen sẽ nghĩ gì khi bà đến thăm vườn vào tuần sau. Nó lo rằng Helen sẽ không thích những loại cây mà nó đã trồng. “Nhỡ khu vườn này không đạt chuẩn thì sao?” Talia lầm bầm bằng tiếng Thần vườn, và Linus hầu như chẳng nhận ra rằng anh hiểu con bé nói gì.
“Chú nghĩ cháu sẽ thấy rằng khu vườn này trên mức thỏa đáng rồi,” anh trả lời.
Con bé cau mày nhìn anh. “Trên mức thỏa đáng à? Hầy! Chú Linus ạ, cảm ơn chú vì lời khen ấy nhé. Chưa gì mà cháu đã thấy khá hơn nhiều rồi đây này.”
Anh vỗ vỗ đầu con bé. “Chúng ta cũng phải kiểm soát cái tôi của mình mà. Cháu không việc gì phải lo sợ cả.”
Con bé nghi hoặc nhìn quanh khu vườn. “Thật ạ?”
“Thật đấy. Đây là khu vườn đẹp nhất chú từng thấy.”
Dưới bộ râu, mặt Talia đỏ bừng.
Vào thứ tư, anh ngồi với Phee và Zoe trong rừng. Anh đã bỏ quách cái cà vạt và vạt áo sơ mi mở ra quanh cổ anh. Anh không đi giày, thảm cỏ mềm mại dưới chân anh. Nắng chiếu xiên qua kẽ lá, và Zoe đang dạy Phee rằng quyền năng không chỉ về những gì con bé có thể trồng lên, mà còn về việc chăm sóc những gì đã có sẵn. “Quyền năng này không phải lúc nào cũng là tạo ra cái mới,” Zoe thấp giọng nói khi hoa nở ra dưới tay bà. “Mà còn là tình yêu và sự chăm sóc mà cháu dành cho đất. Đất mẹ rất nồng hậu. Bà sẽ biết những ý định của cháu, và nếu chúng tốt đẹp và trong sáng, thì sẽ chẳng có gì mà cháu không làm được cả.”
Chiều hôm đó, anh đến phòng của Chauncey, và Chauncey sẽ nói, “Chào mừng tới khách sạn Everland, thưa ngài. Tôi xách hành lý cho ngài được chứ?” và Linus sẽ trả lời, “Cảm ơn anh, anh bạn tốt bụng, như vậy thì tuyệt quá.” Anh đưa một chiếc cặp rỗng qua. Chauncey nâng nó lên trên vai, cái mũ nhân viên hành lý đội lệch trên đầu. Sau đó, anh chắc chắn đã boa Chauncey một khoản hậu hĩnh. Nói cho cùng, đó là điều người ta hay làm sau khi được hưởng dịch vụ năm sao. Vệt nước muối trên sàn nóng hôi hổi.
Đó là chiều muộn ngày thứ tư, và Linus bắt đầu hoảng loạn. Một cảm giác đè lên vai anh như tấm áo choàng nặng trịch, cảm giác rằng thế này không đúng, rằng anh đang mắc sai lầm.
Anh đã đặt va li lên giường với dự định bắt đầu đóng gói đồ đạc. Ngày kia anh sẽ đi, và anh tự nhủ rằng mình nên bắt tay vào việc thôi. Nhưng anh đứng trong phòng, nhìn chằm chằm xuống hành lý của mình. Cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH nằm trên sàn gần giường. Anh không nhớ nổi lần cuối mình nhặt nó lên là khi nào. Anh tự vấn tại sao ban đầu thứ này lại quan trọng đến vậy.
Anh không biết mình sẽ còn đứng đó thêm bao lâu nữa nếu không nghe thấy tiếng gõ trên cửa sổ phòng ngủ.
Anh ngẩng lên.
Theodore đang đậu ngoài cửa, cánh khép lại hai bên mình, đầu nghiêng nghiêng. Thằng bé lại gõ lên cửa.
Linus tới cửa sổ, trượt mở cánh kính. “Chào cháu, Theodore.”
Theodore líu lo trả lời, vừa chào Linus vừa nhảy vào trong phòng. Thằng bé mở cánh ra và nửa nhảy, nửa bay lên giường, hạ cánh gần Calliope. Nó nheo mắt nhìn cô ả, và táp táp miệng. Con mèo chậm rãi đứng dậy, ưỡn cong lưng khi vươn vai. Sau đó ả đi tới chỗ Theodore và nhấc chân vả thẳng mặt thằng bé, rồi ngáp dài và nhảy xuống khỏi giường.
Theodore lắc lắc đầu, có chút choáng váng.
“Cháu đáng bị như vậy,” Linus nhẹ nhàng quở trách nó. “Chú đã bảo cháu đừng chọc ghẹo con mèo mà.”
Theodore càu nhàu với anh. Rồi, nó chiêm chiếp hỏi.
Linus chớp mắt. “Đi với cháu ư? Đi đâu?”
Theodore lại chiếp chiếp.
“Một bất ngờ à? Chú nghĩ chú không thích bất ngờ đâu.”
Theodore không chịu. Thằng bé bay lên vai Linus, đậu xuống và gặm tai Linus tới khi anh không còn lựa chọn nào khác ngoài nghe theo nó. “Thằng quỷ nhỏ táo tợn này,” Linus làu bàu. “Cháu không thể cứ cắn người ta tới khi họ làm việc cháu… Ối! Chú đi đây mà.”
Nắng chiều ấm áp phủ lên mặt Linus khi họ ra khỏi nhà khách. Anh lắng nghe Theodore lải nhải bên tai mình. Nghe hải âu quàng quạc trên không. Nghe sóng biển xô lên vách đá dưới kia. Tim anh nhói lên, gắt gao và cay đắng ngọt ngào.
Họ vào nhà chính. Trong nhà im ắng, nghĩa là hoặc mọi người đều ra ngoài làm việc riêng, hoặc Lucy đang âm mưu làm chuyện khủng khiếp gì đó sẽ dẫn đến chết chóc.
Theodore nhảy xuống khỏi vai Linus, xòe cánh khi chạm đất. Thằng bé vấp cánh khi vội vàng chạy về phía sô pha, ngã lộn nhào. Nó nằm ngửa ra, chớp mắt nhìn Linus.
Linus cố nhịn cười. “Dù sao thì cháu sẽ quen với cặp cánh này thôi. Khá vất vả đấy, chú nghĩ vậy.”
Theodore lật sấp lại và chật vật đứng dậy. Nó lắc mình từ đầu tới đuôi. Nó lại ngẩng lên nhìn Linus, lại chiêm chiếp, và chui vào dưới sô pha.
Linus nhìn chằm chằm theo nó, không thể tin được điều mình vừa nghe thấy. Anh đã thấy một góc kho tàng của Theodore - chỗ mà thằng bé giấu trên mái nhọn - nhưng chỗ này lớn hơn nhiều.
Một tiếng chiếp khác vang lên từ dưới ghế.
“Cháu chắc chứ?” Anh khẽ hỏi.
Theodore nói rằng nó chắc mà.
Linus chậm rãi quỳ xuống và bò về phía sô pha. Rõ ràng anh sẽ không chui vừa phía dưới, nhưng nếu anh lật diềm che lên, anh vẫn nhìn rõ được.
Thế nên anh đã làm vậy.
Anh nằm dán bụng xuống và ngó vào ổ của Theodore dưới ghế, má áp lên sàn.
Ở bên phải, có một chiếc chăn mềm đã được may thành một cái ổ. Một chiếc gối nhỏ bằng đầu Linus đặt trên đó. Trải ra xung quanh là kho báu của Theodore. Đó là những đồng xu và đá cuội có vân thạch anh (giống như những viên bày trong phòng Lucy) và một vỏ sò đỏ trắng xinh đẹp có vết nứt ở giữa vỏ.
Nhưng như vậy chưa hết.
Có một mảnh giấy mà Linus có thể đọc ra vài chữ trên đó: Vụn vỡ và mong manh. Người đưa ta ra…
Có một bông hoa khô trông giống loài hoa Linus từng thấy trong vườn.
Có một phiến lá xanh đến nỗi chỉ Tinh linh mới có thể trồng ra.
Có một mảnh vỡ đĩa than.
Có một tấm hình trông như bị xé ra từ tạp chí, chụp một nhân viên hành lý mỉm cười, xách túi giúp một người phụ nữ.
Có một tấm hình chụp Arthur thời trẻ hơn, mép quăn lên vì cũ kỹ.
Và bên cạnh đó, xinh xắn chất chồng lên nhau, là những chiếc cúc áo.
Vô vàn cúc áo.
Chính là những thứ vặt vãnh ấy. Những kho báu nhỏ nhặt chúng ta tìm ra mà không biết đến nguồn cội của chúng. Và chúng tới với ta khi ta ít mong đợi nhất. Ngẫm nghĩ mới thấy việc ấy đẹp đẽ xiết bao.
Linus chớp mắt để xua tan cơn rát bỏng đột ngột trong mắt.
“Thật tuyệt vời,” anh thì thầm.
Theodore chiêm chiếp lại rằng dĩ nhiên là tuyệt rồi. Thằng bé đi đến chỗ cúc áo và vùi mũi vào đống cúc như thể đang tìm thứ gì đó. Khi ngẩng đầu dậy đuôi nó vỗ thình thịch lên sàn.
Trong miệng nó là một chiếc cúc bằng đồng quen thuộc.
Nó quay lại và đi về phía Linus.
Linus nghiến chặt răng nhìn thằng bé. Theodore cắn xuống chiếc cúc rồi thả xuống sàn.
Linus có thể thấy dấu nanh của nó trên lớp đồng.
Theodore lấy mũi đẩy chiếc cúc về phía anh. Nó ngẩng lên nhìn Linus và chiếp chiếp.
“Cho chú ư?” Linus hỏi. “Cháu muốn chú lấy chiếc cúc này ư?”
Theodore gật đầu.
“Nhưng cái này…” Linus thở dài. “Cái này là của cháu mà.”
Theodore lại đẩy thứ kia về phía anh.
Linus làm điều duy nhất mình có thể làm. Anh nhận lấy nó.
Anh ngồi dậy trên sàn, tựa lưng vào sô pha. Anh nhìn xuống chiếc cúc trong tay, ngón tay vuốt ve vết nanh lồi lõm của Theodore. Chú Wyvern thò đầu ra từ dưới sô pha và kêu lên với anh.
“Cảm ơn cháu,” Linus khẽ nói. “Đây là thứ đẹp đẽ nhất mà ai đó từng tặng cho chú. Chú sẽ luôn gìn giữ chiếc cúc này.”
Theodore ngả đầu lên đùi Linus.
Họ ngồi yên ở đó trong khi nắng chiều lướt đi dọc mặt tường.
Vào sáng thứ năm thì cơn giận dữ của dân làng lên tới đỉnh điểm.
Linus đang ở trong bếp với Zoe và Lucy, thằng bé đang rống to hết mức theo giọng hát ngọt ngào của Bobby Darin. Linus mỉm cười, và rồi anh bật cười, dù tim anh như hàng nghìn mảnh vỡ cứa vào trong ngực. Bánh cuộn quế mật đang nằm trong lò, và nếu anh căng tai ra (dù Lucy đang cố hết sức để đảm bảo rằng anh không thể làm vậy), anh sẽ nghe được âm thanh khi những người khác di chuyển trong nhà.
“Nhiều hạt hồ đào thừa ra quá,” Zoe nói. “Tôi không biết chúng ta có cần phải…”
Linus giật bắn mình khi bà thả rơi cái bát đang rửa xuống chậu, nước xà phòng bắn tung tóe lên sàn nhà.
Bà đứng cứng đờ. Ngón tay bà giật giật, cánh trải ra, đập nhanh như cánh chim ruồi.
“Zoe?” Linus hỏi. “Bà ổn chứ? Có chuyện gì vậy?”
“Không,” Bà thì thầm khi Lucy tiếp tục hát, không hay biết gì. “Không, không phải bây giờ chứ. Chúng không thể. Chúng không thể làm vậy.”
Lucy nói, “Sao ạ? Bà đang nói…”
Zoe quay phắt lại, những bong bóng xà phòng tí hon rơi xuống từ đầu ngón tay bà và lả lướt đáp đất. Mắt bà rực sáng hơn bất cứ lúc nào Linus từng thấy trước kia, ngập tràn thứ ánh sáng siêu nhiên, đồng tử lấp lánh như những mảnh pha lê chói mắt. Kể từ khi quen biết Zoe, Linus chưa từng sợ bà và điều này vẫn đúng. Nhưng anh có ngu mới nghĩ rằng bà không phải là một Tinh linh cổ xưa và hùng mạnh hay quên rằng anh chỉ là một khách mời trên đảo của bà.
Anh chậm rãi bước về phía bà, không muốn khiến bà giật mình phòng khi bà không còn biết đến sự hiện diện của anh. Trước khi anh tới được chỗ bà, Arthur xông vào trong bếp, mắt nheo lại. Căn phòng dần ấm lên, và trong thoáng chốc, Linus nghĩ mình thấy ánh lửa, dù đó có thể chỉ là ảo giác do nắng sớm tạo ra.
“Chuyện gì vậy?” người nọ hạch hỏi. “Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Là ngôi làng,” Zoe nói, giọng bà mềm mại và mơ màng, câu chữ gần như nốt nhạc du dương. “Chúng đang tụ tập ở ven bờ đất liền.”
“Sao cơ?” Lucy hỏi. “Tại sao ạ? Họ muốn đến đây sao?” Thằng bé cau mày nhìn chỗ hồ đào trên quầy bếp. “Họ không được ăn bánh cuộn quế mật của cháu đâu. Cháu làm bánh theo đúng cách cháu thích. Cháu biết chia sẻ là việc tốt nên làm, nhưng hôm nay cháu không thấy mình tốt bụng lắm đâu.” Thằng bé nhìn Linus. “Cháu có phải chia sẻ bánh của cháu không?”
“Dĩ nhiên là không rồi,” Linus điềm tĩnh nói. “Nếu đó là thứ họ muốn, họ sẽ phải tự làm bánh cho mình.”
Lucy cười toe toét, dù nụ cười trông có vẻ lo lắng. “Cháu làm hai cái cho chú đấy, chú Baker ạ. Cháu không muốn chú bỏ phí đâu nhé.”
“Lucy,” Arthur nói. “Con gọi các bạn vào lớp được không? Sắp đến giờ bắt đầu học rồi.”
Lucy thở dài. “Nhưng…”
“Lucy.”
Thằng bé vừa hạ giọng càu nhàu vừa nhảy xuống khỏi ghế. Nó dừng bước ở cửa bếp, ngoái lại nhìn ba người họ. “Có vấn đề gì sao ạ?”
“Dĩ nhiên là không rồi,” Arthur nói. “Mọi chuyện đều tuyệt đối ổn thỏa. Đi thôi nào, Lucy.”
Nó chỉ lưỡng lự thêm chút nữa rồi ra khỏi bếp, hô lên gọi những đứa khác, bảo chúng rằng rõ ràng bánh cuộn quế mật sẽ không giúp chúng trốn học được như nó đã tưởng.
Arthur tới bên Zoe, túm chặt vai bà. Mắt bà trong suốt trở lại, và bà chớp mắt lia lịa. “Cậu cũng cảm thấy ư?”
Arthur gật đầu. “Họ đã bắt đầu vượt biển chưa?”
“Không. Họ… bị chặn lại. Ở cầu cảng. Tôi không biết tại sao. Nhưng phà chưa rời làng.” Giọng bà đanh lại. “Chúng có ngu mới thử làm vậy.”
Cơn ớn lạnh vươn dọc sống lưng Linus. “Ai cơ?”
“Tôi không biết,” bà nói. “Nhưng có vài người bọn chúng.” Bà nhìn qua Arthur vào không trung. “Chúng đang giận dữ. Như một cơn bão vậy.”
Arthur buông tay và lùi lại. “Bà sẽ ở lại đây với lũ trẻ. Cứ tiếp tục như bình thường. Bảo chúng rằng không có gì không ổn cả. Tôi sẽ tự mình giải quyết chuyện này. Tôi sẽ trở lại ngay khi có thể.”
Bà vươn tay sang, nắm lấy cổ tay anh. “Cậu không phải làm việc này, Arthur ạ, nhất là sau khi… Để tôi đi. Tôi sẽ…”
Arthur chậm rãi lùi xa khỏi bà. “Không. Trong trường hợp chúng vẫn lên đảo, lũ trẻ sẽ cần bà hơn. Bà có thể bảo vệ chúng tốt hơn là tôi. Nếu phải đi đến nước đó, hãy mang chúng tới nhà bà. Khép cánh rừng lại sau lưng để không thứ gì có thể lọt qua. Che phủ toàn bộ hòn đảo nếu phải làm vậy. Chúng ta đã bàn đến tình huống này rồi, Zoe ạ. Chúng ta đã luôn biết đây là một khả năng có thể xảy ra.”
Trông bà như thể chuẩn bị cự cãi nhưng rồi lùi bước trước biểu cảm trên mặt Arthur. “Tôi không muốn cậu đi một mình.”
“Anh ấy sẽ không đi một mình đâu,” Linus nói.
Họ kinh ngạc quay sang anh, như thể đã hoàn toàn quên rằng anh có mặt ở đó.
Anh hóp bụng và ưỡn ngực, hai tay chống hông. “Tôi không biết chính xác thì chuyện gì đang xảy ra, nhưng tôi lờ mờ đoán được rồi. Và nếu việc này có liên quan tới dân làng thì đã đến lúc tôi cho họ một trận ra trò rồi.” Anh nghĩ có khi trông mình rất ngớ ngẩn, và lời mình nói không có trọng lượng như đã hy vọng nhưng anh nhìn họ không rời mắt.
Arthur nói, “Tôi sẽ không kéo anh vào vòng nguy hiểm, Linus ạ. Tốt nhất là anh…”
“Tôi có thể lo được thân mình,” Linus khịt mũi. “Có thể trông tôi không có gì nổi bật, nhưng tôi đảm bảo với anh rằng tôi có khả năng hơn vẻ bề ngoài của mình đấy. Tôi có thể rất nghiêm khắc khi cần. Và tôi là một đại diện của chính quyền. Theo kinh nghiệm của tôi, người ta thường nghe lời nhà chức trách đấy.” Điều này chỉ đúng phần nào thôi, nhưng Linus giữ chi tiết ấy lại cho riêng mình.
Arthur thõng người. “Cái con người ngốc nghếch, gan dạ này. Tôi biết con người anh mà. Nhưng nếu anh chỉ…”
“Vậy thì quyết định thế nhé,” Linus nói. “Đi thôi. Tôi không thích bánh quế mật nguội đâu, nên chúng ta càng sớm giải quyết chuyện này và có thể trở về thì càng tốt.” Anh dợm bước về phía cửa, nhưng khựng lại khi một suy nghĩ lóe lên trong đầu. “Làm sao chúng ta vượt biển được nếu phà đang ở phía bên kia?”
“Bắt lấy này.”
Anh quay lại kịp lúc để thấy Zoe tung một chùm chìa khóa về phía mình. Anh lóng ngóng đón lấy, và xoay sở túm được cho chúng khỏi rơi xuống sàn. Anh cau mày khi thấy rằng đây là chìa khóa cái xe ngớ ngẩn của bà. “Dù rất cảm kích trước nỗ lực này, nhưng tôi không hiểu thứ này sẽ giúp chúng tôi thế nào. Có cả một vùng nước giữa chúng ta và ngôi làng, và trừ khi xe bà là loại tàu ngầm, không thì tôi không hiểu chìa khóa này sẽ được cái tích sự gì.”
“Tôi không cho cậu biết thì hơn,” bà nói. “Nói trước chỉ khiến cậu lo lắng mà thôi.”
“Ôi trời!” Linus yếu ớt nói. “Tôi nghĩ tôi không thích điều bà vừa nói đâu.”
Bà nhón chân hôn lên má Arthur. “Nếu chúng thấy cậu…”
Arthur lắc đầu. “Thì cứ việc thấy đi. Đã đến lúc bước ra ánh sáng rồi. Đã qua lúc đó rồi ấy chứ, tôi nghĩ vậy.” Anh liếc nhìn Linus. “Có một con người khôn ngoan nọ đã dạy tôi điều ấy.”
Họ để bà lại trong căn bếp ngập nắng, bánh cuộn quế mật dần ấm nóng trong lò.
Chiếc xe xóc nảy phóng trên đường, Linus đạp chân ga xuống hết cỡ. Tim anh đang đập thình thịch và miệng khô ran, nhưng tầm mắt rõ ràng đến sắc nét. Cây cối trông xanh hơn, hoa dọc ven đường rực rỡ hơn. Anh liếc gương chiếu hậu vừa kịp lúc thấy cánh rừng khép lại sau lưng họ cùng tiếng rền rĩ trầm thấp, che phủ con đường bằng những cành lá rậm rạp. Nếu người ta không biết phải tìm kiếm manh mối gì thì nơi này trông như chẳng có đường vượt qua.
Arthur ngồi ở ghế phụ lái, hai tay khép lại đặt trên đùi. Người ấy đang nhắm mắt, chậm rãi hít vào bằng mũi và thở ra qua miệng.
Họ đi tới cầu cảng ở mép hòn đảo mà không gặp trở ngại gì. Mặt biển phẳng lặng, những ngọn sóng bạc đầu lăn tăn khi chúng xô lên bờ cát. Ở đằng xa, phía bên kia eo biển, Linus có thể thấy chiếc phà vẫn đậu lại bên làng. Anh dừng xe, má phanh rít lên ken két.
Arthur mở mắt.
“Giờ sao?” Linus lo lắng hỏi, hai bàn tay ướt mồ hôi siết lại quanh vô lăng. “Trừ khi chiếc xe này là loại tàu ngầm thật không thì tôi không hiểu làm thế nào mà chúng ta vượt biển được. Và nếu nó là loại kia, tôi phải nói với anh rằng tôi không có kinh nghiệm lái kiểu phương tiện đó, và rất có thể chúng ta sẽ chết chìm dưới đáy biển đấy.”
Arthur cười khúc khích. “Tôi nghĩ chúng ta sẽ không phải lo tới chuyện ấy đâu. Anh có tin tôi không?”
“Có,” Linus nói. “Dĩ nhiên là có. Làm sao tôi không tin anh được chứ?”
Arthur nhìn sang anh. “Vậy thì cứ lái đi, Linus thân mến của tôi ạ. Lái đi và xem xem niềm tin ấy mang lại cho anh điều gì.”
Linus nhìn ra qua kính trước.
Anh hít một hơi thật sâu.
Anh nhấc chân khỏi phanh.
Xe bắt đầu lăn bánh về phía trước.
Anh nhấn chân xuống chân ga.
Xe bắt đầu tăng tốc.
Khớp ngón tay anh trắng bệch khi họ rời khỏi đoạn đường cuối cùng và lao lên cát trắng trên bãi biển. Họng anh thắt lại khi mặt biển choán hết kính trước. “Arthur…”
Arthur nói, “Hãy vững tin. Tôi sẽ không bao giờ để chuyện gì xảy ra với anh đâu.” Người ấy vươn qua đặt tay lên chân Linus, khẽ siết chân anh.
Linus không giảm tốc.
Anh không dừng xe.
Tiếng biển cả dậy sóng ong ong trong tai anh khi cát khô chuyển thành ướt và tia nước muối đầu tiên bắn lên mặt anh. Trước khi anh có thể hô lên cảnh báo, mặt biển đã nứt ra trước họ, nước rung lên và xê dịch như thể có gì đó đang dâng lên từ phía dưới. Anh nhắm chặt mắt lại, tin chắc rằng từng đợt từng đợt sóng sắp sửa ùa lên đầu hai người, dìm họ xuống nước.
Chiếc xe lạch xạch quanh họ, bánh lái giật nảy trong tay anh. Anh cầu xin bất kỳ tổ tiên nào đang lắng nghe soi đường chỉ lối cho mình.
“Mở mắt ra nào,” Arthur thì thầm.
“Tôi thật sự không muốn,” anh nói qua hàm răng nghiến chặt. “Nhìn thẳng vào mặt tử thần là một việc bị người ta đánh giá cao quá mức.”
“Vậy thì rất may là chúng ta sẽ không chết. Ít ra không phải là hôm nay.”
Linus mở mắt ra.
Anh sững sờ khi thấy họ đang ở trên mặt biển. Anh quay đầu nhìn lại, chỉ để thấy bờ biển đang nhỏ dần đằng sau. Anh thảng thốt, chật vật hít thở. “Chuyện gì thế này?”
Anh lại quay ra đằng trước. Một con đường kết tinh trắng xóa trải dài trước mặt họ, hiện ra từ nước biển. Anh ló đầu qua cửa xe bên mình, nhìn xuống. Con đường dưới bánh xe của họ gần như rộng gấp đôi chiều rộng của chiếc xe, giòn tan và nứt nẻ, nhưng vẫn vững vàng.
“Muối đấy,” Arthur nói và Linus có thể nghe thấy vẻ khoái chí trong giọng người nọ. “Đó là muối từ nước biển. Con đường sẽ trụ vững thôi.”
“Làm sao chuyện này lại có thể xảy ra được?” Linus ngỡ ngàng hỏi. Rồi, “Zoe?”
Arthur gật đầu. “Bà ấy có thể làm được rất nhiều điều, nhiều hơn cả những việc tôi biết được. Tôi mới chỉ thấy bà ấy làm việc này một lần trước kia. Từ lâu chúng tôi đã quyết định sử dụng phà để khiến dân làng an tâm. Đối phó với Merle khi cần phải làm vậy vẫn tốt hơn, thay vì gây sợ hãi bằng một chiếc xe đi qua mặt biển.”
Linus cuồng loạn cười đến nghẹn họng, “Ồ! Dĩ nhiên rồi. Chỉ là một con đường làm từ muối biển mà thôi. Làm sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ?”
“Anh đã không biết đó cũng là một khả năng,” Arthur khẽ nói. “Nhưng những người mơ tới những chuyện bất khả thi sẽ biết được chúng ta có thể đi xa tới đâu khi bị dồn ép tới nước ấy.”
“Chà! Vậy thì,” Linus yếu ớt nói. “Hãy xem họ có thích chúng ta bị chèn ép không, nhỉ?”
Anh đạp chân ga mạnh hết mức có thể.
Chiếc xe thét gào lao về phía trước trên con đường bằng muối.
Họ có thể thấy một nhóm người đứng ở bến cảng gần con phà. Vài người giơ tay lên trời, bàn tay nắm lại thành nắm đấm. Tiếng hò hét của họ chìm nghỉm dưới âm thanh của biển và của động cơ xe, nhưng miệng họ méo mó, mắt họ nheo lại. Vài người mang theo những tấm bảng trông như đã được vội vàng làm ra, trên ghi những dòng chữ như TÔI THẤY CÓ CHUYỆN, TÔI PHẢI LÊN TIẾNG và TÔI LÀ KẺ PHẢN ĐỐI KẺ PHẢN CHÚA và vô cùng lố bịch là TÔI KHÔNG CÓ ĐIỀU GÌ HAY HO ĐỂ VIẾT.
Tiếng la ó của họ tắt dần khi thấy chiếc xe tới gần. Linus không thể trách họ vì đeo trên mặt vẻ sững sờ kia. Anh tin là nếu mình đang đứng trên bờ nhìn một chiếc xe đi qua mặt biển, có lẽ anh cũng sẽ có biểu cảm ấy.
Con đường bằng muối kết thúc ở bãi biển gần cảng. Anh dừng xe lại trên cát, tắt máy. Động cơ lạch xạch.
Im lặng bao trùm.
Rồi, ở đằng trước, người đàn ông ở quán kem (Norman, Linus có chút khinh thường thầm nghĩ) hét lên, “Chúng đang sử dụng ma thuật kìa!”
Một lần nữa đám đông lại bắt đầu gào lên còn hăng say hơn khi trước.
Helen đang đứng trên cầu cảng, trước mặt đám đông như thể để ngăn họ đi lên phà. Trông bà tức điên lên, mặt lấm lem vệt đất. Merle đứng cạnh bà, tay khoanh trước ngực, mặt cau có.
Linus và Arthur ra khỏi xe, đóng sập cửa lại sau lưng. Linus nhẹ nhõm khi thấy đám đông không lớn như lúc anh mới thấy họ. Có khoảng một tá người, gồm cả Helen và Merle. Anh không ngạc nhiên khi thấy Marty ở tiệm đĩa đứng trong đó, đeo nẹp cổ. Cậu ta giơ một cái biển ghi ĐÚNG VẬY, TÔI BỊ DÒNG GIỐNG QUỶ SỨ ĐÁNH TRỌNG THƯƠNG. HÃY HỎI TÔI ĐI! Bên cạnh cậu ta là người đàn ông làm ở bưu điện. Linus không ngạc nhiên gì. Ngay từ đầu anh chưa bao giờ ưa thích gì cái gã đó.
Tiếng hò hét lại lặng đi khi Linus và Arthur đi lên cầu thang cạnh cầu cảng, dù họ không im hẳn.
“Chuyện này là như thế nào đây?” Linus hạch hỏi khi lên cảng. “Tên tôi là Linus Baker, và tôi làm việc cho Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu. Phải, đúng vậy. Nhân viên nhà nước đây. Và khi một nhân viên nhà nước muốn các người trả lời, câu trả lời đó phải được đưa ra nhanh nhẹn hết mức có thể.”
“Họ cố chiếm phà của tôi,” Merle nói, nhìn đám đông và Arthur với vẻ ghét bỏ đồng đều. “Kêu là họ muốn ra đảo. Tôi không để họ đi.”
“Cảm ơn ông, Merle,” Linus nói, ngạc nhiên vì sự tử tế của lão lái phà. “Tôi không ngờ là…”
“Họ không chịu trả tiền cho tôi,” Merle cấm cảu. “Tôi không làm việc gì miễn phí đâu nhé.”
Linus cắn lưỡi.
“Lẽ ra cậu không nên tới,” Helen nói với Arthur. “Tôi kiểm soát được vụ này mà. Tôi sẽ không để chuyện gì xảy ra với cậu hay lũ trẻ đâu.” Bà lườm thằng cháu đang cố gắng lùi xa hơn vào trong đám đông. “Có vài người không biết lúc nào thì nên câm mồm lại. Ồ! Mày cứ thử trốn đi, Martin Smythe ạ, nhưng bác thấy mày rồi đấy. Bác thấy mày rõ như ban ngày. Tôi thấy mặt tất cả các người rồi. Và tôi nhớ rất, rất dai đấy.”
“Tôi tin là bà đã kiểm soát tốt tình hình,” Arthur nói, giọng bình thản. “Nhưng có người kề vai sát cánh thì luôn tốt hơn mà.”
Linus bước tới trước. Nắng chiếu chói chang khiến anh đổ mồ hôi như thác. Anh lườm nhóm người trước mặt mình. Anh chưa bao giờ là kiểu người đáng sợ, một điều khiến anh rất ủ ê, nhưng anh sẽ không cho phép đám người này làm bất kỳ điều gì đang tắc lại trong đầu họ. “Chuyện này là thế nào đây?”
Anh cảm thấy vui sướng một cách cuồng dại khi đám người đồng loạt lùi lại một bước.
“Sao nào? Có vẻ như các người vẫn nói được cho tới khi chúng tôi đến nơi mà. Có ai không? Chắc phải có ai đó sẵn sàng lên tiếng chứ.”
Chính Norman là người mở miệng. Linus không hề ngạc nhiên. “Chúng tôi muốn chúng cuốn xéo đi,” hắn gầm ghè. “Lũ trẻ ấy. Trại trẻ ấy. Hòn đảo ấy. Tất cả bọn chúng.”
Linus nhìn hắn chằm chằm. “Và anh nghĩ mình sẽ tống khứ nguyên một hòn đảo đi như thế nào?”
Norman tức đỏ cả mặt. “Đó… Anh thấy đấy… Đó không phải là trọng điểm.”
Linus giơ hai tay lên. “Thế thì mời anh nói xem, cái gì mới là trọng điểm?”
Norman lắp bắp rồi nói, “Đứa trẻ phản Chúa. Suýt nữa thì nó giết Marty rồi.”
Đám đông rầm rầm đồng tình sau lưng hắn.
Norman điên cuồng gật đầu. “Phải, đúng vậy. Marty ở đó, làm việc của mình khi cái… cái thứ kia vào làng và đe dọa mạng sống của thằng bé. Ném chàng trai tội nghiệp lên tường như chơi. Nó đã bị thương tật vĩnh viễn. Việc nó còn đang đi được là cả một phép màu.”
Helen khinh bỉ. “Thương tật vĩnh viễn cái mông ấy.”
“Nhìn nẹp cổ của nó mà xem.” Lão bưu tá nói. “Làm gì có ai đeo nẹp cổ trừ khi họ bị thương nghiêm trọng.”
“Thật à?” Helen nói. “Vì cái nẹp cổ đó trông giống y như cái tôi cất trong tủ ở nhà mà người ta đưa cho sau một vụ tai nạn xe hơi nhiều năm về trước đấy.”
“Không phải đâu.” Marty thốt lên. “Cháu đã đi khám bác sĩ và bác sĩ đưa nó cho cháu sau khi bảo cháu rằng cột sống của cháu hầu như đã tan thành bột phấn rồi, và cháu rất may mắn khi còn sống đấy.”
“Việc ấy thì tôi còn tin,” Linus lầm bầm. “Cậu ta là cái thứ khom lưng uốn gối.”
Helen đảo tròn mắt. “Martin, có thẻ tên ở sau cái nẹp ấy. Trên đó ghi ký tự viết tắt tên bác. Mày quên xé nó xuống rồi. Chúng ta đều thấy được đấy.”
“Ồ!” Martin nói. “Chà, cái này… chỉ là trùng hợp mà thôi?”
“Chẳng quan trọng đâu,” Norman hùng hổ nói. “Chúng tôi đều đã quyết định rằng đám trẻ kia là một mối đe dọa. Chúng tượng trưng cho mối nguy hiểm đối với tất cả chúng tôi. Chúng tôi đã chịu đựng sự xấu xa của chúng đủ rồi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tìm tới tất cả chúng tôi, như đã làm với Marty?”
“Cậu ta có kể với anh rằng cậu ta đã một mình lôi trẻ nhỏ vào phòng khóa kín để cố trừ tà thằng bé không?” Linus hỏi. “Vì tôi tin là có nhiều điều luật chống lại việc bắt cóc và cố ý tấn công, dù đứa trẻ là ai đi nữa.”
Đám đông chậm rãi quay lại nhìn Marty.
Marty đã tìm ra thứ gì đó kỳ lạ khủng khiếp trên mặt đất dưới chân mình.
Norman lắc đầu. “Hành động của cậu ta là lầm lỗi, nhưng trọng điểm vẫn như vậy. Chúng tôi không được phép tự vệ à? Các người nói chúng là trẻ con. Được thôi. Nhưng chúng tôi có con cái của riêng mình để lo lắng.”
“Lạ thật đấy,” Helen nói, bước tới đứng cạnh Linus. “Vì không người nào trong số các người có con cả.”
Norman lại lồng lộn lên. “Đó là vì phụ huynh sợ quá nên không dám đến đây.”
“Kể tên một phụ huynh đi,” Helen thách hắn.
Norman nói, “Tôi sẽ không để bà cố lừa tôi đâu. Tôi biết bà không nhìn ra điều ấy, Helen ạ, và đó là việc của bà. Nhưng chúng tôi sẽ không cho phép cuộc sống của mình bị đe dọa khi…”
Linus chát chúa bật cười. “Đe dọa à? Bởi ai cơ? Trên đời này có ai đe dọa các người ngoài tôi ra?”
“Là chúng nó!” Một người phụ nữ la lên ở phía sau đám đông. “Chúng là một mối đe dọa, chỉ đơn giản vì chúng có mặt trên đời.”
“Tôi không tin các người,” Linus nói. “Tôi đã ở bên chúng một tháng, và tôi hầu như chẳng nghe thấy một lời đe dọa thoáng qua nào. Thật ra, lần duy nhất tôi từng nghĩ ở đây có mối nguy hiểm nào ngoài lần Marty ngu dại cố gắng tấn công trẻ nhỏ ra, chính là khi các người tụ tập ở đây. Giả sử như các người vượt biển lên đảo. Các người sẽ làm gì? Các người sẽ ra tay với lũ trẻ ư? Sẽ đánh đập chúng ư? Làm đau chúng? Giết chúng ư?”
Norman tái mặt. “Đó không phải là việc chúng tôi…”
“Vậy thì các người đang làm cái gì vậy? Vì chắc chắn là mọi người phải có ý tưởng gì chứ. Các người đã tụ tập thành đám đông, nhặng xị quá khích lên. Lối suy nghĩ bầy đàn đã đầu độc các người và tôi không muốn tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu các người lên được đảo. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ nói điều này, nhưng ơn trời có Merle ở đây để từ chối cho các người lên phà của ông ta.”
“Phải,” Merle nói. “Tôi đã bảo các người cần phải trả tiền, nhưng các người lại từ chối.”
“Thật lòng ấy mà, Merle ạ,” Helen nói. “Hãy học cách ngậm miệng lại khi người ta đang khen khéo ông, có được không?”
“Giải tán đi,” Linus nói. “Không thì tôi sẽ làm mọi việc trong quyền hạn của mình để đảm bảo rằng…”
Anh không thấy được ai đã làm việc ấy. Ai đó đứng giữa đám đông. Anh không nghĩ là Marty, nhưng chuyện xảy ra quá nhanh. Một bàn tay giơ lên, và nắm chặt trong những ngón tay kia là một cục đá to. Bàn tay vươn ra sau rồi vung xuống đằng trước, hòn đá bay về phía họ. Linus không có thời gian để nghĩ xem kẻ kia nhắm đến ai, nhưng Helen đang đứng giữa đường bay của nó. Anh nhào ra trước bà, quay lưng về đám đông, che chắn cho bà. Anh nhắm mắt lại và chờ đợi cú va chạm.
Hòn đá không hề bay tới. Thay vào đó, cứ như mặt trời đã đâm xuống trái đất vậy. Không khí mỗi lúc một nóng lên cho tới khi có cảm giác như đang cháy. Anh mở mắt ra, mặt cách mặt Helen có vài phân. Nhưng bà không nhìn anh. Bà đang kinh ngạc ngước nhìn trên đầu anh, trong mắt bà phản chiếu những sóng lửa cuồn cuộn.
Anh chầm chậm quay lại.
Đứng giữa họ và đám đông là Arthur Parnassus, dù không như khi trước.
Phượng hoàng đã trỗi dậy.
Hai tay người ấy dang rộng hai bên. Đôi cánh Linus đã thoáng thấy trong căn hầm tối tăm giờ duỗi ra ít nhất ba mét về mỗi bên của Arthur. Lửa bò dọc tay và vai anh. Trên đầu anh, phượng hoàng ưỡn cổ, cắp hòn đá trong mỏ. Nó kẹp mỏ xuống, khiến hòn đá vỡ tan thành từng mảnh nhỏ lả tả rụng xuống trước Arthur.
Giữa đám người đứng trước họ xuất hiện sự sợ hãi, đúng vậy, nỗi sợ trước màn phô diễn này, dù nó lộng lẫy đến vậy. Nhưng cảm xúc sợ hãi ấy đã lép vế trước vẻ kinh ngạc anh thấy nơi Helen, cùng vẻ kinh ngạc mà anh tin là đang hiển hiện trên mặt anh lúc này.
Đôi cánh phấp phới, lửa lách tách reo.
Phượng hoàng ngửa cổ thét vang, một tiếng rít bén nhọn sưởi ấm tận tâm can Linus.
Linus mặc Helen đứng trên cảng.
Anh chậm rãi vòng ra trước mặt Arthur, luồn qua dưới một bên cánh, cảm nhận sức nóng của nó trên lưng mình.
Arthur đang nhìn thẳng về phía trước, đôi mắt bùng cháy. Phượng hoàng vỗ cánh, những tua lửa xoáy tròn. Nó nghiêng đầu khi nhìn xuống Linus, mắt chậm rãi chớp chớp.
Không nghĩ ngợi gì nhiều, Linus vươn tay lên ôm lấy mặt Arthur. Da người nọ nóng bỏng, nhưng Linus không sợ bị thiêu rụi hay cháy đen. Arthur sẽ không bao giờ để điều ấy xảy ra.
Lửa liếm lên mu bàn tay anh nhồn nhột. “Nào, nào,” Linus khẽ nói. “Tôi nghĩ thế là đủ rồi đấy. Anh đã bày tỏ ý kiến rất rõ ràng rồi.”
Lửa trong mắt Arthur dần tắt.
Đôi cánh khép lại.
Phượng hoàng cúi đầu xuống họ. Linus ngước lên nhìn nó và thảng thốt khi con chim khổng lồ thoáng cọ mỏ lên trán anh trước khi cũng biến mất trong cuộn khói đen dày đặc.
“Giờ thì anh đã lỡ lộ mặt mất rồi,” Linus thì thầm.
“Đã đến lúc rồi,” Arthur nói. Mồ hôi nhỏ giọt trên trán anh, và mặt anh tái nhợt. “Ổn không?”
“Quá ổn ấy chứ. Tôi muốn tránh bị ném đá vào đầu hoặc vào bất kỳ đâu nếu có thể, nên tôi rất cảm kích việc anh đã làm đấy.” Anh thả tay xuống, biết rằng quanh họ vẫn đang đầy người. Giờ anh giận dữ, giận dữ hơn đã từng trong một thời gian dài. Anh dợm quay lại để cho họ một trận, để dọa họ sợ mất mật, nhưng dừng lại khi Arthur lắc đầu. “Anh đã nói phần của anh rồi. Hãy để tôi.”
Linus gật đầu cộc lốc, dù không rời khỏi bên người Arthur. Anh lườm đám đông, thách bất kỳ ai trong số họ dám ném thêm hòn đá nào khác.
Chút ý chí chiến đấu trong họ đã bay biến. Mắt họ trợn tròn, mặt tái mét. Biển bảng nằm trên đất trong quên lãng. Marty đã cởi nẹp cổ ra, có lẽ là vì cậu ta muốn ngẩng lên nhìn phượng hoàng trỗi dậy.
Arthur nói, “Tôi không biết quý vị rõ như mình mong muốn. Và quý vị không biết tôi. Nếu có thì quý vị đã biết rằng cố hãm hại tôi và người của tôi không bao giờ là một ý hay cả.”
Linus lại nóng bừng lên, dù phượng hoàng đã biến mất.
Đám đông lại lùi thêm một bước.
Arthur thở dài, hai vai rũ xuống. “Tôi không… Tôi không biết phải làm gì ở đây nữa. Tôi không biết phải nói gì. Tôi không tin là lời nói suông sẽ thay đổi được cảm xúc và suy nghĩ của người khác, nhất là khi những lời ấy tới từ phía tôi. Quý vị sợ những gì mình không hiểu. Quý vị coi chúng tôi như những thành phần lộn xộn trong thế giới quy củ mà quý vị biết. Và tôi đã không làm gì nhiều để chống lại suy nghĩ ấy, xét trên việc tôi đã giữ bọn trẻ sống biệt lập trên đảo ra sao. Có lẽ nếu tôi…” Anh lắc đầu. “Chúng ta đều phạm sai lầm. Lúc nào cũng vậy. Đó là điều khiến chúng ta nên người, cả khi chúng ta khác nhau. Quý vị coi chúng tôi như thứ gì đó để e sợ. Và suốt một thời gian rất dài, tôi đã coi quý vị chẳng là gì ngoài những bóng ma sống sờ sờ từ một quá khứ mà tôi sẽ đánh đổi bất kỳ thứ gì để quên đi. Nhưng đây là ngôi nhà của chúng ta, là nơi chúng ta chung sống. Tôi sẽ không cầu xin. Tôi sẽ không van vỉ. Và nếu chuyện đi tới nước ấy, tôi sẽ làm điều nên làm để đảm bảo an toàn cho lũ trẻ nhà tôi. Nhưng tôi mong là mình sẽ tránh được việc ấy nếu có thể. Thay vào đó, tôi xin quý vị hãy lắng nghe thay vì phán xét những điều mình không hiểu được.” Anh nhìn Marty, cậu ta co rúm lại. “Lucy không thật sự định hại cậu,” Anh hòa nhã nói. “Nếu nó muốn hại cậu, nội tạng của cậu đã lòng thòng bên ngoài cả rồi.”
“Có lẽ nên nói giảm nói tránh chút đi,” Linus lầm bầm khi đám đông đồng loạt thảng thốt.
“Đúng đấy,” Arthur nói. Rồi, dõng dạc hơn, “Dù rằng cháu nó sẽ không bao giờ làm vậy. Tất cả những gì thằng bé muốn chỉ là đĩa than mà thôi. Nó rất yêu mến những chiếc đĩa đó. Dù có là gì khác đi nữa, thằng bé vẫn chỉ là một đứa trẻ, như tất cả chúng nó đều vậy. Và không phải mọi đứa trẻ đều xứng đáng được bảo vệ sao? Được yêu thương và nuôi nấng để chúng có thể lớn lên và vun đắp thế giới này, để biến nó thành một nơi tốt đẹp hơn? Nói theo cách đó, chúng cũng chẳng khác gì những đứa trẻ khác trong làng, hay ngoài làng cả. Nhưng chúng bị răn đe rằng mình khác biệt, bởi những người như quý vị và những người quản lý chúng, và bởi thế giới của chúng ta. Những người đặt ra luật lệ và cấm cản để tách chúng ra và cô lập chúng. Tôi không biết ta sẽ phải làm những gì để thay đổi điều ấy, liệu ta có làm được gì không nữa. Nhưng thay đổi sẽ không xảy ra ở trên cao kia. Mà sẽ bắt đầu từ chúng ta.”
Đám đông cảnh giác nhìn anh.
Arthur thở dài. “Tôi không biết phải nói gì khác cả.”
“Tôi thì có đấy,” Helen nói, bước tới trước. Bà giận điên người, hai tay siết lại thành nắm đấm. “Các người có quyền tụ tập trong hòa bình. Các người có quyền bày tỏ ý kiến. Nhưng ngay giây phút hành động vượt quá giới hạn và trở thành bạo lực, chuyện này sẽ trở thành vấn đề về pháp lý. Thanh thiếu niên nhiệm màu được bảo vệ bởi luật pháp, như mọi đứa trẻ đều vậy. Bất kỳ tổn hại nào xảy ra với chúng đều sẽ đổi lại những hậu quả chớp nhoáng nhất. Tôi sẽ đảm bảo cho việc ấy. Tôi sẽ làm hết khả năng của mình để đảm bảo rằng bất kỳ ai xuống tay với một đứa trẻ, dù nhiệm màu hay không, sẽ ước gì mình đã không làm như vậy. Có lẽ các người nghĩ mình có thể lờ đi bất kỳ điều gì Linus hay Arthur nói, nhưng hãy nhớ lời tôi, nếu tôi thậm chí là đánh hơi ra chút xích mích nào nữa, tôi sẽ cho các người thấy tại sao không nên đùa với tôi.”
Norman là người đầu tiên phản ứng lại.
Hắn hậm hực bỏ đi, chen lấn qua đám đông, càu nhàu với chính mình.
Lão bưu tá đi theo, dù ông ta ngoái lại nhìn, vẻ choáng váng hiện lên trên mặt.
Vài người nữa nối gót họ. Marty cũng cố trốn đi, nhưng Helen đã nói, “Martin Smythe! Mày đứng ngay lại cho bác. Bác với mày sẽ phải nói chuyện rất lâu về phép tắc cư xử đúng mực nơi đông người và hình phạt cho sự dối trá đấy. Và nếu người ném cục đá đó là mày, bác sẽ rút hết tiền trong quỹ ủy thác của mày ra và quyên góp hết cho từ thiện.”
“Bác không thể làm vậy được.” Marty la oai oái.
“Bác có thể đấy,” Helen nghiêm túc nói. “Bác là người được ủy thác mà. Và việc ấy sẽ rất, rất dễ thôi.”
Đám đông giải tán. Linus giật mình khi vài người lầm bầm câu xin lỗi với Arthur, dù họ giữ nguyên khoảng cách. Anh nghĩ tin tức về những gì họ vừa thấy sẽ rất mau chóng lan truyền trong làng thôi. Anh sẽ không ngạc nhiên khi câu chuyện cuối cùng lại thành ra Arthur biến hình thành chim khổng lồ, dọa thiêu rụi mọi người và phá hủy ngôi làng.
Merle nói, “Tôi sẽ đưa các cậu về đảo nếu các cậu muốn. Chỉ nửa giá thôi.”
Linus khụt khịt. “Tôi nghĩ chúng tôi không cần đâu, Merle ạ. Nhưng cảm ơn ông vì lòng tốt này nhé.” Anh ngừng lại, ngẫm nghĩ. “Và tôi nói thật lòng đấy.”
Merle vừa thấp giọng càu nhàu về việc con đường muối sẽ khiến ông ta thất nghiệp vừa đi xuống cầu cảng về phía chiếc phà.
Arthur đang nhìn người dân đi về phía làng. “Bà có nghĩ họ sẽ nghe tôi không?” anh hỏi Helen.
Helen cau mày. “Tôi không biết. Tôi hy vọng là có, nhưng sau cùng tôi hy vọng vào nhiều điều mà không phải lúc nào cũng thành sự thực.” Bà gần như ngượng nghịu nhìn anh. “Lông vũ của cậu đẹp lắm đấy.”
Anh mỉm cười. “Cảm ơn bà, Helen. Vì tất cả những gì bà đã làm.”
Bà lắc đầu. “Hãy cho tôi thời gian, Arthur ạ. Hãy cho tất cả chúng tôi thời gian. Tôi sẽ làm những gì mình có thể.” Bà siết tay anh rồi quay sang Linus. “Thế là cậu sẽ đi nhỉ? Thứ bảy, phải không?”
Anh chớp mắt. Trong nỗi phấn khích, anh quên mất chuyến đi của mình đã sắp kết thúc. “Vâng,” Anh nói. “Thứ bảy.”
“Tôi hiểu rồi.” Bà nhìn qua lại giữa Arthur và Linus. “Tôi thật sự mong rằng một ngày nào đó cậu sẽ quay lại đây, cậu Baker ạ. Ở đây rõ là… nhộn nhịp khi có mặt cậu. Thượng lộ bình an nhé.”
Nói rồi, bà đi xuống bến cảng, túm tai Martin và kéo cậu ta theo bất chấp sự phẫn nộ đầy chính đáng của cậu ta.
Linus tới bên Arthur. Mu bàn tay họ cọ lên nhau. “Anh thấy thế nào?” Anh hỏi.
“Sao cơ?”
“Khi duỗi cánh ra ấy.”
Arthur ngửa mặt về phía thái dương, môi khẽ cong lên. “Thấy như lần đầu tiên tôi được tự do sau một thời gian rất dài vậy. Đi thôi nào, Linus thân yêu. Ta về nhà thôi. Tôi tin là Zoe đang bận túi bụi đây. Tôi sẽ lái xe nhé.”
“Về nhà thôi,” Linus lặp lại lời ấy, tự hỏi nơi ấy thật sự ở đâu mới được.
Họ quay về phía chiếc xe. Lát sau, họ đã chạy trên đường muối, gió lùa trong tóc, mặt biển xanh thẳm vỗ về bánh xe.