Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 18
Trời đang mưa tầm tã trong thành phố khi anh xuống tàu.
Anh siết chặt áo khoác quanh mình, nheo mắt ngước lên bầu trời xám xịt.
Calliope rít lên khi nước bắt đầu nhỏ giọt qua nan trên nóc lồng cô ả.
Anh xách va li lên và đi bộ về phía bến buýt.
Xe buýt đến muộn.
Dĩ nhiên là vậy.
Anh cởi áo khoác ra và phủ lên lồng của Calliope.
Áo che được mưa. Tạm thời là vậy.
Anh hắt xì.
Anh hy vọng mình sẽ không ốm. Nó phụ thuộc vào may mắn của anh, phải không?
Hai mươi phút sau, xe buýt đến nơi, bánh xe đẫm nước.
Cửa trượt mở ra.
Linus đã ướt sũng khi lên xe.
“Xin chào,” anh nói với tài xế.
Tài xế càu nhàu đáp lời khi Linus chật vật quẹt thẻ.
Xe buýt hầu như trống không. Có một người đàn ông ngồi ở cuối xe, áp mặt lên kính cửa, và một người phụ nữ nhìn Linus đầy nghi ngờ.
Anh ngồi xuống chỗ cách xa bọn họ.
“Gần về đến nhà rồi,” anh thì thầm với Calliope.
Cô ả không trả lời.
Anh nhìn ra ngoài cửa sổ khi xe buýt rời khỏi bến.
Một biển quảng cáo cạnh đó lọt vào mắt anh.
Trên đó, một gia đình đang đi dã ngoại trong công viên. Trời đang nắng đẹp. Họ ngồi trên một tấm trải kẻ ca rô, cái giỏ mây đan đặt giữa họ đang mở nắp và đầy ắp phô mai, nho, bánh kẹp đã được cắt bỏ vỏ bánh. Người mẹ đang bật cười. Người cha đang mỉm cười. Bé gái và bé trai đang âu yếm ngước nhìn bố mẹ mình.
Trên đầu họ, biển quảng cáo ghi: HÃY BẢO VỆ GIA ĐÌNH BẠN! THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI!
Linus quay mặt đi.
Anh phải đổi xe buýt một lần, và tới lúc anh xuống khỏi xe thứ hai là đã gần năm giờ chiều. Gió đã nổi, trời lạnh và khắc khổ. Anh còn cách nhà ba dãy phố. Anh đã nghĩ lúc này đây mình sẽ thấy nhẹ nhõm.
Không hề. Không hẳn.
Anh vừa dằn dỗi vừa xách lồng mèo cùng va li lên.
Anh đã gần đến nơi rồi.
Đường nhà vắng lặng khi anh rẽ vào đó.
Đèn đường đã bật, những giọt nước đọng lại trên những tấm kính cửa.
Số 86 Hermes Way tối om. Ồ! Con đường gạch dẫn lên nhà vẫn vậy, và bãi cỏ vẫn vậy, nhưng nơi này vẫn có cảm giác… tăm tối. Mất một lúc anh mới nhận ra rằng chút sắc màu nhỏ nhoi từng tô điểm nơi đây, khóm hướng dương của anh, đã mất rồi.
Anh nhìn chằm chằm mặt tiền nhà mình một lát.
Anh lắc đầu.
Anh sẽ tính đến chuyện này vào ngày mai.
Anh đi theo lối nhỏ và đến hiên nhà. Anh đặt va li xuống trong khi lóng ngóng tìm chìa khóa. Chúng rơi xuống sàn, và anh càu nhàu khi cúi xuống nhặt chìa khóa lên.
Qua màn mưa, anh nghe tiếng gọi, “Cậu đấy à, cậu Baker?”
Anh thở dài rồi đứng dậy. “Phải, bà Klapper ạ. Cháu đã về đây. Bà thế nào rồi?”
“Hoa của cậu chết rồi. Chết úng, cậu tin nổi không. Tôi đã gọi một thằng bé đến nhổ chúng đi. Chúng thối đen lại rồi. Một ngôi nhà trông cũ nát đến vậy sẽ ảnh hưởng đến giá bán nhà của cả khu phố. Tôi giữ hóa đơn cho số tiền tôi trả cậu ta đây. Tôi đợi cậu hoàn lại cho tôi đấy.”
“Dĩ nhiên rồi, bà Klapper. Cảm ơn bà.”
Bà cụ vẫn khoác áo choàng tắm vải bông và hút cùng một chiếc tẩu. Tóc bà vẫn búi phồng như vậy. Mọi thứ vẫn vậy. Trong từng chi tiết nhỏ nhặt nhất.
Anh đã bắt đầu tra chìa vào ổ khi bà lại lên tiếng. “Cậu về hẳn đấy chứ?”
Linus có cảm giác muốn gào lên. “Phải, bà Klapper ạ.”
Bà nheo mắt nhìn anh từ phía bên kia đường. “Trông cậu như đã phơi nắng hả. Cậu có vẻ không nhợt nhạt như hồi xưa. Giảm cân nữa. Cậu đã có một kỳ nghỉ ra trò đấy.”
Quần áo anh có hơi rộng hơn khi trước, nhưng lần đầu tiên trong một thời gian rất dài, anh nhận ra mình hoàn toàn không quan tâm tới chuyện đó. “Không phải là một kỳ nghỉ. Cháu đã nói với bà là cháu đi công tác mà.”
“Ừ hử! Thì cậu nói thế. Dẫu vậy, tôi nghĩ nổi điên ở chỗ làm, dọa giết tất cả mọi người, rồi bị đưa đến trại cai nghiện thì cũng chẳng sao cả.”
“Chuyện không phải như vậy.”
Bà xua tay với anh. “Dù có như vậy thì cũng không phải chuyện của tôi. Dẫu vậy, cậu nên biết rằng việc ấy đã trở thành chủ đề bàn tán của cả khu phố rồi.” Bà cau mày với anh. “Ảnh hưởng đến giá bán nhà lắm đấy.”
Anh siết chặt nắm đấm cửa. “Bà đang định bán nhà à?”
Bà cụ chớp mắt nhìn anh khi khói nghi ngút bốc quanh khuôn mặt nhăn nheo của mình. “Không. Dĩ nhiên là không. Tôi sẽ đi đâu kia chứ?”
“Vậy thì tại cái giống gì mà bà lại quan tâm tới giá bán nhà chết tiệt kia chứ?”
Bà nhìn anh chằm chằm.
Anh lườm lại bà.
Bà bập một hơi tẩu. “Tôi có thư của cậu đấy. Hầu hết đều là quảng cáo. Có vẻ cậu không nhận được nhiều thư từ cá nhân cho lắm. Tôi đã dùng phiếu giảm giá rồi. Tôi tin là cậu không để bụng đâu.”
“Ngày mai cháu sẽ lấy thư.”
Anh đã chắc chắn rằng như vậy là hết chuyện, nhưng dĩ nhiên bà già tiếp tục nói. “Cậu nên biết là mình đã bỏ lỡ cơ hội rồi đấy. Cháu tôi đã gặp một người đàn ông tốt khi cậu vắng mặt. Cậu kia là bác sĩ khoa nhi. Tôi nghĩ chúng sẽ làm đám cưới vào mùa xuân. Sẽ làm ở nhà thờ, dĩ nhiên rồi, vì cả hai đứa đều là người ngoan đạo mà.”
“Tốt cho họ thôi.”
Bà vừa gật đầu vừa nhét vòi tẩu lại vào giữa răng. “Mừng cậu về nhà, cậu Baker. Giữ con vật bẩn thỉu kia cách xa sân nhà tôi ra. Lũ sóc đã có một tháng đầy bình yên. Tôi muốn duy trì như vậy.”
Anh không thèm chào tạm biệt. Như vậy là thô lỗ, nhưng anh mệt rồi. Anh vào nhà và thêm vào đó còn đóng sập cửa lại sau lưng.
Trong nhà đầy mùi mốc meo, thứ mùi của một căn nhà hồi lâu không có người ở nồng đặc trong không trung. Anh đặt va li và lồng mèo xuống rồi bật đèn lên.
Nhà anh vẫn vậy. Có lẽ hơi bụi bặm một chút.
Kia là ghế của anh. Máy Victrola của anh. Sách của anh.
Mọi thứ đều y như cũ.
Anh cúi xuống, mở cửa lồng cho Calliope.
Con mèo phóng vọt ra, đuôi dựng đứng sau lưng. Cô ả ướt mưa và trông có vẻ không thích thú gì lắm. Ả chạy xuống hành lang và vào phòng giặt nơi để chậu cát của mình.
“Thật tuyệt khi được trở về nhà,” anh thì thầm.
Anh tự hỏi mình sẽ phải nói câu này bao nhiêu lần nữa thì mới tin là như vậy.
Anh xếp va li xuống chân giường.
Anh thay quần áo ướt ra.
Anh mặc đồ ngủ dự phòng vào.
Anh cho Calliope ăn.
Bản thân anh cũng cố ăn, nhưng anh không đói lắm.
Anh ngồi vào ghế.
Anh đứng dậy khỏi ghế.
“Nhạc,” anh quyết định. “Có lẽ mình nên nghe ít nhạc.”
Anh chọn bài Ol’ Blue Eyes. Frank đã luôn khiến anh hạnh phúc.
Anh trượt cái đĩa ra khỏi vỏ và nhấc nắp chiếc Victrola lên. Anh đặt đĩa lên mâm xoay. Anh bật công tắc máy hát và loa kêu lách tách. Anh hạ kim xuống và nhắm mắt lại.
Nhưng nhạc phát ra từ chiếc Victrola không phải là của Frank Sinatra.
Anh hẳn đã cất nhầm vỏ đĩa trước khi đi.
Tiếng kèn trumpet rộn rã bùng lên.
Một giọng nam ngọt ngào bắt đầu cất tiếng.
Bobby Darin trầm bổng hát về đâu đó ngoài khơi xa.
Anh nhớ lại cách Lucy đã nhảy nhót trong bếp, rống lên lời ca.
Anh vùi mặt vào hai bàn tay.
Khi Bobby ngân nga, vai Linus run rẩy.
Anh lên giường.
Chăn gối hơi có mùi mốc, nhưng giờ anh đã quá mệt để quan tâm đến chuyện ấy.
Anh nhìn trần nhà một lúc rất lâu.
Cuối cùng, anh thiếp đi.
Anh mơ về một hòn đảo giữa biển khơi.
Vào chủ nhật, anh dọn dẹp. Anh mở cửa sổ cho thông thoáng nhà cửa dù trời đang mưa. Anh cọ sàn nhà. Anh lau tường. Anh lau quầy bếp. Anh thay chăn trên giường. Anh lấy bàn chải cọ chỉ gạch trong nhà tắm. Anh quét. Anh lau.
Đến khi xong việc lưng anh đã nhức nhối. Khi ấy mới chớm chiều, và anh nghĩ tới bữa trưa, nhưng dạ dày anh nặng như chì.
Giặt đồ. Anh cần phải giặt đồ.
Và anh vẫn cần phải hoàn thành báo cáo cuối cùng.
Anh đi tới va li ở chân giường. Anh đặt nó nằm xuống và mở lẫy. Anh lật nắp ra và sững người.
Ở đó. Trên quần áo đã gập, trên hồ sơ, trên cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH, là một chiếc phong bì màu nâu.
Anh đã không để thứ ấy vào đây.
Ít ra anh nghĩ là không.
Anh cầm phong bì lên. Thứ ấy cứng đờ trong tay anh.
Trên mặt phong bì là ba chữ, viết bằng những chữ cái dày dặn màu đen: ĐỪNG QUÊN NHÉ.
Anh mở phong bì ra.
Trong đó là một bức ảnh.
Mắt anh cay cay khi nhìn vào đó.
Zoe hẳn đã chụp bức ảnh này. Anh còn không nhớ mình có từng thấy bà cầm máy ảnh không. Đó là chuyến phiêu lưu đầu tiên của họ xuyên qua khu rừng tới nhà bà. Trong ảnh, Lucy và Talia đang bật cười. Sal ngồi với Theodore đậu trên đùi. Chauncey và Phee đang tranh giành miếng bánh mì cuối cùng. Arthur và Linus ngồi bên nhau. Linus đang vui thích nhìn lũ trẻ.
Và Arthur đang nhìn Linus, với nụ cười lặng lẽ trên mặt.
Khi ấy, chính nỗi buồn là thứ Linus cảm nhận được, trong căn nhà nhỏ trên đường Hermes Way. Nỗi buồn dữ dội và nguy hiểm như thủy tinh, không giống bất kỳ cảm xúc nào anh từng có trước đây. Anh chỉ là giấy, vụn vỡ và mong manh, và anh áp tấm ảnh lên ngực, ôm nó thật chặt.
Sau đó, rất lâu sau đó, anh ngồi trên ghế, bản báo cáo cuối cùng đặt trên đùi. Nó vẫn chỉ có một câu viết dưới phần mở đầu.
Anh nghĩ như vậy là đủ.
Anh đặt nó qua một bên.
Anh nghe The Big Bopper cứ thế đánh nhịp. Cuối cùng, anh thiếp đi, biến mất vào đại dương, sóng vỗ về dưới chân, và anh có cảm giác như đã về nhà.
Ngoài trời, mưa vẫn đều đặn rơi.
Chuông báo thức của anh vang lên vào sáng sớm thứ hai.
Anh thức dậy.
Anh cho mèo ăn.
Anh đi tắm.
Anh đóng bộ âu phục và cà vạt.
Anh nhấc cặp hồ sơ lên.
Anh nhớ mang theo ô.
Xe buýt đầy ắp người, gần như không còn chỗ để đứng, và chỗ để ngồi thì càng ít hơn.
Người ta không ngẩng lên nhìn anh ngoại trừ để cau mày khi anh vô tình va phải họ. Họ quay lại với tờ báo của mình khi anh xin lỗi.
Không ai chào anh khi anh bước vào DICOMY.
Anh đi qua những dãy bàn và không ai nói, “Mừng anh trở lại, Linus. Chúng tôi đã nhớ anh đấy.”
Không có dải ruy băng nào ở Hàng L, Bàn Bảy. Không có bóng bay. Không có đèn lồng giấy.
Anh ngồi xuống, đặt cặp xuống cạnh mình.
Cậu Tremblay ngoái lại nhìn anh từ Hàng L, Bàn Sáu. “Tôi tưởng anh bị đuổi việc rồi.”
“Không,” Linus nói một cách điềm tĩnh hết mức có thể. “Tôi đi làm nhiệm vụ.”
Cậu Tremblay cau mày. “Anh chắc chứ? Tôi thề là anh bị đuổi mà.”
“Tôi chắc đấy.”
“Ồ!” Trông cậu ta thật nhẹ nhõm, và Linus bắt đầu cảm thấy khá hơn đôi chút. Có lẽ sau cùng đã có người nhớ anh. “Vậy có nghĩa là anh có thể nhận lại hết hồ sơ của anh rồi. Ơn trời! Tôi hoàn toàn không có thời gian xử lý chúng, nên anh sẽ phải làm bù khá nhiều đấy. Đầu tiên là để tôi lục chúng lên cho anh đã.”
“Cậu tốt bụng thật đấy,” Linus sẵng giọng.
“Tôi biết mà, anh Barkly.”
Anh nói, “Là anh Baker, thằng khốn này. Đừng để tôi phải sửa lời cậu lần nữa.”
Cậu Tremblay há hốc mồm nhìn anh.
Anh mở cặp hồ sơ. Anh lấy ra những hồ sơ người ta giao cho anh và bản báo cáo cuối cùng. Anh lưỡng lự trước khi lấy ra thứ cuối cùng trong cặp.
Anh đặt bức ảnh lồng khung lên bàn, gần máy tính.
“Cái gì đấy?” Cậu Tremblay hỏi, rướn cổ lên. “Có phải là đồ vật cá nhân không? Anh biết là anh không được bày nó ra mà.”
“Có khi lần này cậu nên cân nhắc việc ngưng chõ mũi vào chuyện của người khác đi,” Linus gắt lên mà không nhìn cậu ta.
“Thế thì mặc kệ anh,” cậu Tremblay làu bàu. “Để xem tôi có bao giờ đối tốt với anh nữa không.”
Linus lờ cậu ta đi. Anh chỉnh lại khung ảnh tới khi nó đặt đúng vị trí.
Anh bật máy lên và bắt tay vào việc.
“Cậu Baker!”
Anh thầm rên rỉ. Ngày hôm nay vốn đang… Chà, nó vốn đang trôi qua. Anh không ngẩng lên khi nghe thấy tiếng gót giày lách cách trên sàn, mỗi lúc một gần hơn.
Một cái bóng phủ lên bàn anh.
Tiếng gõ bàn phím quanh anh dừng lại khi đồng nghiệp anh dỏng tai lên. Đây có lẽ là việc thú vị nhất xảy ra trong tháng này.
Bà Jenkins đứng trước anh, trên mặt vẫn là vẻ cay nghiệt. Gunther, dĩ nhiên, đứng sau bà ta một chút, bảng kẹp luôn cầm trong tay. Hắn cúi xuống cười ngọt lịm với Linus.
“Chào bà, bà Jenkins,” Linus nói cho đúng thủ tục. “Thật vui khi được gặp mà.”
“Phải, tôi mong là vậy,” bà ta vừa nói vừa khịt mũi. “Cậu đã trở lại.”
“Khả năng quan sát của bà vẫn không ai bì kịp như vậy nhỉ?”
Mắt bà ta nheo lại. “Cậu nói gì cơ?”
Anh ho và hắng giọng. “Tôi nói, phải, tôi đã trở lại.”
“Sau nhiệm vụ của cậu.”
“Phải.”
“Nhiệm vụ bí mật của cậu.”
“Tôi nghĩ là vậy.”
Vùng da dưới mắt trái của bà ta giật giật. “Chỉ vì Ban Quản Lý Thượng Tầng tống cổ cậu đi một tháng giùm chúng tôi không có nghĩa là mọi việc ở đây đã thay đổi đâu nhé.”
“Tôi có thể thấy được.”
“Tôi mong là tới cuối tuần thì cậu sẽ xử lý xong mọi công việc của mình.”
Bất khả thi, dĩ nhiên, nhưng bà ta vẫn biết là vậy. “Vâng, bà Jenkins.”
“Khối lượng công việc sẽ được trao trả cho cậu trước bữa trưa.”
“Vâng, bà Jenkins.”
Bà ta nghiêng người tới, chống hai tay lên bàn anh. Móng tay bà ta đều sơn đen. “Đang chạy đua để thăng chức, phải không? Cậu tưởng cậu có khả năng làm Quản lý được à?”
Anh bật cười. Anh không định cười, nhưng anh đã lỡ rồi.
Bà Jenkins trông như bị xúc phạm.
Nụ cười của Gunther trôi tuột khỏi mặt hắn. Trông hắn sững sờ.
“Không,” Linus chật vật nói. “Tôi không cố gắng được thăng chức. Tôi nghĩ mình hoàn toàn không hợp với vị trí Quản lý đâu.”
“Lần này thì chúng ta đồng quan điểm,” bà Jenkins xấu xa nói. “Tôi không nghĩ ra được ai thiếu phù hợp hơn anh. May cho cậu là cậu vẫn còn bàn để ngồi lại đấy. Nếu tôi được như ý, cậu hẳn… sẽ… Cậu Baker! Cái gì kia?”
Bà ta chĩa một ngón tay sơn đen vào tấm ảnh.
“Đó là của tôi,” anh nói. “Đó là ảnh của tôi, và tôi thích thứ đó.”
“Thứ đồ đó bị nghiêm cấm,” bà ta rít lên the thé. “Theo LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH, nhân viên công tác xã hội không được phép có đồ đạc cá nhân trừ khi được Quản lý phê duyệt!”
Linus ngẩng lên nhìn bà ta. “Vậy thì duyệt đi.”
Bà ta lùi lại một bước, tay bấu lấy cổ. Gunther điên cuồng ghi chép lên bảng kẹp của hắn.
“Cậu nói gì cơ?” bà ta hỏi đầy đe dọa.
“Phê duyệt thứ này đi,” Linus lặp lại.
“Tôi sẽ không duyệt. Việc này sẽ bị ghi vào hồ sơ vĩnh viễn của cậu. Sao cậu dám ăn nói với tôi kiểu… Gunther! Trừ điểm! Trừ điểm cậu Baker đi!”
Nụ cười của Gunther quay lại. “Dĩ nhiên rồi. Bao nhiêu điểm ạ?”
“Năm. Không, mười. Trừ mười điểm.”
Những nhân viên xung quanh họ bắt đầu hào hứng thì thầm.
“Trừ mười điểm,” Gunther nói, giọng nghe khá hoan hỉ. “Vâng. Thật sáng suốt, bà Jenkins ạ. Thật thông tuệ làm sao.”
“Vào cuối ngày hôm nay, thứ… thứ kia phải biến đi,” bà Jenkins nói. “Hãy nhớ lời tôi, cậu Baker ạ. Nếu không, tôi sẽ đảm bảo là cậu không có việc để quay lại làm đâu.”
Linus không nói gì.
Như vậy không vừa ý bà ta. “Cậu hiểu chưa?”
“Rồi,” anh nói qua kẽ răng nghiến chặt.
“Rồi cái gì?”
“Rồi, bà Jenkins ạ.”
Bà ta lại khịt mũi. “Tốt hơn rồi đấy. Tôi sẽ không bỏ qua cho lời xấc xược nào đâu. Tôi biết cậu đã ở… đâu đấy một tháng vừa qua, nhưng luật lệ không đổi. Nhớ lấy điều ấy thì tốt hơn cho cậu đấy.”
“Dĩ nhiên rồi, bà Jenkins. Tôi còn giúp bà được việc gì khác không?”
Giọng bà ta như thấm đẫm nọc độc khi bà ta nói, “Có. Có đấy. Cậu được triệu tập. Bởi Ban Quản Lý Thượng Tầng. Một lần nữa. Ngày mai. Đúng tám giờ. Đừng đến muộn. Hoặc đến muộn đi, để tôi bớt việc.”
Bà ta quay ngoắt đi. “Các người nhìn cái gì? Quay lại làm việc đi.”
Các nhân viên lập tức bắt đầu gõ phím.
Bà Jenkins lườm Linus qua vai một lần nữa rồi sải bước bỏ đi, Gunther lẽo đẽo theo đuôi.
“Tôi tự hỏi hàng xóm mới sẽ là ai đây?” Cậu Tremblay hỏi.
Linus lờ cậu ta đi.
Anh nhìn xuống khung ảnh.
Ngay dưới khung ảnh là tấm lót chuột in hình ảnh bạc phếch của một bãi biển cát trắng và đại dương xanh nhất trần đời.
Dĩ nhiên trên đó ghi: BẠN KHÔNG ƯỚC MÌNH ĐƯỢC ĐẾN ĐÂY Ư?
Tới giờ ăn trưa, hồ sơ đã chất chồng trên bàn anh. Hàng tá tập hồ sơ. Anh mở tập trên cùng ra. Những ghi chép cuối cùng là của anh. Một tháng vừa qua không có ai động vào chúng. Anh thở dài và đóng hồ sơ lại.
Văn phòng trống trơn khi anh ra về trước chín giờ một chút vào tối hôm đó.
Anh nhét khung ảnh vào cặp hồ sơ và trở về nhà.
Trời đang mưa.
Buýt lại đến muộn.
Trên hiên nhà anh là một túi ni lông đầy ắp thư từ. Đều là hóa đơn cả. Có một tờ giấy đính trên cùng. Đó là hóa đơn của bà Klappers đòi hoàn tiền cho việc đào lên khóm hoa của anh.
Anh lấy khung ảnh ra khỏi cặp và đặt lên tủ thấp cạnh đầu giường.
Anh ngắm nhìn nó tới lúc thiếp đi.
Vào lúc tám giờ kém mười lăm sáng hôm sau, Linus ấn nút số năm mạ vàng trong thang máy.
Mọi người trong thang đều nhìn anh.
Anh nhìn lại họ.
Họ quay đi trước.
Thang máy dần dà vắng người tới khi anh là người duy nhất còn lại.
BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG
CHỈ VÀO KHI CÓ HẸN
Anh nhất nút cạnh tấm chắn kim loại.
Nó mở ra, lạch xạch trên ray.
Cô Kẹo Cao Su thổi ra một bong bóng màu hồng. Nó vỡ tan một cách xinh đẹp rồi cô ta lại hút nó vào giữa kẽ răng. “Giúp gì cho anh đây?”
“Tôi có hẹn.”
“Với ai?”
Cô ta phải biết chứ. “Ban Quản Lý Thượng Tầng. Tôi là Linus Baker.”
Cô ta nheo mắt nhìn anh. “Tôi nhớ ra anh rồi.”
“Th… thế à?”
“Tôi tưởng anh ăn kiêng hay gì đấy.”
“Không. Chưa đâu.”
Cô ta gõ vài phím trên máy tính rồi quay lại nhìn anh. “Anh có mang bản báo cáo cuối cùng không?”
Anh mở cặp ra. Ngón tay anh cọ qua khung ảnh trước khi tìm thấy thứ mình đang tìm trong cặp. Anh lôi tập hồ sơ ra và trượt nó qua dưới lớp kính.
Cô ta cau mày khi cầm nó lên. “Nó đây hả?”
“Nó đó.”
“Đợi chút nhé.”
Tấm chắn kim loại lại sập xuống.
“Mày làm được mà, anh bạn già,” anh thì thầm.
Lần này mất một lúc lâu hơn cô Kẹo Cao Su mới quay lại. Thật ra, lâu đến nỗi Linus tin là người ta đã quên anh rồi. Anh tự hỏi mình có nên đi không, nhưng không tìm nổi cách khiến cho chân mình động đậy. Chúng như đã mọc rễ tại chỗ vậy.
Nhiều phút trôi qua. Ít nhất là hai mươi.
Anh chuẩn bị đầu hàng trước cám dỗ và ngó vào tấm ảnh trong cặp thì tấm chắn kim loại lạch xạch kéo lên.
Cô Kẹo Cao Su đang cau mày. “Giờ thì họ sẵn sàng gặp anh rồi.”
Linus gật đầu.
“Họ… không vui vẻ đâu nhé.”
“Phải, tôi cũng nghĩ vậy.”
Cô ta thổi một bong bóng. Nó ồn ào vỡ ra. “Anh là một người vô cùng, vô cùng kỳ quái đấy.”
Tiếng rè rè vang lên, và cửa gỗ mở ra.
Cô Kẹo Cao Su không nói gì khi dẫn anh qua đài phun về phía cánh cửa đen trên có bảng vàng. Cô ta mở cửa và bước qua một bên.
Anh không nhìn cô ta khi bước qua cửa. Cửa đóng lại sau lưng anh. Ánh sáng bật lên trên sàn, chỉ đường cho anh. Anh đi theo chúng tới khi chúng tản ra thành một vòng tròn. Có một cái bục ở giữa vòng. Trên đó là bản báo cáo của anh. Anh nặng nề nuốt khan.
Ánh sáng bùng lên trên đầu anh.
Và đằng kia, nhìn xuống từ trên bức tường đá, là Ban Quản Lý Thượng Tầng.
Người phụ nữ. Má Xệ. Người đàn ông đeo kính.
Và Charles Werner.
“Anh Baker,” anh ta nói, giọng mượt như nhung. “Chào mừng anh trở lại.”
“Cảm ơn anh,” Linus nói, lo lắng ngọ nguậy.
“Những bản báo cáo của anh đã… Chà! Chúng đã là tâm điểm của nhiều cuộc thảo luận.”
“Thật ư?”
Má Xệ ho sùng sục. “Đó là một cách nói thôi.”
“Anh biết tôi thấy thế nào về nói giảm nói tránh mà,” người đàn ông đeo kính cau mày nói.
“Anh Baker,” người phụ nữ nói. “Thứ anh đang thấy trước mặt là bản báo cáo cuối cùng của anh ư?”
“Phải.”
“Thật ư?”
“Phải.”
Bà ta ngả người ra sau. “Thật hoang mang. Tôi thấy nó thiếu sót so với những báo cáo khác của anh. Thiếu sót vô cùng, quả thật là vậy.”
“Tôi tin là tôi đã đi thẳng vào vấn đề,” Linus phản bác. “Sau cùng, đó là điều các người yêu cầu ở tôi. Tôi đã đưa ra đề xuất sau một tháng quan sát. Không phải đó là lý do tại sao tôi đứng ở đây à?”
“Coi chừng đấy, anh Baker,” Má Xệ nói, nheo mắt nhìn xuống anh. “Tôi không thích giọng điệu của anh đâu.”
Linus cắn răng nhịn không vặn lại ông ta, một điều mà ngay cả vài tuần trước anh cũng không bao giờ phải làm. “Xin lỗi. Tôi chỉ là… Tôi tin là tôi đã làm việc mình được yêu cầu.”
Charles nghiêng người tới trước. “Sao anh không đọc cho chúng tôi nghe nhỉ? Có lẽ nghe người khác đọc lên sẽ khiến chúng tôi hiểu ra những ý nghĩa bị thất lạc trong quá trình diễn đạt.”
Được thôi. Anh sẽ chơi trò này với họ. Anh đã chơi nhiều năm rồi, đã luôn là nhân viên tuân lệnh nhất. Anh mở tập hồ sơ ra và nhìn xuống. “Tôi xin trang trọng thề rằng nội dung của bản báo cáo này là chính xác và…”
“Chúng tôi biết phần đó rồi, anh Baker,” người đàn ông đeo kính nói vẻ sốt ruột. “Mọi báo cáo đều có mở đầu như nhau. Chẳng có gì thay đổi với bất kỳ ai. Phần tiếp theo mới là phần chúng tôi quan tâm hơn cả.”
Anh ngẩng lên nhìn họ. “Các người biết phần đó viết gì rồi mà.”
Charles cười toe toét với anh. “Cứ đọc đi, anh Baker.”
Linus đọc. “Đề xuất của tôi là Trại trẻ Mồ côi Marsyas vẫn được hoạt động, và rằng lũ trẻ ở đó tiếp tục thuộc sự giám hộ của Arthur Parnassus.”
Có vậy thôi. Tất cả những gì anh viết chỉ có vậy.
Anh đóng hồ sơ lại.
“Hừmm,” Charles nói. “Tôi không nghiệm ra được điều gì mới mẻ từ câu ấy. Có ai khác thông suốt hơn không?”
Má Xệ lắc đầu.
Người đàn ông đeo kính ngả lên lưng ghế.
Người phụ nữ khép hai tay lại trước mặt.
“Tôi nghĩ là không rồi,” Charles nói. “Anh Baker, có lẽ anh có thể trình bày chi tiết hơn. Điều gì đã khiến anh đi đến kết luận này?”
“Những quan sát của tôi về lũ trẻ và cách chúng tương tác với nhau và với Arthur Parnassus.”
“Quá mơ hồ,” Má Xệ nói. “Tôi yêu cầu được biết nhiều hơn.”
“Tại sao?” Linus hỏi. “Thứ các người đang tìm kiếm là gì vậy?”
“Chúng tôi không ở đây để trả lời câu hỏi của anh, anh Baker ạ,” người phụ nữ gắt giọng. “Anh ở đây để trả lời cho những câu hỏi của chúng tôi. Chớ có quên…”
“Vị trí của tôi ư?” Linus lắc đầu. “Làm sao tôi quên được, khi các người liên tục nhắc nhở tôi về điều ấy? Tôi đã làm công việc này mười bảy năm rồi. Tôi chưa từng đòi hỏi gì thêm. Tôi chưa từng mong muốn gì hơn. Tôi đã làm mọi thứ các người yêu cầu ở tôi mà không phàn nàn gì. Và tôi đang đứng trước mặt các người đây, và các người đang yêu cầu nhiều hơn ở tôi. Tôi còn có thể có gì khác để cho đi đây?”
“Sự thật,” người đàn ông đeo kính nói. “Sự thật về nơi anh…”
Anh đập tay lên bục. Âm thanh lanh lảnh và bằng bằng vang vọng khắp căn phòng. “Tôi đã cho các người biết sự thật. Trong mỗi báo cáo hàng tuần của tôi, các người chẳng được đọc gì ngoài sự thật ra. Trong mọi nhiệm vụ tôi được cử đi làm, tôi luôn chỉ có trung thực, ngay cả khi làm vậy khiến tôi đau đớn cõi lòng.”
“Và sự khách quan,” Má Xệ nói. “Như cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH viết, một nhân viên công tác xã hội phải khách…”
“Tôi biết điều ấy. Và tôi luôn khách quan. Tôi còn nhớ lũ trẻ. Tất cả bọn chúng. Tất cả tên tuổi của chúng. Hàng trăm đứa tôi đã quan sát. Và tôi đã duy trì khoảng cách của mình. Tôi đã dựng lên bức tường ấy. Các người có vỗ ngực tự xưng được như vậy không? Tên của lũ trẻ trên đảo là gì? Không cần nhìn xuống bất cứ ghi chép nào của các người, tên chúng là gì?”
Má Xệ ho lên. “Hỏi vậy thật ngớ ngẩn. Dĩ nhiên chúng tôi biết tên lũ trẻ. Có đứa trẻ Phản Chúa…”
“Đừng gọi thằng bé như vậy,” Linus gầm lên. “Thằng bé không phải thứ ấy.”
Trên mặt Charles là nụ cười tự mãn. “Là Lucy. Một biệt danh khá lố bịch so với bản chất của nó.”
“Và?” Linus hỏi. “Còn năm đứa kia?”
Im lặng như tờ.
“Talia,” Linus thốt lên. “Một Thần vườn thích làm vườn. Con bé mạnh mẽ, vui tính và dũng cảm. Nó khá gai góc, nhưng khi chúng ta nhìn qua vỏ bọc ấy, dưới đó là lòng trung thành sẽ khiến mọi người phải nghẹn ngào. Và sau tất cả những gì con bé đã trải qua, sau tất cả những điều người ta cướp đi khỏi nó, nó vẫn tìm được niềm vui trong những điều nhỏ nhặt nhất.”
Người phụ nữ nói, “Anh Baker, anh nên…”
“Phee! Một Tinh linh rừng già. Con bé tỏ vẻ cứng rắn và xa cách, nhưng tất cả những gì nó muốn là một mái ấm. Người ta tìm ra nó trong cảnh khố rách áo ôm vì giống loài của con bé đã bị liệt vào loại không được trợ cấp. Các người có biết điều ấy không? Các người thậm chí có đọc báo cáo về nó chưa? Vì tôi đã đọc rồi đấy. Mẹ con bé chết đói trước mặt nó. Và bản thân Phee cũng suýt chết, vậy nhưng khi người ta tới khu trại và cố gắng tách nó ra khỏi xác mẹ nó, nó xoay sở biến được họ thành cây bằng chút sức lực còn lại của mình. Khu rừng trên đảo rậm rạp nhờ có nó, và nó sẽ làm bất kỳ điều gì để bảo vệ những người nó yêu quý. Con bé đã dạy tôi về rễ cây, rằng chúng có thể giấu mình ra sao, đợi đúng thời điểm để đâm lên mặt đất và thay đổi cảnh vật.”
Ban Quản Lý Thượng Tầng vẫn im thin thít khi Linus bắt đầu rảo bước qua lại.
“Theodore! Một Wyvern, một trong những cá thể hiếm hoi còn lại. Các người có biết là thằng bé biết nói không? Có ai trong các người biết không? Vì tôi từng không biết đấy. Chẳng ai từng kể với tôi hết. Chẳng ai nghe nói tới điều ấy cả. Nhưng thằng bé biết nói. Ồ! Nó không biết tiếng Anh, vậy nhưng nó vẫn nói. Và nếu nghe thằng bé nói đủ lâu, nếu cho nó đủ thời gian, chúng ta sẽ bắt đầu hiểu được nó. Nó không phải thú vật. Nó không phải là kẻ săn mồi. Nó có suy nghĩ và cảm xúc phức tạp và một đống cúc áo. Rất nhiều cúc áo.” Linus đưa tay xuống túi áo và vân vê chiếc cúc đồng trong túi, mặt cúc bị những chiếc nanh sắc nhọn cắn móp xuống.
“Chauncey! Một… Chà, không ai biết cháu nó là gì, nhưng chẳng sao cả. Chẳng sao cả vì có khi thằng bé còn con người hơn bất kỳ ai trong chúng ta. Cả đời thằng bé đã bị bảo rằng nó là quái vật. Rằng nó là thứ trốn dưới gầm giường. Rằng nó là một cơn ác mộng. Những điều ấy không thể sai lầm hơn. Thằng bé là một đứa trẻ tò mò với một ước mơ. Và trời ơi! Ước mơ ấy mới giản đơn làm sao. Mới dễ thương đến nghẹn ngào làm sao. Thằng bé muốn làm nhân viên hành lý. Nó muốn làm việc ở khách sạn và chào hỏi mọi người và xách hành lý cho họ. Chỉ có vậy thôi. Nhưng có ai trong các người cho nó làm vậy không? Có ai trong các người cho nó cơ hội không?”
Họ không trả lời.
“Sal,” Linus gằn giọng. “Bị đánh đập và bỏ rơi. Bị thuyên chuyển đi khắp nơi mà chẳng ai quan tâm tới sức khỏe của thằng bé vì khả năng của nó. Nó đã cắn một người phụ nữ, phải, và biến bà ta thành chó, nhưng bà ta đã đánh nó. Bà ta đã đánh trẻ con. Nếu chúng ta liên tục vung tay lên, chúng sẽ co rúm lại. Nhưng thi thoảng, chúng sẽ tấn công lại vì đó là tất cả những gì chúng còn làm được. Thằng bé nhút nhát. Và ít nói. Và lo lắng cho mọi người nhiều hơn là cho bản thân. Và nó viết văn. Ôi trời ơi! Nó viết ra những câu chữ đẹp nhất trần đời. Đó là những vần thơ. Đó là những bản nhạc. Bài viết của nó khiến tôi cảm động hơn bất kỳ lời nào tôi từng nghe qua.”
“Và còn Kẻ Phản… Còn đứa trẻ cuối cùng thì sao?” người phụ nữ khẽ hỏi.
“Lucy,” Linus nói. “Tên cháu nó là Lucy. Và thằng bé có nhền nhện trong đầu. Nó nằm mơ về chết chóc, khói lửa và hủy diệt, và những giấc mơ ấy giằng xé nó. Nhưng các người biết tôi đã tìm thấy điều gì không? Tôi tìm ra một cậu bé, một cậu bé sáu tuổi thích đi phiêu lưu. Có trí tưởng tượng phong phú vô cùng. Thằng bé nhảy nhót. Nó hát hò. Nó sống vì âm nhạc, và âm nhạc tuôn chảy trong nó như máu trong huyết quản vậy.”
“Dù anh có muốn nghe lời tôi nói hay không,” Má Xệ nói, “thì đứa trẻ đó vẫn là thứ kia. Anh sẽ không bao giờ thay đổi được điều ấy đâu.”
“Không thể ư?” Linus cãi lại. “Tôi từ chối tin là như vậy. Chúng ta là chúng ta không chỉ vì gốc gác, mà còn vì những việc chúng ta chọn thực hiện trong đời. Những việc ấy không thể bị quy về chính hay tà được. Không thể làm vậy khi có quá nhiều vấn đề ở giữa hai thái cực. Chúng ta không thể phán rằng việc nào đó là tốt đẹp hay xấu xa khi không hiểu được sự tình đằng sau.”
“Đứa trẻ đó xấu xa,” người đàn ông đeo kính nói. “Có thể đó chưa bao giờ là lỗi của nó, nhưng đó là bản chất của nó. Dòng dõi của nó gọi ra sự tà ác ấy. Trong nó có ác tâm. Đó chính là định nghĩa của cái xấu.”
“Và ông là ai mà quyết định điều ấy?” Linus hỏi qua kẽ răng. “Ông là ai? Ông chưa bao giờ gặp thằng bé. Cái tốt chỉ là tương đối thôi. Chỉ vì ông thấy thứ gì đó đáng ghét, không có nghĩa là thứ ấy thực sự ghê tởm.”
Người phụ nữ cau mày. “Có những thứ được rất nhiều người coi là ghê tởm. Anh vừa nói cháu bé mơ về cái gì ấy nhỉ? Chết chóc, khói lửa và hủy diệt ư? Nếu tôi nhớ không nhầm, trong bản báo cáo cuối cùng của anh, những cơn ác mộng của đứa trẻ có khả năng tự hiện hình. Ai đó có thể đã bị thương.”
“Họ có thể đã bị thương,” Linus đồng ý, “Nhưng họ đã không hề hấn gì. Và ác mộng hiện hình không phải vì thằng bé muốn làm hại ai cả. Nó là đứa trẻ sinh ra từ bóng tối. Nó không nhất thiết phải trở thành bóng tối. Và nó sẽ không như vậy. Khi đã có những người xung quanh.”
“Anh sẽ để những đứa khác ở lại với nó ư?” Má Xệ hỏi. “Trong một căn phòng khóa cửa không ai trông coi.”
“Tôi sẽ để chúng lại,” Linus lập tức trả lời. “Mà không hề do dự. Tôi cũng sẽ ở trong căn phòng khóa kín với thằng bé. Vì tôi tin tưởng nó. Vì tôi biết dù thằng bé đến từ đâu, nó không chỉ là cái danh mà các người đặt cho nó.”
“Và chuyện gì sẽ xảy ra khi cậu bé này lớn lên?” Charles hỏi. “Chuyện gì sẽ xảy ra khi nó trưởng thành? Nhỡ nó quyết định thế giới này không như ý nó thì sao? Anh biết cha nó là ai mà.”
“Tôi biết,” Linus nói. “Cha nó là Arthur Parnassus. Và anh ấy là người cha tuyệt con mẹ nó vời nhất mà Lucy có được, và theo như tôi được biết, là người cha duy nhất.”
Ban Quản Lý Thượng Tầng đồng loạt há hốc miệng.
Linus lờ họ đi. Anh mới chỉ khởi động mà thôi. “Và còn Arthur thì sao? Vì tôi nghĩ đó mới là lý do tại sao tôi ở đây, phải không? Vì giống loài của anh ấy. Các người đã liệt lũ trẻ vào hạng nguy hiểm cấp độ bốn trong khi công bằng mà nói, chúng cũng như mọi đứa trẻ khác trên thế gian thôi, dù nhiệm màu hay không. Nhưng chuyện này chưa bao giờ là về bọn chúng, phải không? Các người đã luôn nhắm vào Arthur.”
“Cẩn thận đấy, anh Baker,” Charles cảnh cáo. “Tôi từng nói với anh rằng tôi không muốn phải thất vọng, và anh đang gần đến mức khiến tôi phải thất vọng đấy.”
“Không,” Linus nói. “Tôi sẽ không cẩn thận. Có thể anh ấy không chịu khổ dưới tay các người, nhưng đó là do tư tưởng của các người. Tư tưởng của DICOMY. Về việc ghi danh, về những định kiến chống lại họ. Các người để cho những suy nghĩ ấy ngày một sinh sôi, các người và tất cả những người khi trước từng ngồi ở chỗ giờ các người đang ngồi. Các người cô lập sinh vật nhiệm màu khỏi tất cả những người khác vì họ khác tất cả chúng ta. Thiên hạ sợ họ vì DICOMY dạy người ta như vậy. Thấy gì ư? Nói gì đi. Câu khẩu hiệu ấy chỉ gieo mầm ghét bỏ.” Anh nheo mắt khi ngẩng lên nhìn Charles Werner. “Các người nghĩ mình có thể kiểm soát họ. Các người nghĩ mình có thể kiểm soát anh ấy. Lợi dụng anh ấy để đạt được điều mình muốn. Giấu anh ấy đi cùng những bí mật bẩn thỉu của mình. Nhưng các người lầm rồi. Cả đám các người đều lầm rồi.”
“Như thế là đủ lắm rồi,” người đàn ông đeo kính gắt lên. “Anh đang đùa với lửa đấy, anh Baker ạ, và có vẻ như anh không nghe thấy tiếng lửa cháy xèo xèo bên tai nhỉ.”
“Thật vậy,” người phụ nữ nói. “Và chuyện rõ ràng càng tệ hơn khi chúng tôi nhận được khiếu nại từ một công dân quan ngại về một cuộc đụng độ giữa Arthur Parnassus và…”
Linus nghiến răng ken két. “Ồ! Họ quan ngại, phải không? Vậy hãy nói xem. Trong khi bày tỏ mối lo ngại của mình, họ có giải thích chính xác là từ đầu họ đang làm gì ở bến cảng không? Giải thích kế hoạch của họ là gì không? Vì theo những gì tôi thấy được, họ mới là bên gây hấn. Nếu Arthur Parnassus không can thiệp, tôi còn không muốn tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra. Dù anh ấy và lũ trẻ là gì hoặc làm được những gì, không ai có quyền hãm hại họ. Hay là có ai ngồi ở đây nghĩ ngược lại?”
Đáp lại anh là lặng im.
“Đó là những suy nghĩ của tôi,” Linus nói, đặt tay lên bản báo cáo cuối cùng. “Đề xuất của tôi vẫn vậy. Trại trẻ mồ côi phải tiếp tục hoạt động. Vì lợi ích của họ. Và của các người. Tôi cam đoan với các người là tôi sẽ làm mọi thứ trong quyền hạn của mình để đảm bảo rằng chuyện diễn ra như vậy. Các người có thể sa thải tôi. Các người có thể thử công khai lên án tôi. Nhưng tôi sẽ không dừng lại đâu. Thay đổi bắt đầu từ tiếng nói của thiểu số. Tôi sẽ là một người trong thiểu số ấy vì họ đã dạy tôi lên tiếng như thế nào. Và tôi biết tôi không đơn độc.” Anh dừng lại, hít một hơi. Rồi, “Vả lại, nhắc đến nói giảm nói tránh, làm ơn làm phước, đừng gọi chúng là trẻ mồ côi nữa. Từ ấy ám chỉ một tình huống chưa bao giờ là sự thực. Những ngôi trường ấy là những mái ấm. Nơi ấy đã luôn là mái ấm. Và vài trường không được tốt, đó là lý do tại sao tôi đề xuất đóng cửa những chỗ ấy. Nhưng không phải ngôi trường này. Không bao giờ là nơi này. Những đứa trẻ này không cần tìm gia đình, vì chúng đã có một gia đình rồi, dù các người có thích hay không.”
“À,” Charles nói. “Đây rồi. Một nỗi thất vọng. Gay gắt làm sao. Sâu sắc làm sao.”
Linus lắc đầu. “Anh từng nói với tôi rằng anh có mối bận tâm riêng đối với những gì tôi sẽ tìm ra. Khi ấy tôi đã tin anh, dù tôi nghĩ là anh bận tâm vì e sợ hơn là vì bất kỳ lý do nào khác. Giờ tôi không tin anh nữa, vì anh chỉ muốn nghe điều anh nghĩ là mình muốn nghe. Bất kỳ điều gì khác đều không vừa mắt anh. Tôi không giải quyết được việc ấy đâu. Điều duy nhất tôi làm được là cho các người thấy rằng phương hướng mà mình đã chung tay thúc đẩy thế giới này đi theo đã lệch lạc rồi, và hy vọng rằng một ngày nào đó các người tỉnh ra mà nhìn nhận nó theo đúng sự thực.” Anh bướng bỉnh ngẩng lên nhìn Charles. “Chỉ vì những điều này không phải thứ anh mong đợi không có nghĩa là chúng sai trái. Tình hình đã thay đổi rồi, anh Werner ạ, và tôi biết là theo hướng tích cực. Tôi đã thay đổi rồi. Và thay đổi này chẳng liên quan gì đến anh cả. Điều anh hy vọng sẽ tìm thấy trong đống đổ nát mình bỏ lại sau lưng trên hòn đảo đó chẳng ảnh hưởng gì đến tôi cả. Tôi biết họ đã trở thành những con người như thế nào. Tôi đã nhìn thấu trái tim của tất cả bọn họ, và những trái tim ấy vẫn cuồng nhiệt đánh nhịp bất chấp những chuyện họ đã phải trải qua, dù là do anh, hay do kẻ khác.” Khi nói xong anh đã thở hồng hộc, nhưng đầu anh vô cùng tỉnh táo.
“Tôi nghĩ chúng ta đã xong việc ở đây rồi, anh Baker ạ,” Charles lãnh đạm nói. “Tôi tin chúng tôi đã hiểu rõ quan điểm của anh. Anh nói đúng, báo cáo của anh đã bày tỏ mọi điều rồi.”
Linus thấy lạnh toát, dù anh đang ào ào đổ mồ hôi. Tất cả tinh thần tranh đấu như đã rút cạn khỏi người anh, và những gì còn lại chỉ là kiệt quệ. “Tôi… Tôi chỉ là…”
“Thôi,” người phụ nữ nói. “Anh đã… Thôi, chúng tôi sẽ cân nhắc đề xuất của anh và đưa ra quyết định cuối cùng trong vài tuần tới. Đi đi, anh Baker. Đi ngay.”
Anh xách cặp lên. Anh nghe thấy tiếng khung ảnh lạch xạch trong cặp. Anh lại ngẩng lên nhìn Ban Quản Lý Thượng Tầng rồi quay lưng bỏ chạy.
Cô Kẹo Cao Su đang đợi anh ngoài cửa phòng. Mắt cô ta trợn tròn và miệng há hốc.
“Sao nào?” Linus cáu kỉnh hỏi.
“Không có gì,” cô ta xoay sở trả lời. “Hoàn toàn không có gì đâu. Anh đã… ừm. Rất to tiếng.”
“Phải, chà, đôi khi ta cần phải nói thật to để mấy đứa đầu đất thấm được.”
“Òa,” cô ta thì thầm. “Tôi phải đi gọi… Thôi đừng quan tâm tôi phải gọi ai. Anh tự tìm được đường ra, nhỉ?”
Cô ta vội vã bỏ đi và biến mất sau cánh cửa mở vào quầy lễ tân.
Anh chậm rãi ra về. Khi anh bước qua cửa văn phòng Ban Quản Lý Thượng Tầng, anh nghe tiếng cô ta phấn khích trò chuyện, nhưng không nghe ra được chữ nào.
Anh tính tới chuyện bỏ đi. Tính tới việc cứ… bỏ lại mọi thứ phía sau.
Anh không làm vậy.
Anh trở về bàn.
Những tiếng thì thào rần rần lắng xuống ngay khi anh bước vào phòng.
Ai cũng nhìn anh.
Anh lờ họ đi, tiếp tục đi tới Dãy L, Bàn Bảy. Anh còn không xin lỗi khi khúc hông to rộng của mình va vào đồ đạc của người khác.
Anh cảm thấy ánh mắt của hàng tá người dõi theo từng bước chân anh, nhưng anh vẫn ngẩng cao đầu. Sau tất cả những gì anh đã trải qua, tất cả những điều anh đã thấy và thực hiện, những gì đồng nghiệp nghĩ về anh chẳng còn quan trọng chút nào nữa.
Khi về đến bàn, anh ngồi xuống và mở cặp. Anh lấy khung ảnh ra và dựng nó lên bàn.
Không ai hé răng nửa lời.
Bà Jenkins đứng trước cửa văn phòng, cau có nhìn anh. Gunther điên cuồng ghi chép lên bảng kẹp. Linus thầm nghĩ hắn cứ việc tự sướng với đống điểm trừ của hắn đi.
Anh lấy một tập hồ sơ xuống từ trên chồng giấy tờ và lại vào việc.