Người Chạy Xuyên Không Gian - Chương 02
HAI
Tôi nhận thấy có ai đó đang giữ chặt lấy hai cổ chân tôi. Có đôi bàn tay luồn xuống dưới hai vai tôi, và một phụ nữ lên tiếng: “Sao anh ấy ra được khỏi hộp?”
Một người đàn ông trả lời: “Tôi không biết. Nhìn kìa, anh ấy đang tỉnh lại.”
Tôi mở mắt, nhưng chỉ nhìn thấy những chuyển động lờ mờ và ánh sáng nhạt nhòa.
Người đàn ông quát to: “Đưa anh ấy ra khỏi đây trước đã.”
Tôi gắng lên tiếng, nhưng từ ngữ cứ như trượt khỏi miệng tôi, lệch lạc và méo mó.
Giọng phụ nữ lại vang lên: “Tiến sĩ Dessen? Anh nghe tôi nói chứ? Bây giờ chúng tôi sẽ nhấc anh lên cáng.”
Tôi nhìn xuống chân mình, và khuôn mặt người đàn ông bỗng hiện ra rõ ràng. Anh ta đang quan sát tôi từ sau lớp mặt nạ của bộ đồ bảo hộ phòng độc được bọc nhôm có trang bị một máy thở tự lọc.
Anh ta liếc nhìn người phụ nữ đang đứng phía đầu của tôi và đếm: “Một, hai, ba.”
Họ nhấc tôi lên cáng, rồi thắt chặt đai cố định quanh cổ chân và cổ tay tôi.
“Việc này là để bảo vệ anh thôi, Tiến sĩ Dessen.”
Tôi thấy trần nhà vụt trôi qua phía trên, cách tôi chừng mười hai đến mười lăm mét.
Tôi đang ở nơi quái quỷ nào thế này? Một xưởng máy bay sao?
Tôi thoáng nhớ lại một việc - một kim tiêm chọc vào cổ tôi. Tôi đã bị tiêm thứ gì đó. Đây hẳn là một ảo giác điên rồ.
Giọng nói trong bộ đàm nheo nhéo vang lên: “Đội giải cứu, báo cáo. Hết.”
Người phụ nữ đáp bằng giọng phấn khích: “Chúng tôi đã tìm được Dessen. Đang trên đường về. Hết.”
Tôi nghe tiếng bánh xe kêu ken két trong khi di chuyển.
“Đã rõ. Các chỉ số đánh giá ban đầu? Hết.”
Bàn tay đeo găng của cô ta với xuống bật một loại thiết bị theo dõi gắn vào cánh tay trái của tôi.
“Nhịp tim: một trăm mười lăm. Huyết áp: một bốn mươi trên chín hai. Nhiệt độ: ba mươi bảy độ hai. Độ bão hòa oxy máu: chín mươi lăm phần trăm. Gamma: không phẩy tám bảy. Ước chừng thời gian đến nơi: ba mươi giây. Hết.”
Một tiếng ù ù lớn khiến tôi giật mình.
Chúng tôi di chuyển qua hai cánh cửa trông giống như cửa hầm an toàn đang mở ra từ từ.
Chúa ơi!
Bình tĩnh nào. Việc này không có thật.
Bánh xe càng quay gấp gáp và kêu to hơn.
Chúng tôi đang ở trong một hành lang tường ốp nhựa, mắt tôi phải nheo lại vì thứ ánh sáng chói lóa từ các bóng đèn huỳnh quang phía trên đầu.
Những cánh cửa phía sau chúng tôi đóng sầm lại, kèm theo đó là một tiếng động lớn như tiếng phát ra từ cánh cửa nhà tù.
Họ đẩy tôi vào một phòng mổ, về phía một bóng người cao to trong bộ đồ áp suất dương[9], đứng dưới một ray đèn phẫu thuật.
Anh ta nhìn tôi, mỉm cười qua lớp mặt nạ và nói như thể anh ta quen tôi: “Mừng anh trở lại, Jason. Xin chúc mừng! Anh đã thành công.”
Trở lại?
Tôi chỉ nhìn thấy mắt anh ta, nhưng chúng không gợi nhớ đến ai tôi từng gặp.
“Anh có thấy đau ở đâu không?” Anh ta hỏi.
Tôi lắc đầu.
“Anh có biết vì sao lại có những vết cắt và bầm dập trên mặt không?”
Lắc đầu.
“Anh có biết mình là ai không?”
Tôi gật đầu.
“Anh có biết anh đang ở đâu không?”
Lắc đầu.
“Anh có nhận ra tôi không?”
Lắc đầu.
“Tôi là Leighton Vance, giám đốc điều hành kiêm giám đốc y tế. Chúng ta là đồng nghiệp và là bạn của nhau.” Anh ta giơ lên một chiếc kéo phẫu thuật. “Tôi cần cởi quần áo của anh ra.”
Anh ta gỡ thiết bị theo dõi ra và bắt đầu rạch quần bò, quần đùi của tôi, đoạn vứt chúng sang một cái khay bằng kim loại. Khi anh ta cắt đến áo sơ mi, tôi ngước nhìn lên luồng sáng đang rọi thẳng xuống da thịt tôi, cố gắng để không hoảng loạn.
Nhưng tôi đang nằm trần truồng và bị trói chặt vào một chiếc cáng.
Không phải thật, tôi tự nhắc mình. Tôi chỉ đang có ảo giác rằng mình trần truồng và bị trói chặt vào một chiếc cáng. Bởi vì chẳng có điều gì ở đây là thật cả.
Leighton nâng cái khay đựng giày và quần áo của tôi lên, đưa nó cho ai đó đứng sau đầu tôi, ngoài tầm nhìn của tôi. “Hãy kiểm tra mọi thứ.”
Có tiếng bước chân vội vã ra khỏi phòng.
Tôi thoáng ngửi thấy mùi gắt của cồn IPA chỉ một giây trước khi Leighton lau một mảng da ở phía mặt trong cánh tay tôi.
Anh ta buộc ga rô lên phía trên khuỷu tay của tôi.
“Cần lấy chút máu thôi.” Anh ta nói, đoạn lấy ra một ống tiêm dưới da cỡ lớn từ khay dụng cụ.
Anh ta cũng khá đấy. Tôi thậm chí không cảm thấy đau ở vết chích.
Khi đã lấy máu của tôi xong, Leighton đẩy cáng về phía bên kia của phòng phẫu thuật, lại gần một tấm cửa kính có màn hình cảm ứng gắn trên bức tường cạnh đó.
“Ước gì tôi có thể nói với anh rằng tiếp theo đây là một tiết mục thú vị.” Anh ta cất tiếng. “Nếu anh vẫn bị mất phương hướng và không nhớ được chuyện sắp xảy ra, chắc đó cũng là vì những điều tốt nhất cho anh thôi.”
Tôi gượng hỏi chuyện gì đang xảy ra, nhưng câu chữ vẫn lùng bùng trong miệng tôi. Những ngón tay của Leighton di chuyển nhịp nhàng trên màn hình cảm ứng. Tấm cửa kính mở ra, và anh ta đẩy tôi vào trong một căn phòng chỉ vừa đủ lớn để đặt cáng.
“Chín mươi giây.” Anh ta nói. “Anh sẽ ổn thôi. Chưa một đối tượng thử nghiệm nào từng bị giết chết.”
Có một tiếng rít do khí nén phát ra, rồi tấm cửa kính trượt đóng lại.
Những bóng đèn âm trần tỏa ra một màu xanh dương dịu dàng.
Tôi nghển cổ lên.
Những bức tường ở hai bên tôi đều được gắn đầy những lỗ van tinh xảo.
Một màn sương mỏng và siêu lạnh phun từ trên trần xuống, phủ kín tôi từ chân lên đầu.
Cơ thể tôi căng cứng lại, những giọt chất lỏng lạnh buốt tụ lại trên da tôi và đóng băng.
Trong lúc tôi run lên vì lạnh, những bức tường phòng bắt đầu phát ra tiếng ro ro khe khẽ.
Một màn sương trắng tỏa ra từ các lỗ van, đi cùng tiếng rít liên tục và ngày một to hơn.
Nó phun ngày một mạnh.
Rồi vọt thành tia.
Những tia nước đối diện lao thẳng vào nhau phía trên cáng, phủ ngập căn phòng bằng một lớp sương dày đặc, che mờ những ngọn đèn trên đầu tôi. Lớp sương chạm đến đâu trên da thịt tôi thì những giọt chất lỏng đóng băng ban nãy lập tức vỡ ra khiến tôi đau nhói.
Những cánh quạt đảo chiều.
Trong vòng năm giây, khí bị hút sạch khỏi căn phòng để lại một thứ mùi đặc trưng như không khí vào một buổi chiều mùa hè ngay trước một cơn dông - khô ráo đột ngột và trong lành dễ chịu.
Phản ứng của khí và chất lỏng siêu lạnh trên làn da tạo nên một lớp bọt nóng khiến tôi thấy bỏng rát như tắm trong axit.
Tôi rên rỉ, cố giằng tay và chân ra khỏi những vòng đai cố định, tự hỏi chuyện này còn có thể kéo dài được bao lâu nữa. Ngưỡng chịu đau của tôi khá cao, nhưng chuyện này đang ở giữa ranh giới ngừng-ngay-lại hay thà-chết-đi-còn-hơn.
Những ý nghĩ của tôi đang di chuyển với tốc độ của ánh sáng.
Liệu có loại thuốc nào gây ra khả năng này không? Tạo ra ảo giác và nỗi đau ở mức chân thật đến đáng sợ như vậy?
Việc này quá thật, quá dữ dội.
Nếu chuyện này đang thực sự diễn ra thì sao?
Đây có phải là trò của CIA[10] không? Tôi đang ở trong một phòng khám bí mật chuyên dành để thí nghiệm trên người sao? Có phải tôi đã bị những người này bắt cóc không?
Một luồng nước ấm và dễ chịu mạnh như nước từ vòi cứu hỏa phun xuống từ trên trần, lập tức gột đi lớp bọt như đang tra tấn tôi.
Khi luồng nước ngừng phun, khí nóng xả ra từ các vòi như cơn gió sa mạc nóng rát táp vào da tôi.
Đau đớn biến mất.
Tôi hoàn toàn tỉnh táo.
Cánh cửa phía sau tôi mở ra và chiếc cáng lăn bánh ngược ra ngoài.
Leighton nhìn xuống tôi. “Không tệ lắm, nhỉ?” Anh ta đẩy tôi băng qua phòng phẫu thuật, vào trong một phòng bệnh ngay cạnh đó và gỡ mớ đai cố định quanh cổ tay và cổ chân tôi ra.
Vẫn đeo găng tay, anh ta đỡ tôi ngồi dậy trên cáng. Đầu tôi quay mòng mòng, căn phòng cũng đảo lộn mất một giây trước khi mọi thứ cuối cùng trở về với trạng thái vốn có của nó.
Anh ta quan sát tôi.
“Khá hơn chưa?”
Tôi gật đầu.
Có một chiếc giường và một tủ đồ với một chồng quần áo được gấp gọn đặt ngay ngắn phía trên. Các bức tường đều có gắn lớp đệm. Không có cạnh sắc nào. Khi tôi trườn ra mép cáng, Leighton đỡ lấy phía trên khuỷu tay tôi và giúp tôi đứng dậy.
Chân tôi mềm như bún, vô dụng.
Anh ta dìu tôi tới chỗ chiếc giường.
“Tôi sẽ để anh mặc quần áo và trở lại khi có kết quả xét nghiệm. Sẽ không lâu đâu. Tôi ra ngoài một chút, anh tự lo liệu được chứ?”
Tôi cuối cùng cũng tìm lại được giọng nói của mình: “Tôi không hiểu chuyện gì đang diễn ra. Tôi không biết mình đang ở đâu...”
“Triệu chứng mất phương hướng này sẽ chấm dứt. Tôi sẽ theo dõi anh cẩn thận. Chúng tôi sẽ giúp anh vượt qua chuyện này.”
Anh ta đẩy chiếc cáng ra cửa, nhưng dừng lại ở ngưỡng cửa và ngoái lại nhìn tôi qua lớp mặt nạ. “Thật tốt khi được gặp lại anh, người anh em. Cứ như được ở Trung tâm điều khiển khi tàu Apollo 13[11] trở về. Chúng tôi rất tự hào về anh.”
Cánh cửa đóng lại sau lưng anh ta.
Ba chiếc chốt cửa lập tức sập vào trong rãnh như một phát đạn ba.
Tôi đứng dậy khỏi giường và bước về phía tủ đồ, đôi chân vẫn run rẩy.
Tôi yếu đến nỗi phải mất vài phút để mặc xong đồ - một chiếc quần đùi vừa vặn, áo sơ mi vải lanh, không có thắt lưng.
Ngay phía trên cánh cửa là một chiếc camera đang giám sát tôi.
Tôi trở lại giường, ngồi một mình giữa căn phòng yên tĩnh và vô trùng, cố gắng khôi phục lại ký ức rõ ràng cuối cùng. Nhưng nỗ lực ấy cũng chỉ như kẻ đuối nước còn cách bờ đến vài ba mét. Những mảnh ký ức nằm rải rác trên bờ biển, và tôi có thể nhìn thấy chúng, gần như chạm được vào chúng, nhưng nước đã tràn vào trong phổi tôi. Tôi không thể giữ cho đầu ngoi lên trên mặt nước. Tôi càng gắng gượng để thâu ghép những mảnh ký ức, tôi lại càng mất sức, càng chới với, và càng hoảng loạn.
Tất cả những gì tôi nhớ ra được khi ngồi trong căn phòng màu trắng gắn đệm này là...
Nhạc Thelonious Monk.
Mùi rượu vang đỏ.
Đứng giữa một căn bếp và thái hành tây.
Một cậu thiếu niên đang vẽ.
Khoan đã.
Không phải một cậu bé bất kỳ.
Mà là cậu bé của tôi.
Con trai tôi.
Không phải một căn bếp bất kỳ.
Mà là căn bếp của tôi.
Nhà tôi.
Đó là đêm dành cho gia đình. Chúng tôi đang cùng nhau nấu ăn. Tôi nhìn thấy nụ cười của Daniela. Nghe thấy giọng cô và tiếng nhạc jazz. Ngửi thấy mùi hành, và mùi rượu ngọt gắt trong hơi thở của Daniela. Thấy đôi mắt cô long lanh. Căn bếp của chúng tôi vào đêm dành cho gia đình - quả là một nơi an toàn và hoàn hảo.
Nhưng tôi đã không ở lại. Vì một lý do nào đó, tôi đã rời khỏi nhà. Vì sao?
Tôi đã gần đến nơi rồi, sắp nhớ lại được rồi...
Những chiếc chốt cửa lại bật ra nhanh như chớp, và cánh cửa phòng bệnh vụt mở. Leighton đã tháo bỏ bộ đồ bảo hộ áp suất dương, thay bằng một chiếc áo khoác phòng thí nghiệm. Anh ta đang đứng ở ngưỡng cửa và mỉm cười, như thể anh ta đang cố nén một cơn phấn khích sắp bật tung ra. Giờ thì tôi đã kịp thấy anh ta khoảng tầm tuổi tôi, bảnh trai như mấy gã học trường nội trú. Đến cả lớp râu lún phún mới mọc cuối ngày cũng chỉn chu.
“Tin tốt đây.” Anh ta nói. “Kết quả đều sạch sẽ.”
“Sạch sẽ gì cơ?”
“Không bị nhiễm xạ, không nhiễm hóa chất sinh học, không bệnh truyền nhiễm. Ta sẽ có kết quả hoàn chỉnh từ xét nghiệm máu vào sáng hôm sau, nhưng anh không cần ở cách ly nữa. Ồ... Tôi có thứ này cho anh.”
Anh ta đưa cho tôi một chiếc túi khóa kéo đựng một chùm chìa khóa và một kẹp tiền.
Chữ “Jason Dessen” bằng bút dạ đen được viết nguệch ngoạc trên một mẩu băng keo giấy dán trên lớp túi nhựa.
“Ta đi chứ? Họ đều đang chờ anh.”
Tôi bỏ vào túi những thứ xem chừng thuộc về tôi rồi theo chân Leighton đi qua phòng phẫu thuật.
Trở ra hành lang, tôi thấy cả nửa tá nhân viên đang bận bịu gỡ lớp nhựa ra khỏi tường.
Khi thấy tôi, tất cả bọn họ bắt đầu vỗ tay chúc mừng.
Một phụ nữ còn hét lên: “Anh cừ lắm, Dessen!”
Những lớp cửa kính lần lượt mở ra khi chúng tôi tới gần.
Sức mạnh và khả năng cân bằng của tôi đang dần trở lại.
Anh ta dẫn tôi ra cầu thang, rồi chúng tôi đi lên, những bậc thang bằng kim loại cứ kêu lách cách dưới bước chân của chúng tôi.
“Anh đi cầu thang được chứ?” Leighton hỏi.
“Được. Ta đang đi đâu vậy?”
“Đi phỏng vấn.”
“Nhưng tôi còn không...”
“Sẽ tốt hơn nếu anh tập trung suy nghĩ cho buổi phỏng vấn từ trước. Anh biết đấy, mấy thủ tục vớ vẩn thôi mà.”
Khi đã đi hết hai tầng cầu thang, anh ta mở một chiếc cửa kính dày gần ba phân. Chúng tôi bước vào một hành lang khác với một bên là cửa kính chạy từ trần xuống sàn. Phía bên ngoài là một nhà xưởng lớn, với những hành lang bao xung quanh, tất thảy là bốn tầng, giống như một tòa tháp.
Tôi lại gần những tấm cửa kính để nhìn rõ hơn, nhưng Leighton lại dẫn tôi vào cánh cửa thứ hai ở bên trái, vào một căn phòng có ánh sáng lờ mờ, có một phụ nữ mặc quần đen bó đang đứng sau một chiếc bàn như thể đang chờ tôi đến.
“Chào Jason.” Cô ta lên tiếng.
“Chào cô.”
Mắt cô ta bắt được ánh nhìn của tôi trong giây lát, khi Leighton buộc thiết bị theo dõi vòng quanh bắp tay trái của tôi.
“Anh không phiền chứ?” Anh ta hỏi. “Tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu theo dõi các chỉ số của anh thêm một lúc nữa. Ta sẽ sớm thoát khỏi những điều phiền nhiễu này thôi.”
Leighton ấn nhẹ vào eo lưng tôi rồi thúc tôi đi tiếp vào trong phòng.
Tôi nghe cánh cửa đóng lại sau lưng mình.
Người phụ nữ chừng ngoài bốn mươi tuổi, thấp, tóc đen, với phần mái che ngang trán, phía trên đôi mắt kẻ viền đậm nét, bằng cách nào đó vừa có vẻ ân cần lại vừa sắc sảo.
Ánh sáng trong này khá dịu và không khiến tôi e sợ, giống như ánh sáng trong rạp phim ngay trước lúc bộ phim bắt đầu.
Có hai chiếc ghế gỗ lưng thẳng, và trên chiếc bàn nhỏ là một máy tính xách tay, một bình đựng nước, hai cốc thủy tinh, một bình mở nắp bằng thép, và một cái ca vẫn còn bốc khói, tỏa ra mùi cà phê hấp dẫn khắp phòng.
Những bức tường và trần nhà đều làm từ kính mờ.
“Jason, mời anh ngồi để ta có thể bắt đầu.”
Tôi chần chừ mãi năm giây, dùng dằng định bước ra ngoài, nhưng có điều gì đó mách bảo tôi rằng đấy sẽ là một ý tưởng tồi tệ, thậm chí là khủng khiếp.
Vì vậy tôi ngồi lên ghế, với tay lấy bình nước và tự rót cho mình một cốc.
Người phụ nữ cất tiếng: “Nếu anh đói, ta có thể cho gọi đồ ăn vào phòng”
“Không, cảm ơn cô.”
Người phụ nữ cuối cùng cũng ngồi xuống đối diện tôi, cô ta đẩy gọng kính trên sống mũi và gõ gõ gì đó vào trong máy tính.
“Bây giờ là...” Cô ta xem đồng hồ đeo tay. “Mười hai giờ bảy phút, rạng sáng ngày hai tháng Mười. Tôi là Amanda Lucas, mã số nhân viên chín - năm - sáu - bảy, và đêm nay tôi đang ngồi cùng....” Cô ta ra hiệu về phía tôi.
“Ừm... Jason Dessen.”
“Cảm ơn anh, Jason. Nhắc lại hoàn cảnh đêm nay, và cũng để lưu hồ sơ, vào khoảng mười giờ năm mươi chín phút tối, ngày mùng một tháng Mười, Kỹ thuật viên Chad Hodge, trong lúc kiểm toán nội bộ định kỳ, đã phát hiện ra Tiến sĩ Dessen nằm bất tỉnh trên sàn nhà xưởng. Đội giải cứu đã được điều động, và Tiến sĩ Dessen đã được đưa vào phòng cách ly lúc mười một giờ hai mươi tư phút tối. Sau khi được Tiến sĩ Leighton Vance khử trùng và kiểm tra các chỉ số cơ bản, Tiến sĩ Dessen được hộ tống đến trung tâm hội nghị ở tầng hầm số hai, nơi buổi phỏng vấn đầu tiên bắt đầu.”
Cô ta ngẩng lên nhìn tôi, một nụ cười đã nở trên môi.
“Jason, chúng tôi rất vui khi anh trở về. Đã khuya rồi, nhưng hầu hết mọi người trong đội đều phóng từ thành phố về đây vì việc này. Chắc anh đã đoán được họ đều đang theo dõi từ sau lớp kính này.”
Tiếng vỗ tay rộ lên quanh chúng tôi, kèm theo tiếng hò reo và có vài người còn hô vang tên tôi.
Độ sáng được tăng lên, vừa đủ để tôi nhìn xuyên qua các bức tường.
Ghế ngồi kiểu rạp hát được xếp bao quanh căn phòng phỏng vấn bằng kính hình hộp. Chừng mười lăm hoặc hai mươi người đang đứng, hầu hết là mỉm cười, có một số ít còn lau nước mắt như thể tôi vừa trở về sau một nhiệm vụ quyết tử nào đó.
Tôi nhận thấy có hai người mang súng, phần đuôi tay cầm của khẩu súng ngắn sáng lên dưới ánh đèn.
Những người đàn ông này không cười hay vỗ tay.
Amanda đẩy ghế ra sau và đứng dậy, bắt đầu vỗ tay cùng những người còn lại.
Cô ấy cũng có vẻ xúc động sâu sắc.
Tất cả những gì tôi nghĩ được là: Chuyện quái gì đã xảy ra với mình thế này?
Khi tiếng vỗ tay đã thưa dần, Amanda ngồi lại xuống ghế.
Cô nói: “Xin thứ lỗi vì màn chào đón nồng nhiệt này, nhưng tính đến giờ, anh là người duy nhất trở lại.”
Tôi không hiểu cô ta đang nói gì. Một phần trong tôi muốn nói thẳng ra điều đó, nhưng một phần khác cảm thấy nghi ngại, rằng có lẽ tôi không nên nói vội.
Ánh đèn lại dịu xuống.
Tôi nắm chặt cốc nước trong tay như một vật cứu cánh.
“Anh có biết anh đã đi bao lâu không?” Cô ta hỏi.
Đi đâu cơ?
“Không!”
“Mười bốn tháng”
Chúa ơi!
“Anh có bị sốc không, Jason?”
“Có thể nói như vậy.”
“Vâng, chúng tôi cứ thấp tha thấp thỏm, bồn chồn, đứng ngồi không yên. Chúng tôi đã chờ hơn một năm để hỏi anh những câu như: Anh đã nhìn thấy gì? Anh đã đi đâu? Làm sao anh trở về được? Hãy kể cho chúng tôi mọi thứ, và xin hãy kể từ đầu.”
Tôi uống một ngụm nước, cố bấu víu lấy ký ức rõ ràng cuối cùng trong tôi, như một điểm bám trên mặt vách đá dựng đứng đang vỡ vụn ra, đó là lúc tôi rời khỏi nhà vào buổi tối dành cho gia đình.
Và sau đó là...
Tôi đang bước trên vệ đường trong một đêm mùa thu mát mẻ. Tôi có thể nghe thấy tiếng ồn từ các màn hình chiếu trận đấu của đội bóng chày Chicago Cubs trong các quán bar.
Đi đâu nhỉ?
Tôi đang đi đâu?
“Anh cứ bình tĩnh, Jason. Ta không vội đâu.”
Ryan Holder.
Đó là người tôi chuẩn bị đến gặp.
Tôi đi bộ đến quán Village Tap và uống một ly, nói đúng hơn là hai ly Scotch hảo hạng, với bạn cùng phòng hồi đại học, Ryan Holder.
Liệu anh ta có liên đới gì trong vụ việc này không?
Tôi lại băn khoăn: Liệu việc này có đang thực sự xảy ra không?
Tôi lại cầm cốc nước lên. Trông nó thật hết sức, từ cách nó đang đổ mồ hôi vì nước lạnh, tới cảm giác tê mát trên đầu ngón tay tôi.
Tôi nhìn vào mắt Amanda.
Tôi chăm chú quan sát các bức tường.
Chúng không hề chảy nhũn ra.
Nếu đây chỉ là ảo giác do thuốc, thì tôi chưa từng nghe đến loại thuốc nào như vậy.
Không có sự méo mó nào về mặt thị giác hay âm thanh. Không có cơn hưng phấn nào. Vấn đề không phải là nơi này cảm giác không thật. Chỉ là tôi không nên ở đây. Có vẻ như sự hiện diện của tôi mới là điều dối trá. Tôi không dám chắc điều đó có ý nghĩa gì, nhưng tôi cảm nhận được nó từ tận đáy lòng mình.
Không, đây không phải là ảo giác. Đây là một điều khác biệt hoàn toàn.
“Ta thử tiếp cận theo cách khác nhé.” Amanda nói. “Điều cuối cùng anh nhớ được trước khi tỉnh lại trong xưởng là gì?”
“Tôi đã ở một quán bar.”
“Anh làm gì ở đó?”
“Gặp một người bạn cũ.”
“Và quán bar này ở đâu?” Cô ta lại hỏi.
“Quảng trường Logan.”
“Vậy là anh vẫn ở Chicago.”
“Phải.”
“Được rồi, anh có thể mô tả...?”
Giọng cô ta chìm vào trong thinh không.
Tôi nhìn thấy tuyến đường sắt.
Trời tối.
Rất tĩnh lặng.
Quá yên lặng so với Chicago thường ngày.
Ai đó đang lại gần.
Ai đó muốn hại tôi.
Tim tôi bắt đầu đập mạnh.
Tay tôi túa mồ hôi.
Tôi đặt cốc nước xuống bàn.
“Jason, Leighton nói với tôi các chỉ số thiết yếu của anh đang tăng cao.”
Giọng cô ta đã trở lại nhưng có vẻ vẫn cách tôi một quãng xa.
Đây là một trò đùa sao?
Có kẻ đang muốn lừa tôi sao?
Không, đừng hỏi cô ta câu đó. Đừng nói ra những lời này. Hãy là người mà họ đang nghĩ đến. Những người này vẫn lạnh lùng, bình tĩnh, và hai người trong số họ mang theo súng. Bất cứ điều gì họ muốn nghe, hãy nói cho họ nghe. Bởi vì nếu họ nhận ra anh không phải người mà họ nghĩ, chuyện gì sẽ xảy đến?
Có lẽ anh sẽ chẳng bao giờ thoát được khỏi nơi này.
Đầu tôi bắt đầu đau nhói. Tôi đưa tay lên, chạm vào phần sau của hộp sọ và sượt qua một điểm gồ lên mềm mềm, đến nỗi tôi phải nhăn mặt lại.
“Jason?”
Tôi đã bị thương à?
Có ai đó đã tấn công tôi sao? Nhỡ tôi đã bị đưa đến đây thì sao? Nhỡ những người này, dù vẻ ngoài tử tế là thế, lại cùng một giuộc với kẻ đã làm hại tôi thì sao?
Tôi lại chạm vào bên cạnh trán, cảm nhận cơn đau từ cú đánh thứ hai.
“Jason.”
Tôi nhớ ra một chiếc mặt nạ geisha.
Tôi đã trần trụi và không thể tự vệ.
“Jason.”
Chỉ mới cách đây vài giờ, tôi vẫn còn ở nhà và nấu bữa tối.
Tôi không phải là người mà họ nghĩ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ phát hiện ra?
“Leighton, mời anh xuống đây được không?”
Không hay rồi.
Tôi không nên ở trong căn phòng này thêm nữa.
Tôi phải tránh xa những con người này.
Tôi cần suy nghĩ.
“Amanda.” Tôi kéo mình trở về thực tại, cố gắng xua những câu hỏi và nỗi sợ hãi ra khỏi tâm trí, nhưng việc đó cũng giống như cố gắng bồi đắp cho một con đê sắp vỡ. Sẽ không được lâu. Tôi sẽ không trụ được. “Điều này thật đáng xấu hổ.” Tôi nói. “Nhưng tôi đã kiệt sức, và nói thật, vụ khử trùng chẳng có gì vui cả.”
“Anh muốn nghỉ một lúc không?”
“Vậy có được không? Tôi chỉ cần một lát để tỉnh táo lại.” Tôi chỉ vào chiếc máy tính. “Tôi cũng muốn trả lời phỏng vấn cho dõng dạc nữa.”
“Tất nhiên rồi.” Cô ta gõ gõ thứ gì đó. “Ta tạm thời không ghi âm nữa.”
Tôi đứng dậy.
Cô ta nói: “Tôi có thể dẫn anh đến phòng riêng...”
“Không cần đâu.”
Tôi mở cửa và bước ra ngoài hành lang.
Leighton Vance đang chờ sẵn ngoài đó.
“Jason, tôi muốn anh nằm nghỉ. Các chỉ số của anh đang đi nhầm hướng rồi.”
Tôi giật thiết bị theo dõi ra khỏi cánh tay rồi đưa nó cho gã bác sĩ.
“Cảm ơn anh đã quan tâm, nhưng cái tôi thực sự cần là được đi tắm.”
“Ồ, phải rồi. Tôi sẽ dẫn anh đi.”
Chúng tôi đi dọc hành lang.
Anh ta dùng vai đẩy tấm cửa kính nặng nề ra, dẫn tôi trở lại cầu thang mà hiện giờ đã không còn một bóng người. Không có âm thanh nào ngoài tiếng hệ thống thông gió đang bơm khí nóng qua một lỗ thông gần đó. Tôi nắm lấy thanh vịn và vươn người ra phía khoảng không gian mở.
Còn hai tầng cầu thang nữa là xuống đáy, và hai tầng nữa là lên đỉnh tòa nhà.
Amanda đã nói gì lúc bắt đầu buổi phỏng vấn nhỉ? Rằng chúng tôi đang ở tầng ngầm số hai à? Vậy nghĩa là cả tòa nhà này nằm dưới lòng đất ư?
“Jason? Anh có đi không?”
Tôi theo bước Leighton mà leo tiếp, chống chọi với cảm giác từ đôi chân đang rã rời và cái đầu thì đau như búa bổ.
Khi đã ở trên đỉnh của cầu thang, tôi thấy một tấm biển gắn cạnh một cánh cửa cốt thép ghi chữ MẶT ĐẤT. Leighton quẹt thẻ, nhập mã số và giữ cửa cho tôi bước qua.
Dòng chữ PHÒNG THÍ NGHIỆM VẬN TỐC được gắn thẳng trên bức tường ngay trước mặt tôi.
Phía bên trái là một dãy thang máy.
Phía bên phải là một quầy kiểm tra an ninh, với một anh bảo vệ dữ dằn đứng giữa cổng dò kim loại và một cánh cửa xoay, lối ra nằm ở ngay trước mắt tôi.
Có vẻ bảo vệ ở đây đều hướng mặt ra ngoài, tập trung cho việc chặn người vào hơn là cản người ra.
Leighton dẫn tôi đi qua dãy thang máy, đến đầu kia của hành lang, nơi có một cánh cửa kép mà anh ta mở bằng thẻ.
Khi chúng tôi bước vào trong, anh ta đưa tay bật đèn. Một phòng làm việc được bày trí ngăn nắp hiện ra, các bức tường treo đầy ảnh các loại tàu bay thương mại, máy bay quân sự siêu âm và những động cơ phục vụ cho chúng.
Một bức ảnh được lồng khung đặt trên bàn đã thu hút sự chú ý của tôi - một người đàn ông lớn tuổi đang bế một cậu bé trên tay, trông khá giống Leighton. Họ đang đứng trong xưởng, phía trước một cánh quạt máy bay khổng lồ đang được lắp ráp.
“Tôi nghĩ là anh dùng phòng vệ sinh cá nhân của tôi thì thoải mái hơn.”
Leighton chỉ về phía cánh cửa ở góc đằng xa. “Tôi sẽ chờ ở đây.” Anh ta nói, đoạn ngồi xuống mép bàn và lôi một chiếc điện thoại từ trong túi ra. “Cứ gọi tôi nếu anh cần gì nhé.”
Phòng tắm của anh ta khá lạnh và gần như vô trùng.
Có một bồn vệ sinh, bồn tiểu, một buồng tắm đứng, và một cửa sổ nhỏ nằm ở lưng chừng bức tường phía sau.
Tôi ngồi tạm xuống bồn vệ sinh.
Ngực tôi thắt chặt đến nỗi gần như không thở được.
Họ đã chờ tôi trở về suốt mười bốn tháng. Sẽ không đời nào họ chịu để tôi ra khỏi tòa nhà này. Không phải đêm nay. Có lẽ chẳng phải chờ lâu nữa thì họ sẽ phát hiện ra tôi không phải là người mà họ tưởng là đang nói chuyện cùng.
Trừ khi tất cả những chuyện này là một bài thi hoặc trò chơi được sắp xếp trước.
Giọng của Leighton vang lên từ sau cánh cửa: “Mọi việc trong đấy ổn chứ?”
“Vâng.”
“Tôi không biết anh đã thấy những gì bên trong thứ đó, nhưng tôi muốn anh biết rằng tôi ở đây là vì anh, người anh em ạ. Nếu anh đang hoảng sợ, anh phải nói để tôi còn giúp.”
Tôi liền đứng dậy.
Anh ta tiếp tục: “Tôi đã quan sát anh lúc ở phòng hội nghị, và phải nói là anh trông có vẻ thất thần.”
Nếu tôi trở lại sảnh tòa nhà cùng anh ta, liệu tôi có khả năng vùng chạy xuyên qua cửa bảo vệ không? Tôi hình dung ra anh chàng bảo vệ to con kia đứng cạnh chiếc cổng dò kim loại. Có lẽ là không.
“Về mặt thể chất mà nói, tôi nghĩ anh sẽ ổn thôi, nhưng tôi lo ngại về tình trạng tâm lý của anh.”
Tôi phải bước lên phần viền của bồn tiểu bằng sứ để với tới cửa sổ. Phần cửa kính có vẻ đã được chốt chặn bằng thanh gạt ở cả hai bên.
Cửa này chỉ rộng hơn sáu mươi centimet mỗi chiều, và tôi không chắc mình có thể chui lọt qua đó không.
Giọng của Leighton vang lên từ phía bên kia cửa buồng tắm, và lúc tôi rón rén trở lại chỗ bồn rửa, lời anh ta nói lại rõ ràng hơn.
“... Tệ nhất là trường hợp anh tự xoay xở vượt qua vụ này. Hãy thừa nhận đi. Anh là kiểu người cho rằng mình đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ điều gì.”
Tôi tiến lại gần cửa buồng vệ sinh.
Có một cái chốt cửa.
Tay tôi run run, chầm chậm vặn chiếc khóa hình trụ.
“Nhưng dù anh cảm thấy ra sao...” Lúc này giọng anh ta đã ở rất gần, chỉ cách tôi chưa đến mười phân. “... Tôi muốn anh chia sẻ với tôi, và nếu cần hoãn buổi phỏng vấn sang ngày mai hoặc ngày kia...”
Anh ta im bặt khi chiếc chốt đi vào rãnh kèm theo một tiếng “tách” nhẹ.
Trong thoáng chốc, không có chuyện gì diễn ra.
Tôi thận trọng lùi lại một bước.
Cánh cửa nhúc nhích không đáng kể, rồi rung lên lách cách dữ dội bên trong khung cửa.
Leighton gọi: “Jason. Jason!” Và rồi anh ta kêu lên: “Tôi cần một đội bảo vệ đến văn phòng tôi ngay. Dessen đã khóa mình trong phòng vệ sinh.”
Cánh cửa rung mạnh khi Leighton lao sầm vào nó, nhưng khóa cửa vẫn giữ nguyên.
Tôi chạy vội về phía cửa sổ, trèo lên bồn tiểu và gạt thanh chặn ở hai bên cửa kính.
Leighton đang gào lên với ai đó, và dù không nghe rõ tiếng nói, tôi nghĩ là đã nghe thấy tiếng bước chân tiến lại gần.
Cửa sổ mở ra.
Không khí ban đêm ùa vào.
Ngay cả khi đứng trên bồn tiểu, tôi cũng không chắc có thể trèo lên cửa sổ.
Lấy đà nhảy từ mép bồn, tôi nhào người về phía khung cửa mở, nhưng chỉ quăng được một cánh tay qua.
Khi có thứ gì đó động thật mạnh vào cửa buồng vệ sinh, giày của tôi trượt trên bề mặt trơn nhẵn, thẳng đứng của bức tường. Không có thứ gì để tôi bám hay vịn vào.
Tôi thả mình xuống sàn, trèo lại lên bồn tiểu.
Leighton gào lên với ai đó: “Mạnh nữa đi chứ!”
Tôi lại nhảy lên, và lần này đã xoay xở quăng được cả hai tay qua phía bên kia bậu cửa. Tôi bám không chắc lắm, nhưng vừa đủ để không rơi xuống.
Tôi trườn qua cửa sổ vừa kịp lúc cửa buồng tắm đổ sập xuống phía sau tôi.
Leighton hô lớn tên tôi.
Tôi chới với giữa bóng đêm trong tích tắc.
Ngã sấp mặt xuống vệ đường.
Khi đứng dậy, tôi vẫn còn choáng váng, tai ù đặc, máu chảy thành dòng trên gò má tôi.
Tôi đã ra ngoài, và đang ở trong một con hẻm tối nằm giữa hai tòa nhà.
Leighton ló đầu ra từ khung cửa sổ phía trên đầu tôi.
“Jason, đừng làm như vậy. Hãy để tôi giúp anh.”
Tôi quay người và bỏ chạy, dù không biết phải chạy về đâu. Tôi cứ thế lao về phía lối thoát ở cuối con hẻm.
Tôi đã chạy đến được đó.
Men theo một lối đi lát gạch.
Và giờ thì tôi đang ở trong một khu tổ hợp văn phòng. Những tòa nhà thấp tè, đơn điệu tụm lại quanh một bể nước với một đài phun nước được thắp sáng ở giữa.
Giờ này thì đúng là chẳng có gì ngạc nhiên khi không còn ai ngoài đường.
Tôi chạy như bay qua những chiếc ghế băng, những bụi dâu được cắt tỉa, một cái vọng lâu, và một tấm biển kèm theo mũi tên bên dưới dòng chữ HƯỚNG VÀO LỐI ĐI BỘ.
Tôi ngoái lại phía sau thật nhanh. Tòa nhà tôi vừa thoát ra là một tòa nhà năm tầng không có gì nổi bật, theo lối kiến trúc tầm thường không có gì đáng nhớ, và người ta đang ùa ra khỏi đó như ong vỡ tổ.
Sang tới phía bên kia bể nước, tôi rời khỏi vỉa hè và rẽ vào một lối đi rải sỏi.
Mồ hôi khiến mắt tôi cay xè, phổi tôi như bốc cháy, nhưng tôi vẫn gắng vung tay và nhịp chân dấn bước tiếp.
Sau mỗi sải chân của tôi, ánh đèn từ khu tổ hợp văn phòng lại lùi xa thêm một chút.
Trước mặt tôi, không có gì ngoài màn đêm đang mời gọi. Tôi tiến về phía nó, đi vào trong nó, như thể mạng sống của tôi phụ thuộc hoàn toàn vào đó.
Một luồng gió mạnh và tươi mới táp vào mặt tôi, và tôi bắt đầu băn khoăn mình sẽ đi đâu, vì không phải đằng xa nên có ánh đèn sao? Dù chỉ là một đốm sáng nhỏ thôi ư? Nhưng tôi cứ chạy mãi trong một khối màu đen sâu hút vô tận.
Tôi nghe tiếng sóng vỗ. Tôi đã ra đến bờ cát.
Đêm nay không có trăng, nhưng các vì sao đủ sáng để tôi nhận ra mặt nước vấy bùn của hồ Michigan.
Tôi quay lại nhìn về phía khu tổ hợp văn phòng, nghe thấy những tiếng nói lao xao ngày một gần, và thoáng thấy vài luồng sáng từ đèn pin rọi vào màn đêm.
Quay sang hướng bắc, tôi bắt đầu chạy, giày của tôi đạp lên những viên đá đã được sóng mài nhẵn. Khi đã chạy dọc bờ biển được vài kilomet, tôi có thể nhìn thấy hình ảnh phản chiếu lờ mờ trong màn đêm của khu trung tâm thương mại, nơi những tòa nhà chọc trời vươn lên hắt bóng xuống mặt nước.
Tôi ngoái nhìn lại đằng sau và thấy vài luồng đèn hướng về phía nam, rời xa khỏi tôi, những luồng đèn còn lại thì hướng về phía bắc.
Bọn họ đang đuổi sát tôi.
Tôi tách xa khỏi mép nước, băng qua một lối đi cho xe đạp, và hướng về một dãy bụi cây.
Những tiếng nói đang tiến lại gần hơn.
Tôi tự hỏi trời có đủ tối để che mắt họ không.
Có một bờ đê cao chưa tới một mét chắn trước mặt tôi, và tôi trèo qua bờ tường xi măng, làm trầy xước cẳng chân trong lúc trèo, rồi bò bằng cả tứ chi qua một hàng rào. Những cành cây chìa ra giật lấy áo tôi, cào vào mặt và mắt tôi.
Khi đã ra khỏi bụi cây, tôi thấy mình đang ở giữa một con đường chạy song song với đường bờ biển.
Từ hướng khu tổ hợp văn phòng, tôi nghe tiếng động cơ khởi động.
Luồng ánh sáng mạnh làm tôi chói mắt.
Tôi băng qua đường, nhảy qua một hàng rào dây thép, và đột nhiên thấy mình đang chạy giữa sân của một nhà nào đó, tránh những chiếc xe đạp và ván trượt đã bị lật ngửa, rồi phóng như bay dọc một bên hông nhà trong lúc một con chó giận dữ nhảy tới nhảy lui bên trong. Các bóng điện vụt sáng lên khi tôi chạy đến sân sau, nhảy qua hàng rào một lần nữa, và thấy mình đang băng qua phần sân ngoài của một sân bóng chày, tự hỏi mình có thể chạy như thế này trong bao lâu nữa.
Câu trả lời đến với tôi nhanh như chớp mắt.
Khi đến rìa sân trong, tôi sụp xuống, mồ hôi vã ra như tắm, mọi cơ bắp trong người đều đau buốt.
Con chó nọ vẫn sủa từ đằng xa, nhưng nhìn về phía hồ, tôi không còn thấy ánh đèn pin, không còn nghe tiếng người nói.
Tôi nằm đó không biết bao lâu, và tựa như cả mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua trước khi tôi có thể thở mà không bị đứt hơi nữa.
Cuối cùng tôi cũng ngồi dậy được.
Trời đêm khá mát, và gió thổi từ hồ vào qua các hàng cây quanh đó, trút một cơn lốc lá vàng xuống mặt sân bóng chày.
Tôi gắng gượng đứng dậy, cổ họng khát khô. Tôi mệt mỏi và vẫn phải cố hiểu xem một vài tiếng đồng hồ vừa qua là như thế nào, nhưng tâm trí tôi không tài nào tập trung tư duy được vào lúc này.
Tôi lững thững bước ra khỏi sân bóng chày, vào một khu nhà cho dân lao động ở bờ Nam.
Những con phố tuyệt không bóng người.
Chỉ toàn là những dãy nhà yên tĩnh, bình thản nối tiếp nhau.
Tôi đi bộ chừng hơn một cây số, có thể là hơn, rồi tôi thấy mình đang đứng giữa ngã tư không người của một khu thương mại, quan sát đèn tín hiệu giao thông phía trên đầu chuyển đổi theo chu kỳ nhanh hơn vào ban đêm.
Con phố chính kéo dài hai dãy nhà, không có dấu hiệu nào của con người ngoại trừ một quán bar nhếch nhác bên kia đường với ba biển hiệu bia sản xuất hàng loạt sáng rực phía trong cửa sổ. Khi các khách quen của quán lảo đảo đi ra ngoài trong làn khói thuốc và tiếng nói chuyện ồn ào, đèn pha của chiếc ô tô đầu tiên tôi nhìn thấy trong hai mươi phút vừa qua xuất hiện từ xa.
Một chiếc taxi trưng biển “Không đón khách” sáng lên trong đêm.
Tôi bước ra giữa ngã tư và đứng dưới đèn tín hiệu, vẫy vẫy tay. Chiếc taxi đi chậm lại khi tới gần tôi và tìm cách đi vòng qua tôi, nhưng tôi đã bước chéo sang, chặn thanh cản trước của nó đang trên đà va phải tôi, buộc nó phải dừng lại.
Gã lái xe hạ kính cửa xuống, vẻ mặt tức tối.
“Anh làm cái quái gì thế?”
“Tôi cần đi nhờ.”
Gã lái xe là người Somali, trên gương mặt mỏng như lưỡi cày của gã là bộ râu mọc thành từng mảng không đều, và gã đang nhìn tôi qua một cặp kính dày cộp, to bự.
Gã nói: “Đã hai giờ sáng. Tôi hết ca rồi. Không chạy xe nữa.”
“Xin anh.”
“Anh có biết chữ không? Nhìn đèn xe đi.” Gã đập đập tay lên phía trần xe.
“Tôi cần phải về nhà.”
Tấm kính cửa bắt đầu kéo lên.
Tôi thò tay vào trong túi và lôi ra chiếc túi nhựa đựng đồ cá nhân, mở nó ra và cho gã thấy kẹp tiền.
“Tôi có thể trả anh nhiều hơn...”
“Biến khỏi đường đi.”
“Tôi sẽ trả gấp đôi đồng hồ đo.”
Cánh cửa dừng lại chỉ chừa ra một khoảng hở chừng hơn mười phân.
“Bằng tiền mặt đấy.”
“Bằng tiền mặt.”
Tôi nhanh tay đếm lướt cuộn tiền. Sẽ mất khoảng bảy mươi lăm đô la để đến khu dân cư ở bờ Bắc, và tôi sẽ phải trả gấp đôi chỗ ấy.
“Muốn đi thì vào xe đi!” Gã hét lên.
Một vài gã khách trong quán bar đã nhận thấy chiếc taxi đang dừng giữa ngã tư, và có lẽ họ cũng đang cần gọi xe nên kéo nhau về phía tôi, vừa đi vừa hét vang nhờ tôi giữ xe hộ.
Tôi đã đếm xong chỗ tiền, tổng cộng ba trăm ba mươi hai đô la và ba chiếc thẻ tín dụng đã hết hạn.
Tôi trèo vào ghế sau và yêu cầu gã lái xe đưa tôi đến Quảng trường Logan.
“Chỗ đó cách đây phải bốn mươi cây số đấy!”
“Và tôi sẽ trả anh gấp đôi.”
Gã liếc nhìn tôi qua gương chiếu hậu.
“Tiền đâu?”
Tôi lấy ra một trăm đô la và đặt lên ghế trước. “Đến nơi tôi sẽ trả nốt.”
Gã lượm vội chỗ tiền và tăng tốc phóng qua ngã tư, vượt qua mấy tên say xỉn.
Tôi xem xét kẹp tiền. Phía dưới số tiền mặt và thẻ tín dụng, có một bằng lái xe của bang Illinois với ảnh chân dung của tôi nhưng tôi lại chưa từng thấy bao giờ, một thẻ thành viên câu lạc bộ tập gym tôi chưa từng đến, và một thẻ bảo hiểm y tế từ một hãng bảo hiểm tôi chưa từng dùng.
Gã lái xe lén nhìn tôi qua gương chiếu hậu.
“Một đêm tồi tệ hử?” Gã cất tiếng.
“Có vẻ là vậy nhỉ?”
“Tôi tưởng anh say, nhưng không phải. Quần áo anh bị rách. Mặt thì đầy máu.”
Nếu là tôi thì tôi cũng không đón một vị khách có bộ dạng này, đứng giữa ngã tư đường vào lúc hai giờ sáng, như một kẻ vô gia cư và loạn trí.
“Anh đang gặp rắc rối hả?” Gã hỏi.
“Phải.”
“Chuyện gì thế?”
“Tôi cũng không biết chắc.”
“Tôi đưa anh đến bệnh viện.”
“Không. Tôi muốn về nhà.”