Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 17

Vào chiều thứ sáu, có tiếng gõ cửa vang lên ở nhà khách.

Linus ngẩng lên từ bản báo cáo cuối cùng. Anh đã viết báo cáo gần hết ngày hôm nay. Anh mới chỉ viết được một câu duy nhất sau phần mở đầu theo đúng thủ tục.

Anh đứng dậy khỏi ghế và đi tới cửa.

Anh ngạc nhiên khi thấy lũ trẻ của Trại trẻ Mồ côi Marsyas đứng trên hiên. Chúng ăn mặc như thể đã sẵn sàng để phiêu lưu.

“Ta đã trở lại!” Chỉ huy trưởng Lucy reo lên. “Vì chuyến thám hiểm cuối cùng. Ngài Baker, ta đề nghị ngài tham gia với chúng ta. Sẽ có rất nhiều hiểm nguy, và ta không thể hứa trước rằng ngài sẽ sống sót sau cuộc thám hiểm này. Ta đã nhận được tin rằng có rắn ăn thịt người và côn trùng đục khoét da thịt chúng ta và nhai sống nhãn cầu của chúng ta từ bên trong. Nhưng phần thưởng, nếu như ngài còn sống, sẽ lớn hơn cả trong những giấc mơ điên khùng nhất của ngài. Ngài có nhận lời không?”

“Tôi không biết nữa,” Linus chậm rãi nói. “Ngài nói sao, rắn ăn thịt người à? Nghe nguy hiểm thế.”

Lucy ngoái lại nhìn những đứa khác rồi nghiêng tới trước và thì thầm, “Chúng không có thật đâu. Cháu chỉ đang giả vờ thôi. Nhưng đừng nói với các bạn nhé.”

“À,” Linus nói. “Tôi hiểu rồi. Chà, tình cờ thay tôi lại là chuyên gia về rắn ăn thịt người, đặc biệt là về cách tránh mặt chúng. Tôi nghĩ là mình nên đi theo để đảm bảo rằng không có chuyện gì xảy ra với các vị.”

“Ôi ơn trời!” Chauncey thở phào. “Cháu không muốn bị ăn thịt hôm nay đâu.”

“Chú đi thay đồ đi.” Talia nói, đẩy Linus vào nhà. “Chú không thể mặc như vậy mà đi đâu.”

“Không được à? Có vấn đề gì với…” Anh cứng đờ lại và sụm xuống, “Ôi không! Chú nghĩ chú không đi được thêm bước nào nữa rồi. Có phải do côn trùng đục khoét thịt người không?”

“Sao chú lại thế này cơ chứ?” Talia gầm gừ. “Phee! Giúp tớ với.”

Phee rống lên và lao tới, tông trọng lượng không đáng kể của mình lên Linus. Anh vừa khụt khịt vừa bước thêm một bước về phía phòng ngủ. “Tốt hơn nhiều rồi đấy, cảm ơn các cháu. Chú sẽ ra ngay thôi.”

Anh vừa nghe lũ trẻ phấn khích nhốn nháo về cuộc phiêu lưu sắp tới vừa đi vào phòng ngủ. Anh đóng cửa lại sau lưng và tựa lên đó, ngửa đầu ra sau và nhắm mắt lại.

“Mày làm được mà,” anh thì thầm. “Đi nào, anh bạn già. Một chuyến phiêu lưu cuối cùng thôi.”

Anh chống người đứng dậy khỏi cửa và đi tới tủ quần áo.

Anh tìm thấy bộ đồ thám hiểm.

Anh mặc chúng vào.

Trông anh vẫn hoàn toàn lố bịch.

Và chỉ lần này thôi, anh nhận ra mình chẳng hề quan tâm.

Các nhà thám hiểm hì hục băng qua khu rừng. Họ chống lại thổ dân ăn thịt người tấn công họ bằng giáo, tên và những lời đe dọa moi gan uống mật chẳng hề che đậy. Họ lén lút qua mặt những con rắn ăn thịt người buông mình xuống như những dây leo dày cui từ tán cây. Chỉ huy trưởng Lucy bị hạ gục bởi côn trùng sẽ đục khoét sâu mắt thằng bé. Nó hổn hển, tắc nghẹn và quơ quào tay chân, cuối cùng ngã xuống bên một gốc cây, lưỡi lè ra khỏi miệng. Chỉ nhờ đoàn thám hiểm mà thằng bé sống lại được vào giây phút cuối cùng, sống sót để chiến đấu thêm ngày nữa.

Cuối cùng họ cũng đến được khu vực quen thuộc, và ở đằng xa Linus có thể thấy một rặng cây che giấu ngôi nhà của một Tinh linh giữ đảo. Họ bước ra khỏi bìa rừng và lên bãi biển ngay khi giọng bà bùng lên xung quanh. “Ta thấy rằng các ngươi đã trở lại. Các ngươi quả thật là ngốc nghếch. Lần trước các ngươi chỉ suýt soát thoát chết mà thôi.”

“Hãy nghe đây!” Chỉ huy trưởng Lucy hô lên. “Ngươi sẽ không đánh bại được chúng ta đâu. Chúng ta yêu cầu ngươi đưa kho báu ra đây. Chúng ta sẽ không chấp nhận lời từ chối của ngươi đâu.”

“Không ư?”

“Không!” Lũ trẻ hét lên.

“Không,” Linus khẽ khàng lặp lại.

“Ồ! Chà, vậy thì ta nghĩ tốt hơn là giờ ta nên từ bỏ thôi. Các ngươi quá hùng mạnh với một kẻ như ta.”

“Ta biết mà,” Lucy hăm hở thì thào. Thằng bé giơ hai tay lên đầu. “Các anh em!” Nó liếc lại Talia và Phee. “Và cả chị em nữa. Hãy theo ta tới chỗ phần thưởng thích đáng của các ngươi nào.”

Chúng đi theo thằng bé. Dĩ nhiên là vậy. Chúng sẽ theo nó đi khắp nơi.

Linus cũng vậy.

Chúng chạy ào qua bãi biển vào rặng cây.

Linus thở dài. Anh sẽ không chạy đi đâu cả. Những tháng ngày chạy nhảy của anh đã kết thúc rồi. Anh lau trán và lê bước về phía rặng cây.

Anh cau mày khi tới bên rìa. Không trung đã trở nên yên tĩnh một cách kỳ quái. Sáu đứa trẻ lẽ ra nên gây ra nhiều tiếng ồn hơn. Đặc biệt là sáu đứa này. Anh lưỡng lự nhưng rồi bước vào rặng cây.

Đèn lồng giấy treo trên những cành cây. Chúng chính là những đèn lồng treo ở vọng lâu. Anh vươn lên áp tay lên một trong những chiếc đèn lồng ấy. Đốm sáng bên trong thật rực rỡ, và anh nghĩ đó không phải là bóng đèn hay nến.

Họ đang đợi anh khi anh đi đến ngôi nhà giữa vùng cây cối. Talia và Phee. Sal, Theodore, Chauncey, và Lucy. Zoe, những bông hoa trên tóc bà mang màu xanh và vàng.

Và Arthur, dĩ nhiên rồi. Arthur luôn có mặt.

Họ giơ một biểu ngữ ra trước người, một tấm giấy dài trên có viết dòng chữ: CHÚNG CHÁU SẼ NHỚ CHÚ LẮM, CHÚ BAKER Ạ!!! Có những dấu tay in lên trên giấy. Những dấu tay nho nhỏ là của Talia, Phee và Lucy. Dấu tay lớn hơn của Sal. Một vệt màu mà anh nghĩ do xúc tu của Chauncey vẽ nên. Và những đốm màu trông như vết móng của Theodore.

Linus hít một hơi run rẩy. “Chú… Chú không ngờ đấy. Tất cả các cháu đã làm ra một tấm băng rôn thật tuyệt vời làm sao. Trông nó kìa. Trông các cháu kìa.”

“Ý tưởng của cháu đấy,” Lucy nói.

Talia giẫm lên chân nó.

Nó méo mặt. “Chà, gần như đều là ý tưởng của cháu cả. Tuy nhiên những bạn khác đã giúp cháu. Đôi chút.” Mặt nó lại tươi tỉnh. “Nhưng chú đoán xem?”

“Đoán gì cơ?”

“Sau cùng chẳng có kho báu nào hết. Đó là một lời nói dối để dẫn chú đến đây dự tiệc của chú đấy.”

“Ồ! Chú hiểu rồi. Vậy ra kho báu đích thực là tình bạn chúng ta tạo dựng nên suốt dọc đường ư?”

“Các chú tệ lắm,” Lucy lầm bầm. “Thật sự tệ lắm luôn.”

Và đó quả là một bữa tiệc. Có đồ ăn, nhiều đồ ăn đến nỗi Linus tưởng cái bàn sẽ sụp xuống dưới sức nặng của chỗ đồ ăn ấy. Có thịt nướng và bánh mì nóng hổi, salad với dưa chuột nhai giòn tan. Có bánh kem và bánh nướng và một bát phúc bồn tử chua để họ chấm vào kem tươi.

Và âm nhạc nữa. Đủ các thể loại âm nhạc. Có một máy hát đặt trên quầy. Ngày âm nhạc tạ thế tươi tắn và sôi nổi cất lên với tiếng ca của Ritchie, Buddy và The Big Bopper vọng xuống từ thiên đường. Lucy chịu trách nhiệm bật nhạc, và thằng bé luôn khiến mọi người phải chưng hửng.

Vào ngày hôm ấy họ đã vui cười. Ôi! Họ đã vui cười biết bao. Dẫu Linus nghĩ rằng tim mình đang vỡ vụn, anh vẫn cười tới chảy cả nước mắt, tới mức anh tin là mạn sườn mình sẽ nứt ra. Khi mặt trời bắt đầu lặn và ánh đèn lồng càng rực sáng hơn, họ cứ cười và cười và cười mãi.

Linus đang lau nước mắt (ứa ra vì buồn cười, anh tự nhủ) thì âm nhạc lại thay đổi lần nữa.

Anh nhận ra bài hát này trước cả khi Nat King Cole bắt đầu cất tiếng.

Anh ngẩng lên và thấy Arthur Parnassus đứng trước mặt mình, tay đưa ra.

Cảm ơn anh.

Anh cứ hay nói vậy, mà tôi không biết liệu mình có xứng không nữa.

Nhưng tôi chẳng bao giờ nói điều gì không thật lòng cả. Đời này quá ngắn ngủi để làm vậy. Anh có thích khiêu vũ không?

Tôi không… biết. Nói thật thì, tôi thấy có khi tôi có hai bàn chân trái không chừng.

Tôi thật sự nghĩ không phải vậy đâu.

Và Linus Baker cho phép bản thân được ích kỷ. Chỉ một lần này thôi.

Anh nắm tay Arthur và chậm rãi đứng dậy khi Nat bảo anh hãy mỉm cười cho dù trái tim đang tan vỡ.

Arthur kéo anh lại gần, và họ bắt đầu đu đưa.

“Hãy mỉm cười và biết đâu ngày mai,” Arthur thì thầm vào tai anh. “Em sẽ thấy nắng mai vì em mà chiếu rọi.”

Linus ngả đầu lên ngực Arthur. Anh có thể cảm nhận được nhiệt hỏa từ người nọ rực cháy từ bên trong.

Họ khiêu vũ với nhau.

Khoảng thời gian ấy như trải dài hàng thập kỷ dù Linus biết bài hát này chẳng được bao lâu. Anh nghe thấy Arthur thì thầm nhiều điều với anh. Thậm chí anh còn khiến bản thân mình ngạc nhiên. Sau cùng, có vẻ như anh không có hai bàn chân trái thật.

Nhưng, như mọi phép màu, cuối cùng bài hát cũng kết thúc.

Căn nhà lặng im xung quanh họ. Linus chớp mắt như thể vừa tỉnh cơn mơ. Anh ngẩng dậy. Arthur đang cúi đầu nhìn anh, ánh mắt long lanh như ngọn lửa. Linus lùi lại.

Zoe ngồi ôm Phee và Talia trong lòng. Theodore đang đậu trên vai Sal. Lucy và Chauncey nằm dán mình lên chân thằng bé. Mọi người trông đều mệt mỏi. Hạnh phúc, nhưng mệt mỏi. Lucy mỉm cười với anh, nhưng nụ cười bị phá vỡ khi nó ngáp dài. “Chú có thích kho báu của mình không nào, chú Baker?”

Linus lại ngước lên nhìn Arthur. “Thích chứ,” anh thì thầm. “Chú thích kho báu này hơn bất kỳ thứ gì trên cõi đời này.”

Zoe bế Phee và Talia khi họ đi bộ về nhà chính. Talia ngáy ầm ĩ.

Sal đã nhét Theodore vào trong áo, và chú Wyvern gối đầu lên cổ thằng bé.

Arthur nắm xúc tu Chauncey dắt đi.

Linus đi sau cùng, trong vòng tay là Lucy đang ngái ngủ.

Anh ước gì giây phút này có thể kéo dài mãi mãi.

Nhưng nó như đã chấm dứt trong một tích tắc.

Anh chúc Talia ngủ ngon. Chúc Phee ngủ ngon. Chúc Sal và Theodore. Anh chuyển sang bế Lucy bằng một tay để vươn xuống xoa đầu Chauncey.

Ánh mắt Arthur hỏi anh một câu vô thanh.

Linus lắc đầu. “Tôi chăm sóc thằng bé được.”

Arthur gật đầu và quay sang nhắc nhở những đứa khác rằng đến giờ đánh răng rồi.

Anh bế Lucy vào phòng ngủ của Arthur và đặt nó xuống. “Cháu đi thay đồ ngủ đi,” anh khẽ nói.

Lucy gật đầu và quay về phía cửa phòng thay đồ. Nó đóng cửa lại sau lưng.

Linus đứng giữa phòng ngủ, cảm thấy mọi thứ đều mơ hồ. Anh tưởng anh biết mọi chuyện diễn ra như thế nào, thế giới này vậy hành ra sao, vị trí của mình trong đây là gì.

Giờ thì anh không chắc nữa.

Lucy mặc quần ngủ và áo phông trắng quay lại. Tóc thằng bé dựng lên như thể nó vừa luồn tay qua đó. Hai bàn chân trần của nó trông thật nhỏ bé.

“Đi đánh răng thôi,” Linus dịu dàng chỉ dẫn.

Lucy ngước lên nhìn anh đầy ngờ vực. “Chú sẽ ở đây khi cháu quay lại chứ?”

Linus gật đầu. “Chú hứa mà.”

Lucy trở ra hành lang. Anh nghe tiếng Chauncey hò hét rằng Theodore lại đang ăn kem đánh răng, và Theodore chiếp chiếp trả lời rằng không phải mà.

Linus vùi mặt vào hai bàn tay.

Anh đã bình tĩnh lại khi Lucy trở lại trong phòng, mặt được cọ rửa sạch bong. Thằng bé lại ngáp. “Cháu mệt quá,” nó nói.

“Phiêu lưu là một công việc khó nhọc mà, chú nghĩ là vậy.”

“Nhưng chuyến phiêu lưu hôm nay tuyệt lắm.”

“Tuyệt nhất đấy,” Linus đồng tình.

Anh nắm tay Lucy và dẫn nó về phòng. Những chiếc đĩa than họ đã tỉ mẩn dán lại đang treo trên tường (dù trên mặt đĩa Buddy Holly có một mảnh họ không tìm ra được vẫn đang mất tích; có vẻ như Theodore đã nhanh chân di dời). Linus kéo chăn ra và Lucy bò xuống dưới chăn, dụi đầu lên gối.

Linus lại kéo chăn lên đến vai thằng bé. Lucy nghiêng mình, nhìn Linus. “Cháu không muốn chú đi đâu.”

Linus khó khăn nuốt khan rồi khom lưng xuống bên giường. “Chú biết. Và chú cũng lấy làm tiếc vì chuyện ấy. Nhưng quãng thời gian của chú ở đây sắp kết thúc rồi.”

“Tại sao vậy?”

“Vì chú có việc phải làm.”

“Tại sao vậy?”

“Vì chú là người lớn. Và người lớn thì có công việc.”

Lucy cau mày. “Cháu không bao giờ muốn làm người lớn hết. Nghe nhàm chán quá đi.”

Anh vươn tay vén một lọn tóc của Lucy khỏi trán thằng bé. “Chú nghĩ cháu sẽ trở thành một người lớn tuyệt vời thôi, dù còn rất lâu nữa chuyện ấy mới tới.”

“Chú sẽ không để họ bắt chúng cháu đi, phải không?”

Linus lắc đầu. “Đúng vậy. Chú sẽ làm mọi điều có thể để đảm bảo rằng chuyện ấy không xảy ra.”

“Thế ạ?”

“Đúng thế, Lucy à.”

“Ồ! Chú tốt bụng quá.” Rồi, “Khi cháu thức dậy là chú đi rồi phải không?”

Linus ngoảnh mặt đi mà không trả lời.

Anh cảm thấy tay Lucy cọ lên má mình. “Những bạn khác không biết, nhưng cháu biết. Đôi khi cháu thấy được một số hình ảnh. Cháu không biết tại sao. Thấy chú. Thấy Arthur. Thầy ấy bốc cháy. Chú có biết việc ấy không?”

Linus hít mạnh vào. “Anh ấy kể với cháu à?”

“Không. Cháu nghĩ thầy ấy không được kể. Nhưng chúng cháu biết. Chúng cháu đều biết. Cũng như chúng cháu biết hai người đã làm gì khi rời đảo mấy hôm trước. Thầy là người như chúng cháu. Như chú vậy.”

“Chú e là chú không có phép thuật đâu.”

“Có đấy, chú Baker ạ. Thầy Arthur bảo cháu rằng phép màu có thể tồn tại cả trong những người bình thường.”

Anh quay lại nhìn Lucy.

Mắt thằng bé đã nhắm lại.

Nó đang thở đều đặn.

Linus đứng dậy.

“Cảm ơn cháu,” anh thì thầm.

Anh đảm bảo rằng mình hé cửa ra một chút khi rời đi, để một tia sáng chiếu vào và xua đuổi mọi cơn ác mộng phòng khi những thứ ấy cố tìm đến đứa bé đang say ngủ.

Những cửa phòng khác đều đã đóng lại. Anh chạm lên từng cánh một khi chậm rãi lang thang xuống hành lang.

Ánh đèn duy nhất còn bật chiếu ra từ dưới cửa phòng Sal.

Anh nghĩ đến việc gõ cửa.

Anh không làm vậy.

Anh dừng lại ở đầu cầu thang.

Hít một hơi.

Rồi đi xuống.

Có tiếng cãi cọ thì thầm dưới tầng một. Anh lưỡng lự, không biết liệu có nên để họ biết mình đã có mặt không. Anh không nghe được họ nói gì, nhưng biết rằng chuyện ấy không phải để cho mình nghe.

Zoe đứng ở cửa chính, chỉ vào ngực Arthur, trán nhăn tít, mắt nheo lại. Trông bà thật bực bội. Không hẳn là tức giận mà là… vẻ gì đó khác. Bà ngừng nói khi bậc thang cuối cùng cọt kẹt dưới chân Linus.

Họ quay sang nhìn anh.

“Lucy đã ngủ rồi,” anh nói, gãi gãi gáy.

“Cái lũ đàn ông này,” Zoe gầm gừ. “Vô dụng, cả đám các cậu.” Bà tách ra khỏi Arthur, vẻ mặt căng thẳng khi lườm Linus. “Vậy thì, sáng sớm ngày mai hả?”

Linus gật đầu. “Tàu khởi hành vào đúng bảy giờ. Merle đợi chúng ta vào lúc sáu rưỡi.”

“Và cậu cứ phải lên tàu, phải không?”

Anh không nói gì.

“Được thôi,” bà càu nhàu. “Tôi sẽ có mặt. Đừng để tôi phải chờ đấy.” Bà quay lưng và bỏ đi mà không nói gì thêm. Bà vẫn để cửa mở toang.

Arthur nhìn theo bà, quai hàm nghiến chặt.

“Mọi chuyện ổn cả chứ?”

Đầu anh đau nhức. “Nếu hai người đều lo lắng về bản báo cáo cuối cùng của tôi, thì để tôi đảm bảo với mọi người là…”

“Không phải chuyện bản báo cáo chết tiệt đó.”

“Được thôi,” Linus chậm rãi nói. Anh không chắc mình có từng nghe Arthur chửi thề trước kia chưa. “Vậy thì là chuyện gì?”

Arthur lắc đầu.

“Cứng đầu cứng cổ,” Linus càu nhàu, và anh không ngăn được giọng mình trìu mến chừng ấy. Anh không biết phải làm gì khác, nên anh làm điều duy nhất mình có thể làm.

Anh đi ra cửa.

Anh nghĩ chuyện gì đó sẽ xảy ra vào khoảnh khắc anh lướt qua Arthur. Là chuyện gì thì anh không biết. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Anh là một kẻ hèn nhát.

“Vậy thì, chúc anh ngủ ngon nhé,” cuối cùng anh cũng nói được nên lời. Anh tiếp tục đi về phía cửa.

Và rồi Arthur nói, “Ở lại đi.”

Anh dừng bước và nhắm nghiền mắt. Giọng anh run rẩy khi hỏi lại, “Sao cơ?”

“Ở lại. Ở đây. Với mọi người. Ở lại với tôi đi.”

Linus lắc đầu. “Anh biết tôi không thể mà.”

“Không, tôi không biết. Tôi không biết là phải như vậy.”

Linus quay lại, mở mắt ra.

Arthur tái nhợt, miệng mím lại thành một đường thật mỏng. Linus nghĩ anh có thể thấy hình bóng lờ mờ của cặp cánh rực lửa sau lưng anh, nhưng đó có thể chỉ là do ánh sáng tù mù. “Khoảng thời gian này vốn luôn hữu hạn,” Linus nói. “Tôi không thuộc về nơi này.”

“Nếu anh không thể thuộc về nơi đây, vậy thì anh thuộc về nơi nào mới được?”

“Tôi có cuộc sống riêng,” Linus nói. “Tôi có một ngôi nhà. Tôi có…”

Nhà không phải lúc nào cũng là ngôi nhà nơi ta sống. Đó còn là những người chúng ta lựa chọn để ở bên. Có thể cậu không sống trên đảo, nhưng cậu không thể nói với tôi rằng đó không phải là nhà cậu được. Bong bóng của cậu, cậu Baker ạ. Nó đã vỡ rồi. Tại sao cậu lại để nó lần nữa mọc lên quanh mình?

“Tôi có công việc phải làm,” anh đuối lý dứt lời. “Nhiều người đang trông đợi vào tôi. Không chỉ… Không chỉ ở đây. Có những đứa trẻ khác có thể cần đến tôi. Có thể đang ở trong tình cảnh như anh đã từng. Chẳng lẽ tôi không nên làm mọi thứ có thể để giúp chúng sao?”

Arthur gật đầu cụt lủn và liếc đi chỗ khác. “Dĩ nhiên là có. Dĩ nhiên là việc ấy quan trọng rồi. Thứ lỗi cho tôi. Tôi không có ý cho rằng công việc của anh không quan trọng.” Khi quay lại nhìn Linus, vẻ mặt người ấy phẳng lặng, gần như là… trống rỗng. Anh khẽ cúi mình. “Cảm ơn anh, Linus. Vì tất cả mọi thứ. Vì nhìn nhận chúng tôi bằng con người thật của mỗi người. Anh sẽ luôn được chào đón trên đảo này. Tôi biết bọn trẻ sẽ nhớ anh nhiều.” Vẻ mặt anh hơi gợn sóng. “Tôi biết tôi sẽ nhớ anh nhiều.”

Linus mở miệng, nhưng chẳng có lời nào thốt ra. Và anh căm ghét bản thân mình vì điều ấy. Người đàn ông nọ, người đàn ông tuyệt vời nọ, đang ở đây, đang phơi bày trái tim mình. Linus phải trao lại cho anh thứ gì đó, dù nhỏ nhặt đến đâu đi nữa.

Anh thử lại lần nữa. Anh nói, “Nếu mọi chuyện… Nếu hoàn cảnh khác đi, tôi… Anh phải biết, Arthur ạ. Anh phải biết là vậy. Nơi này. Lũ trẻ. Anh. Giá như tôi có thể…”

Arthur lặng lẽ mỉm cười. “Tôi biết mà. Chúc ngủ ngon, Linus ạ. Và thượng lộ bình an nhé. Hãy tự chăm sóc bản thân mình.”

Anh đóng cửa, để lại Linus đứng ngoài hiên nhà trong bóng tối.

Linus ngồi xuống hiên nhà. Đằng đông đã hửng sáng. Sao trời lấp lánh. Va li đặt bên người anh. Cả Calliope nằm trong lồng nữa, dù cô ả chẳng vui vẻ gì vào sáng sớm thế này. Linus có thể đồng tình với con mèo, đặc biệt là vì anh cũng không chợp mắt được chút nào.

Anh hít một hơi thật sâu. Hơi thở ấy phả ra thành sương khói. “Tao nghĩ đã đến giờ rồi.”

Anh đứng dậy. Anh xách va li và lồng mèo rồi bước xuống hiên nhà.

Như đã hứa, Zoe đang đợi bên chiếc xe tí hon của bà. Bà đón lấy va li từ tay anh và cất vào cốp xe mà không nói một lời.

Anh đặt Calliope lên ghế sau rồi cũng trèo vào đó.

Zoe lên xe và khởi động máy.

Rồi họ khởi hành.

Linus nhìn ngôi nhà trong kính chiếu hậu chậm rãi nhỏ dần phía sau.

Merle đang đợi ở cầu cảng. Đèn pha ô tô chiếu rọi vẻ mặt cau có của ông ta. Ông ta hạ cầu phà xuống. “Tiền phà sáng sớm thế này là gấp đôi nhé,” ông ta nói.

Linus khiến chính mình kinh ngạc. “Im đi, Merle.”

Mặt Merle trợn tròn.

Linus không rời mắt khỏi ông ta.

Merle chịu thua trước. Ông ta vừa càu nhàu vừa quay về buồng lái.

Họ suôn sẻ vượt qua eo biển. Mặt biển gần như phẳng lặng. Bầu trời dần sáng hơn. Zoe không nói gì. Khi họ tới làng, Merle còn không nhìn họ khi hạ cầu xuống. “Tôi mong là bà sẽ trở lại ngay,” Merle nói khi họ xuống phà. “Hôm nay tôi bận lắm và…”

Zoe rồ ga lên, và họ không còn nghe thấy bất kỳ lời nào khác mà Merle muốn nói.

Tàu chưa đến nơi khi họ tới sân ga. Sao trời đang biến mất khi mặt trời bắt đầu mọc. Linus có thể nghe thấy tiếng sóng rì rào ở đằng xa khi Zoe tắt máy xe. Tay anh nắm lại trên đầu gối.

“Zoe, tôi…”

Bà ra khỏi xe và đi vòng ra đằng sau. Anh nghe thấy tiếng bà mở cốp. Anh thở dài. Anh đẩy cửa và xuống xe. Anh xách lồng của Calliope ra khỏi ghế sau. Zoe đặt va li của anh cạnh sân ga trước khi quay lại chỗ cốp xe và đóng sầm nó lại.

“Tôi hiểu rồi,” anh nói.

Bà bật cười, dù nghe chẳng vui vẻ gì. “Thế hả? Vì tôi nghi lắm.”

“Tôi không mong là bà sẽ hiểu.”

Bà lắc đầu. “Tốt. Vì tôi không hiểu.”

“Tôi không thể cứ ở lại đây được. Có những luật lệ cần phải tuân thủ. Những quy định phải được…”

“Quỷ tha ma bắt cái mớ luật lệ và quy định của cậu đi!”

Anh há hốc miệng nhìn bà. Rồi anh nói điều duy nhất mình có thể nói, “Cuộc đời ấy mà, nó… Nó không vận hành theo cách đó.”

“Tại sao lại không?” bà cấm cảu. “Tại sao đời không thể vận hành theo bất kỳ cách nào mà ta muốn? Sống để làm gì khi cậu chỉ sống theo cách mà người khác muốn?”

“Đó là cách sống tốt nhất mà chúng ta có thể có được.”

Bà khinh bỉ. “Và đây là cách sống tốt nhất của cậu ư? Như thế này ư?”

Anh không nói gì khi tiếng còi của đoàn tàu đang tới vọng lại từ cuối đường ray.

“Để tôi nói cho cậu nghe, Linus Baker ạ,” bà nói, hai tay siết lên mép cửa bên ghế lái. “Trong cuộc đời ta có những khoảnh khắc, khoảnh khắc khi ta phải đánh cược một phen. Điều ấy thật đáng sợ vì luôn có khả năng là ta sẽ thất bại. Tôi biết điều ấy. Tôi biết là vậy. Vì ngày xửa ngày xưa, tôi đã đặt cược vào một con người mà trước đấy tôi từng cô phụ. Tôi đã lo sợ. Tôi đã khiếp hãi. Tôi tưởng mình sẽ mất đi mọi thứ. Nhưng khi ấy tôi đâu có sống. Cuộc đời của tôi trước đó không phải là một cuộc sống. Đó chỉ là qua ngày đoạn tháng mà thôi. Và tôi sẽ không bao giờ tiếc hận ván cược mình đã đặt. Vì điều ấy mang tôi tới với họ. Tới với tất cả mọi người. Tôi đã lựa chọn. Và cậu đang lựa chọn phần cậu.” Bà mở cửa và lên xe. Động cơ lại rì rầm. Bà chỉ quay đầu nhìn anh một lần khi nói, “Cậu không ước gì mọi chuyện có thể khác đi sao?”

“Bạn không ước mình được đến đây sao?” anh thì thầm, nhưng bà hẳn sẽ không nghe thấy. Tới khi anh nói xong, bà đã phóng đi, cát hất tung sau bánh xe.

Anh nhìn chằm chằm cái điện thoại màu cam trên sân ga trong khi đợi tàu, nghĩ rằng chuyện sẽ dễ dàng biết bao nếu anh nhấc ống nghe lên và gọi điện. Để nói với bất kỳ ai trả lời rằng anh muốn trở về nhà.

“Thế ra có mình anh thôi hả?” Tiếp viên vui vẻ hỏi khi anh lên tàu. “Tôi không hay thấy có người về muộn thế này sau mùa du lịch.”

“Về nhà ấy mà,” Linus làu bàu khi đưa vé qua.

“À,” Cậu tiếp viên nói. “Chẳng có nơi đâu bằng nhà mình, người ta hay bảo tôi như vậy. Tôi ấy hả, tôi thích vi vu trên đường sắt cơ. Tôi đã thấy biết bao điều kỳ thú đấy, anh biết không?” Cậu ta liếc xuống tấm vé. “Về thành phố thôi. Tôi nghe nói là ở đó đang bão to lắm. Mưa không ngớt từ lâu lắm rồi.” Cậu ta cười toe toét khi trả vé. “Tôi giúp anh xách hành lý nhé, thưa ngài?”

Linus chớp mắt để xua đi cảm giác cay xè. “Vâng. Được thôi. Cảm ơn cậu. Tôi sẽ xách lồng. Con mèo không thích hầu hết những người khác đâu.”

Cậu tiếp viên nhòm xuống. “À, tôi hiểu rồi. Vâng. Tôi sẽ xách va li cho ngài. Toa tàu ngài ngồi ở ngay hướng này, thưa ngài. Và may cho ngài, toa trống trơn. Không một bóng người trong tầm mắt. Có thể chợp mắt một lát đấy, nếu ngài cần.”

Cậu ta vừa huýt sáo vừa nhấc va li lên và mang nó lên tàu.

Linus nhìn xuống lồng mèo. “Sẵn sàng về nhà chưa?”

Calliope quay đi và chĩa mông vào mặt anh.

Linus thở dài.

Hai tiếng sau, những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3