Người Chạy Xuyên Không Gian - Chương 10

MƯỜI

SỐ ỐNG THUỐC CÒN LẠI: BỐN MƯƠI BỐN

Amanda ngước nhìn lên từ cuốn sổ và hỏi: “Anh có chắc rằng viết ra là cách tốt nhất không?”

“Khi ta viết một điều gì đó, toàn bộ sự chú ý của ta sẽ được đặt vào đó. Ta gần như không thể viết điều này trong khi nghĩ về điều khác được. Hành động viết ra giấy giúp cho suy nghĩ và ý định của ta được thống nhất.”

“Tôi nên viết bao nhiêu?” Cô hỏi.

“Có lẽ bắt đầu một cách đơn giản thôi. Một đoạn ngắn là được nhỉ?”

Cô hoàn thành câu mà cô đang viết dở, rồi đóng sổ lại và đứng lên.

“Cô đã ghi nhớ hết rồi chứ?” Tôi hỏi.

“Tôi cho là như vậy.”

Tôi vác ba lô lên vai. Amanda đi ngang mặt tôi về phía cánh cửa, xoay tay nắm và kéo mở cửa ra. Ánh nắng ban mai ùa vào trong hành lang, chói lòa đến độ tôi không nhìn thấy gì bên ngoài mất một lúc.

Khi mắt tôi đã quen dần với ánh sáng, khung cảnh xung quanh dần hiện ra rõ ràng.

Chúng tôi đang đứng trên ngưỡng cửa của chiếc hộp, trên đỉnh một ngọn đồi nhìn xuống công viên.

Ở hướng đông, thảm cỏ xanh như ngọc trải dài thoai thoải đến vài trăm mét, xuống tận bờ hồ Michigan. Và ở đằng xa là khung cảnh mà tôi chưa từng thấy - các tòa nhà mỏng manh, làm từ kính và thép sáng bóng đến độ viền của chúng gần như vô hình, tạo ra thứ hiệu ứng tựa như ảo ảnh.

Bầu trời đầy những vật thể đang chuyển động, phần lớn là bay ngang dọc khắp vùng không gian phía trên thứ mà tôi tạm cho là thành phố Chicago, và một số ít thì tăng tốc theo chiều dọc, hướng thẳng lên bầu trời xanh thẳm mà không có dấu hiệu dừng lại.

Amanda quay sang nhìn tôi và nhếch miệng cười, tay cô gõ gõ lên quyển sổ.

Tôi mở trang đầu tiên.

Cô ấy viết:

Tôi muốn đến một nơi tốt đẹp, một thời điểm tốt đẹp để sống. Một thế giới mà tôi muốn sống trong đó. Đó không phải là thời tương lai, nhưng cảm giác giống như vậy...

Tôi nói: “Không tệ đâu.”

“Nơi này có thật không vậy?” Cô hỏi.

“Có chứ. Và cô đã đưa hai ta đến đây.”

“Hãy cùng khám phá thôi. Ta cũng nên ngừng dùng thuốc một thời gian.”

Cô bắt đầu leo xuống con dốc đầy cỏ, xa dần khỏi cái hộp. Chúng tôi đi qua một sân chơi và sau đó rẽ vào một lối đi bộ ngang qua công viên.

Buổi sáng trời lạnh và rất trong lành. Hơi thở của tôi phả ra thành những làn hơi nhìn thấy được.

Thảm cỏ mang màu xanh nhợt vì bị băng bám vào ở những nơi ánh mặt trời chưa rọi tới, và hàng cây gỗ cứng bao quanh công viên thì đang chuyển mình thay lá.

Mặt hồ lặng như tấm kính.

Khoảng một phần tư dặm phía trước, một chuỗi công trình hình chữ Y duyên dáng cắt ngang công viên, mỗi công trình cách nhau năm mươi mét.

Chỉ khi lại gần, tôi mới nhận ra chúng là gì.

Chúng tôi đi thang máy lên ga tàu về hướng bắc và chờ bên dưới mái che có chức năng sưởi ấm, nằm cách hành lang trống bên dưới hơn mười hai mét. Một bản đồ kỹ thuật số cho phép người dùng tương tác được gắn nổi dòng chữ của Cơ quan Giao thông Chicago cho biết đây là tuyến đường sắt tốc hành màu đỏ, nối từ Nam Chicago đến khu phố chính.

Một giọng nữ hối hả vang lên khắp hệ thống loa trên đầu chúng tôi.

Hãy lùi lại. Tàu đang đến gần. Hãy lùi lại. Tàu đang vào trạm trong năm... bốn... ba...

Tôi cứ ngó đi ngó lại khắp đường tàu nhưng không thấy thứ gì tiến lại gần.

Hai...

Một khối hình chuyển động nhòe nhoẹt lao như tên lửa ra khỏi hàng cây.

Một.

Một đoàn tàu ba khoang trơn nhẵn giảm tốc độ, tiến vào ga, và khi cửa mở, giọng nữ trong hệ thống máy tính lại vang lên: Vui lòng chờ rồi lên tàu khi đèn chuyển màu xanh.

Một nhúm hành khách xuống tàu và đi ngang qua mặt chúng tôi đang mặc đồ tập thể dục. Bảng đèn đỏ phía trên mỗi cánh cửa đang mở chuyển sang màu xanh lá cây.

Bạn có thể lên tàu để đến trạm phố chính bây giờ.

Amanda và tôi liếc nhìn nhau, nhún vai, rồi bước lên khoang đầu tiên. Nó gần như đã kín chỗ.

Đây không phải tuyến đường sắt Chicago mà tôi biết. Nó miễn phí. Không ai phải đứng. Ai cũng thắt đai an toàn chặt chẽ trên những chiếc ghế như thể họ sắp bị gắn vào một quả tên lửa.

Dòng chữ CÒN TRỐNG lơ lửng rất hữu ích phía trên mỗi ghế trống.

Khi Amanda và tôi di chuyển dọc lối đi, giọng tiếp viên tự động vang lên: Xin hãy tìm một chỗ ngồi. Tàu không thể rời ga cho đến khi tất cả mọi người đã ngồi an toàn.

Chúng tôi lách vào hai chiếc ghế ở phía đầu khoang. Khi tôi ngả người ra sau, đai an toàn tự động nhô lên từ ghế ngồi và nhẹ nhàng thắt quanh vai và hông tôi.

Vui lòng ngả đầu tựa vào ghế của bạn. Tàu sẽ khởi hành trong ba... hai... một.

Con tàu tăng tốc mượt mà nhưng mạnh mẽ. Tôi bị lún sâu vào ghế ngồi bọc đệm mất hai giây, rồi chúng tôi lướt dọc theo một đường ray duy nhất với tốc độ không tưởng. Không còn chút cảm giác ma sát nào bên dưới, trong khi quang cảnh thành phố nhòe đi ở phía bên kia cửa kính, tốc độ di chuyển quá nhanh khiến tôi không tài nào xử lý được những hình ảnh mà tôi đang chứng kiến.

Ở đằng xa, quang cảnh thành phố hư ảo đang nhích lại ngày một gần hơn. Các tòa nhà trông thật phi lý. Trong ánh sáng ban mai trong vắt, có vẻ như ai đó đã đập vỡ một tấm gương và dựng đứng tất cả các mảnh thủy tinh ấy lên một cách đồng đều. Chúng đẹp một cách tùy hứng và bất thường, không giống như những sản phẩm do bàn tay con người làm ra. Hoàn hảo trong chính sự không hoàn hảo và bất cân xứng của chúng, giống như một dãy núi, hoặc một dòng sông.

Đường ray hạ xuống một nhịp.

Bụng dạ tôi cảm thấy như bị hẫng một cái.

Chúng tôi lao qua một đường hầm - bóng tối xen kẽ với những chùm ánh sáng chỉ nhằm khuếch đại cảm giác mất phương hướng và vận tốc.

Chúng tôi lại lao ra khỏi bóng tối và tôi nắm chặt hai bên thành ghế của mình, người nhào về phía trước, giằng mạnh đai an toàn khi con tàu dừng khựng lại.

Giọng tiếp viên lại vang lên: Ga phố chính.

Dòng chữ “Đây có phải là điểm dừng của bạn?” bằng ảnh không gian ba chiều xuất hiện cách mặt tôi mười lăm centimet, bên dưới là hai chữ “C?” và “K?”.

Amanda nói: “Ta xuống ở đây đi.”

Tôi chọn chữ C, và cô cũng làm y như vậy.

Đai an toàn của chúng tôi nhả ra và thu về bên trong chiếc ghế. Chúng tôi đứng lên và ra khỏi tàu cùng những hành khách khác, tiến vào sân ga của một nhà ga tráng lệ gấp nhiều lần nhà ga trung tâm của New York. Đây là một nhà ga trên không, phía trên là trần nhà trông giống như kính vát mỗi khi ánh sáng mặt trời chiếu qua và tỏa xuống sảnh thành những tia sáng rải rác, hắt lên những bức tường cẩm thạch.

Ở đây chen kín những người là người.

Những nốt nhạc dài, réo rắt từ một chiếc saxophone cứ lơ lửng trong không trung.

Ở phía bên kia sảnh, chúng tôi đi lên những bậc cầu thang đang đổ xuống như một thác nước.

Ai ai quanh chúng tôi cũng đang nói chuyện một mình - tôi chắc chắn là họ đang nghe điện thoại, dù tôi không nhìn thấy bất kỳ thiết bị di động nào.

Trên đỉnh cầu thang, chúng tôi đi ngang qua một trong hàng chục chiếc cửa xoay.

Con phố chật ních người đi bộ - không có xe hơi, không có đèn giao thông. Chúng tôi đang đứng dưới chân tòa nhà cao nhất mà tôi từng thấy. Ngay cả từ khoảng cách gần như thế này, trông nó cũng phi tự nhiên. Các tầng trông giống hệt nhau, nên nó tạo ra một hình ảnh tựa như một khối băng hoặc pha lê nguyên khối.

Vì tò mò, chúng tôi sang đường và vào trong sảnh tòa nhà, đi theo các biển chỉ dẫn để đến xếp hàng lên đài quan sát.

Thang máy di chuyển nhanh một cách kinh ngạc.

Tôi phải liên tục nuốt nước bọt để chống ù tai trước sự thay đổi áp lực liên tục.

Sau hai phút, thang máy dừng lại.

Nhân viên thông báo rằng chúng tôi có mười phút để tận hưởng trên tầng thượng.

Khi cánh cửa mở ra, một luồng gió lạnh thốc vào. Ra khỏi thang máy, chúng tôi đi ngang qua dòng chữ bằng hình ảnh ba chiều: Bạn đang ở độ cao 2.160 mét so với mặt đường.

Trục thang máy nằm ở vị trí trung tâm của đài quan sát khá nhỏ, và đỉnh tòa tháp chỉ cách phía trên đầu chúng tôi chừng mười lăm mét, ngọn của cấu trúc bằng kính này xoắn lại thành hình giống như một ngọn lửa.

Một dòng chữ ba chiều khác hiện lên khi chúng tôi bước ra phía bờ tường: Tháp Kính là tòa nhà cao nhất ở Trung Tây và cao thứ ba ở Mỹ.

Trên này lạnh cóng cả người, gió liên tục thổi vào từ mặt hồ. Không khí loãng hơn tràn vào trong phổi tôi, và tôi nhận thấy cơn chóng mặt thoáng qua, nhưng không rõ là do thiếu oxy hay do độ cao.

Chúng tôi đã đứng sát thanh chắn chống tự sát của bờ tường.

Đầu tôi quay cuồng, ruột tôi quặn lại.

Tôi cảm thấy bị choáng ngợp trước quang cảnh thành phố trải dài, lấp lánh trong nắng, những tòa tháp mọc lên san sát và mặt hồ rộng mênh mông mà tôi có thể nhìn thấy rõ kéo đến tận Nam Michigan.

Ở phía tây và phía nam, vượt quá vùng ngoại ô, các đồng cỏ đang sáng lấp lánh trong ánh ban mai, trải dài cả trăm dặm.

Tòa tháp khẽ xoay mình.

Bốn bang - Illinois, Indiana, Michigan và Wisconsin - có thể được quan sát từ đây vào những ngày trời quang đãng.

Đứng trên tuyệt tác của nghệ thuật và trí tưởng tượng này, tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé.

Thật sung sướng khi được hít thở bầu không khí của một thế giới đã tạo nên những điều đẹp đẽ nhường này.

Amanda đứng bên cạnh tôi, và chúng tôi nhìn xuống đường cong nữ tính tuyệt đẹp của tòa nhà. Không gian trên này thật thoáng đãng và gần như im lặng tuyệt đối.

Âm thanh duy nhất ở đây là tiếng thì thầm cô đơn của gió.

Tiếng ồn của những con phố bên dưới không vọng lên được đến chỗ chúng tôi.

“Tất cả những điều này là do cô tưởng tượng ra sao?” Tôi hỏi.

“Một cách vô thức thôi, nhưng tất cả đều thật hợp lý. Giống như một giấc mơ mà ta vẫn nhớ mang máng.”

Tôi nhìn về hướng các khu dân cư phía bắc, nơi lẽ ra sẽ có Quảng trường Logan.

Trông nó không giống khu nhà tôi chút nào.

Cách tôi vài bước chân, có một ông già đứng sau lưng vợ, hai bàn tay xương xẩu đặt trên hai vai bà lão khi bà mải nhìn qua kính viễn vọng hướng về phía vòng đu quay phi thường nhất mà tôi từng thấy. Nó cao đến ba trăm mét, lừng lững phía trên bờ hồ, ngay tại bến tàu Navy Pier.

Tôi nghĩ đến Daniela.

Đến những gì mà gã Jason kia - Jason2 - có thể đang làm vào lúc này.

Những gì hắn có thể đang làm với vợ tôi.

Nỗi tức giận, sợ hãi và nhớ nhà vây lấy tôi như một thứ dịch bệnh.

Thế giới này, dù hoành tráng đến đâu, cũng không phải là nhà tôi.

Nó thậm chí không hề giống một chút nào.

SỐ ỐNG THUỐC CÒN LẠI: BỐN MƯƠI HAI

Chúng tôi lại đi dọc hành lang tối tăm nằm trong khoảng không gian vô định này, tiếng bước chân vang vọng trong vô tận.

Tôi đang cầm đèn và cân nhắc xem nên viết gì vào cuốn sổ thì nhận thấy Amanda dừng bước.

“Có chuyện gì à?” Tôi hỏi.

“Anh nghe đi.”

Ở đây yên lặng đến nỗi tôi có thể nghe thấy nhịp tim của mình ngày một nhanh hơn.

Và rồi - một điều bất khả thi xảy ra.

Có tiếng động.

Từ tít đầu kia của hành lang.

Amanda nhìn tôi.

Cô thì thào: “Cái quái gì thế?”

Tôi nhìn vào trong bóng tối.

Không có gì để nhìn ngoài thứ ánh sáng yếu ớt của cây đèn hắt lên những bức tường lặp đi lặp lại.

Tiếng động mỗi lúc một lớn hơn.

Đó là tiếng bước chân kéo lê.

Tôi nói: “Ai đó đang đến đây.”

“Sao có thể như vậy được?”

Bóng người chuyển động tiến dần vào trong quầng sáng của cây đèn.

Một bóng người đang tiến về phía chúng tôi.

Tôi lùi lại một bước, và khi người đó lại gần hơn, tôi định bỏ chạy, nhưng tôi biết chạy đi đâu đây?

Thôi thì cứ đành đối diện với họ.

Đó là một người đàn ông.

Anh ta trần truồng.

Da của anh ta dính đầy bùn, bụi bẩn hoặc là...

Máu.

Chắc chắn là máu.

Anh ta đầy mùi máu.

Như thể vừa lăn lộn trong một bể máu.

Tóc của anh ta dính bết, những vết bẩn trên mặt đóng thành lớp dày đến nỗi lòng trắng trong mắt anh ta nổi bật lên trong bóng tối.

Tay anh ta run run, và những ngón tay quắp chặt lại, như thể anh ta đã bám víu một cách tuyệt vọng vào thứ gì đó.

Khi chỉ còn cách chúng tôi chừng ba mét, tôi nhận ra người đàn ông đó chính là tôi.

Tôi tránh khỏi lối đi của anh ta, dựa lưng vào bức tường gần nhất để nhường cho anh ta không gian rộng nhất có thể.

Khi loạng choạng bước qua chỗ chúng tôi, mắt anh ta nhìn xoáy vào mắt tôi.

Tôi còn không chắc anh ta có nhìn thấy tôi không.

Trông anh ta có vẻ đang bị sốc hậu sang chấn.

Đôi mắt nhìn trống rỗng.

Như vừa bước ra khỏi địa ngục.

Những mảng da thịt trên vai và lưng của anh ta đã bị xé toạc ra.

Tôi hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra với anh?”

Anh ta dừng lại và nhìn tôi chằm chằm, rồi anh ta há miệng và thốt ra thứ âm thanh hãi hùng nhất tôi từng nghe - một tiếng hét từ cổ họng không lành lặn.

Khi tiếng hét của anh ta dội lại, Amanda túm lấy cánh tay tôi mà kéo tôi đi.

Anh ta không đuổi theo.

Chỉ nhìn chúng tôi bỏ đi, và tiếp tục lê bước dọc hành lang.

Vào trong bóng tối vô tận.

Ba mươi phút sau, tôi đang ngồi trước một cánh cửa trông giống hệt những cánh cửa còn lại, cố gắng xua đi những hình ảnh vừa nhìn thấy trong hành lang cùng những cảm xúc đi kèm ra khỏi tâm trí.

Tôi lấy một cuốn sổ ra từ ba lô, mở nó ra cùng cây bút sẵn sàng trong tay.

Tôi còn không phải suy nghĩ nhiều.

Tôi chỉ viết một câu đơn giản:

Tôi muốn về nhà.

Tôi tự hỏi: Đây có phải những gì Chúa cảm thấy không? Thứ cảm xúc ập đến từ việc biến một thế giới theo đúng nghĩa đen trở thành hiện thực. Tất nhiên thế giới này đã tồn tại sẵn, nhưng tôi đã kết nối chúng tôi với nó. Trong tất cả các hiện thực khả thi, tôi đã tìm thấy thế giới này, và ít nhất khi nhìn từ ô cửa này, nó đích xác là thứ tôi muốn.

Tôi bước xuống, những mảnh kính vỡ vụn trên mặt sàn bê tông phía dưới giày của tôi. Ánh sáng ban chiều chiếu qua những khung cửa sổ trên cao, rọi xuống một hàng máy phát điện bằng sắt từ một thời đại khác.

Dù chưa bao giờ nhìn thấy nó vào ban ngày, tôi nhận ra căn phòng này.

Lần cuối cùng tôi ở đây, mặt trăng giữa mùa thu đang mọc lên trên hồ Michigan, tôi đang ngồi dựa vào một trong những chiếc máy cổ lỗ sĩ vô dụng này, bị đánh thuốc mê và đang nhìn chằm chằm vào một người đàn ông đeo mặt nạ geisha, kẻ đã dùng súng ép tôi đi vào nhà máy điện bị bỏ hoang này.

Nhìn chằm chằm vào chính tôi, dù lúc ấy tôi chưa biết đến việc này.

Lúc đó tôi chẳng hề tưởng tượng nổi hành trình vừa qua.

Thứ địa ngục đã đón chờ tôi tiếp sau đấy.

Chiếc hộp đang nằm ở một góc xa của phòng máy phát điện, khuất sau cầu thang.

“Thế nào?” Amanda hỏi.

“Tôi nghĩ tôi đã thành công. Đây là nơi cuối cùng tôi thấy trước khi thức dậy trong thế giới của cô.”

Chúng tôi tìm đường ra khỏi nhà máy điện vô chủ này.

Phía bên ngoài, mặt trời vẫn chưa tắt.

Nó đang hạ dần về phía chân trời.

Đang là chiều muộn, và âm thanh duy nhất tôi nghe được là tiếng kêu đơn độc của những con mòng biển đang bay trên mặt hồ.

Chúng tôi đi về phía tây, vào các khu dân cư ở Nam Chicago, men theo vệ đường như một cặp đôi vô gia cư.

Quang cảnh thành phố phía xa thật quen thuộc. Đó là thành phố mà tôi biết và hằng yêu mến.

Hoàng hôn tiếp tục buông xuống, và chúng tôi đã đi bộ được hai mươi lăm phút thì tôi nhận ra rằng chúng tôi chưa nhìn thấy một chiếc xe nào trên đường.

“Có vẻ yên lặng quá nhỉ?” Tôi cất tiếng hỏi.

Amanda nhìn tôi.

Lúc ở khu công nghiệp bỏ hoang gần hồ, tôi không để ý đến sự tĩnh lặng này.

Nhưng ở đây, nó khiến tôi phải giật mình.

Không có xe cộ nào trên đường.

Không có một bóng người.

Ở đây yên tĩnh đến nỗi tôi nghe được tiếng dòng điện chạy trong các đường dây điện phía trên chúng tôi.

Nhà ga phố 87 đã đóng cửa, không có xe buýt hay tàu hỏa nào chạy qua.

Dấu hiệu duy nhất của sự sống là một con mèo hoang màu đen có cái đuôi xoắn lại, đi vất vơ trên đường, miệng ngậm một con chuột chết.

Amanda nói: “Có lẽ chúng ta nên quay trở lại hộp.”

“Tôi muốn nhìn thấy nhà của tôi.”

“Có gì đó không ổn ở đây, Jason. Anh không cảm nhận được sao?”

“Ta sẽ không học được cách sử dụng chiếc hộp nếu không tìm hiểu những nơi mà nó đưa chúng ta đến.”

“Nhà anh ở đâu?”

“Quảng trường Logan.”

“Ta không đi bộ đến đó được.”

“Vậy thì ta sẽ mượn một chiếc xe.”

Chúng tôi băng qua phố 87 và đi bộ qua một dãy toàn những căn nhà liền kề đã xuống cấp. Đã nhiều tuần qua, không có xe đến thu gom rác. Rác ở khắp mọi nơi. Những túi rác bẩn thỉu, bị cào rách chất thành từng đống lớn dọc vỉa hè.

Nhiều cửa sổ đã bị bịt kín.

Một số được phủ bằng những tấm nhựa.

Hầu hết các cửa sổ đều treo những mảnh vải.

Một số màu đỏ.

Và một số màu đen.

Tiếng đài phát thanh và ti vi vọng ra từ một vài ngôi nhà.

Tiếng khóc của một đứa trẻ.

Nhưng ngoài ra, khu nhà này im lặng một cách đáng ngại. Đi đến giữa dãy nhà thứ sáu, Amanda hô to: “Tìm được rồi!”

Tôi băng qua đường về phía một chiếc Oldsmobile Cutlass Ciera[47] sản xuất vào giữa những năm 90.

Màu trắng. Viền xe đã gỉ. Không có nắp đậy trục bánh xe.

Qua lớp kính mờ bụi, tôi thoáng thấy một cặp chìa khóa vẫn treo lủng lẳng trong ổ.

Tôi kéo cánh cửa bên ghế lái mở ra và ngồi vào sau tay lái.

“Anh định làm việc này thật sao?” Amanda hỏi.

Tôi khởi động máy trong khi cô leo vào ghế cạnh ghế lái.

Còn khoảng một phần tư bình xăng.

Có lẽ là đủ.

Kính chắn gió bẩn đến nỗi phải mất mười giây phun nước và gạt liên hồi mới cạo sạch được bụi bẩn và lá cây dính chặt vào lớp kính.

Đường cao tốc liên bang không một bóng người.

Tôi chưa từng chứng kiến điều gì như thế.

Cả hai làn đường đều trống trơn trước mắt tôi.

Đã là xế chiều, và mặt trời lấp lánh phía sau Tháp Willis[48].

Tôi tăng tốc về hướng bắc, mỗi đoạn đường trôi qua, ruột tôi càng quặn thắt lại.

Amanda nói: “Hãy quay lại thôi. Tôi nói nghiêm túc đấy. Rõ ràng có gì đó rất không ổn ở đây.”

“Nếu gia đình tôi ở đây thì chỗ của tôi là ở bên cạnh họ.”

“Làm sao anh biết đây là Chicago của anh được chứ?”

Cô bật radio và dò qua một lượt tần sóng FM cho đến khi âm thanh cảnh báo quen thuộc của Hệ thống Cảnh báo Khẩn cấp ré lên qua loa.

Tin nhắn sau đây được phát theo yêu cầu của Sở Cảnh sát bang Illinois. Lệnh giới nghiêm hai mươi tư giờ vẫn có hiệu lực trong quận Cook. Tất cả cư dân được yêu cầu ở trong nhà của họ cho đến khi có thông báo mới. Lực lượng Vũ trang Quốc gia Mỹ sẽ tiếp tục theo dõi sự an toàn của tất cả các khu phố, cung cấp khẩu phần thực phẩm và phương tiện vận chuyển đến Khu vực Cách ly của Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch.

Trên các làn đường hướng về phía nam, một đoàn xe gồm bốn chiếc Humvee[49] đi vượt qua chúng tôi.

Nguy cơ nhiễm bệnh vẫn còn cao. Các triệu chứng ban đầu bao gồm sốt, đau đầu dữ dội, và đau cơ. Nếu bạn tin rằng bạn hoặc bất kỳ ai trong gia đình bị nhiễm bệnh, hãy treo một mảnh vải màu đỏ ngoài cửa sổ hướng ra đường. Nếu bất cứ ai trong nhà bạn đã chết, hãy treo một mảnh vải màu đen ngoài cửa sổ hướng ra đường.

Nhân viên Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch sẽ hỗ trợ ngay khi có thể.

Hãy theo dõi để biết thêm chi tiết.

Amanda nhìn tôi.

“Sao anh không quay xe lại?”

Không có chỗ đậu ở khu nhà của tôi, nên tôi để xe ở giữa đường và động cơ vẫn đang chạy.

“Anh mất trí rồi!” Amanda nói.

Tôi chỉ về phía ngôi nhà đá nâu có một chiếc váy đỏ và áo len đen treo ở cửa sổ phòng ngủ chính.

“Đó là nhà tôi, Amanda.”

“Hãy nhanh lên. Và nhớ giữ an toàn cho mình nhé.”

Tôi bước ra khỏi xe.

Xung quanh rất yên tĩnh, đường phố buồn tẻ trong ánh hoàng hôn.

Khi đi hết một dãy nhà, tôi thoáng thấy những bóng người nhợt nhạt đang lê bước giữa đường.

Tôi tiến sát vào lề đường.

Các đường dây điện đều yên lặng, ánh sáng phát ra từ bên trong những ngôi nhà yếu ớt hơn bình thường.

Đó là ánh nến.

Khu phố của tôi không có điện.

Leo lên những bậc thang dẫn đến cửa trước, tôi nhìn qua cửa sổ lớn chiếu thẳng vào phòng ăn.

Bên trong thật tối tăm và u ám.

Tôi gõ cửa.

Một lúc lâu sau, có bóng người đi ra từ trong bếp, chầm chậm bước qua bàn ăn về phía cửa trước.

Miệng tôi khô khốc.

Tôi không nên ở đây.

Đây thậm chí không phải là nhà của tôi.

Chiếc đèn chùm không giống nhà tôi.

Và cả bức tranh của Van Gogh ở trên lò sưởi.

Tôi nghe tiếng ba chốt cửa bật ra.

Cánh cửa nhích ra vài phân, và một luồng khí từ bên trong lọt ra ngoài, mang theo thứ mùi không giống với nhà tôi chút nào.

Chỉ toàn mùi của bệnh tật và cái chết.

Daniela run rẩy cầm một cây nến trong tay.

Ngay cả trong thứ ánh sáng vàng vọt này, tôi cũng có thể thấy khắp làn da trần của cô đều có những cục sưng bướu.

Đôi mắt cô tối đen.

Chúng bị xuất huyết.

Chỉ còn chừa lại chút lòng trắng.

Cô cất tiếng gọi: “Jason!” Giọng của cô rất khẽ. Nước mắt chảy ra từ đôi mắt cô. “Ôi chúa ơi! Có phải là anh không?”

Cô mở rộng cửa và lảo đảo bước về phía tôi, chân cô đi không vững.

Thật đau đến xé lòng khi ta thấy khiếp sợ chính người mà ta yêu.

Tôi lùi lại một bước.

Cảm nhận được nỗi sợ của tôi, cô cũng dừng lại.

“Sao chuyện này có thể là thật được?” Giọng cô khàn khàn. “Anh chết rồi cơ mà.”

“Em đang nói gì thế?”

“Một tuần trước, họ đã mang anh ra khỏi đây trong một cái túi đựng xác đầy máu.”

“Charlie đâu?” Tôi hỏi.

Cô lắc đầu, và nước mắt tuôn thành dòng trên má. Cô ho ra một bụm máu lên cánh tay.

“Nó chết rồi sao?” Tôi hỏi.

“Chưa ai đến đưa nó đi. Nó vẫn đang ở trên phòng. Nó đang chết rữa trên đó, Jason.”

Được một lát, cô bị mất thăng bằng gục vào khung cửa.

“Anh có thật không vậy?” Cô hỏi.

Tôi có thật không ư?

Câu hỏi hay đấy!

Tôi không nói nên lời.

Họng tôi nghẹn ứ lại trước nỗi đau.

Nước mắt tôi bắt đầu trào dâng.

Dù rất thương cô, có một sự thật kinh khủng là tôi cũng rất sợ cô, bản năng tự bảo toàn trong tôi co rúm lại vì khiếp sợ.

Amanda gọi với ra từ trong xe: “Có người đến đấy!”

Tôi ngước nhìn ra con phố, thấy một cặp đèn pha đang lừ lừ tiến lại gần trong bóng tối.

“Jason, tôi sẽ bỏ anh lại đây đấy!” Amanda hét lên.

“Ai vậy?” Daniela hỏi.

Tiếng gầm động cơ đang đến gần nghe như tiếng máy chạy bằng diesel.

Amanda đã đúng. Lẽ ra tôi nên quay lại ngay khi tôi nhận ra nơi này có thể nguy hiểm nhường nào.

Đây không phải là thế giới của tôi.

Tuy nhiên, trái tim tôi vẫn chăm chắm hướng lên tầng hai, trong phòng ngủ, nơi một phiên bản nào đó của con trai tôi đang nằm yên giấc ngàn thu.

Tôi muốn lao lên đó và bế thằng bé ra ngoài, nhưng tôi biết làm vậy thì tôi sẽ chết.

Tôi leo xuống bậc thềm, tiến ra lòng đường khi thấy một chiếc Humvee dừng lại tại một điểm đỗ trên phố, cách đầu xe của chúng tôi hơn ba mét - chiếc xe chúng tôi đã “mượn tạm” ở vùng phía nam thành phố.

Thân xe dính đầy phù hiệu khác nhau của Hội Chữ thập đỏ, Lực lượng Vũ trang Quốc gia, Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch.

Amanda ngó ra ngoài cửa sổ.

“Cái quái gì thế, Jason?”

Tôi gạt tay lau nước mắt.

“Con trai tôi đã chết trong đó. Còn Daniela thì sắp chết.”

Cửa cạnh ghế lái của chiếc Humvee mở ra, một người mặc đồ chống độc sinh học màu đen cùng mặt nạ phòng độc bước ra và chĩa khẩu súng trường về phía tôi.

Giọng nói phía sau chiếc mặt nạ là của một người phụ nữ.

Cô ta nói: “Dừng ngay đó.”

Tôi giơ tay lên theo bản năng.

Tiếp theo, cô ta xoay hướng súng về phía kính chắn gió của chiếc xe Cutlass Ciera và bước về phía nó.

Cô ta nói với Amanda: “Tắt động cơ đi.”

Amanda vươn người qua hộp cần số và tắt máy xe trong khi người lái chiếc Humvee bước ra ngoài.

Tôi vẫy tay ra hiệu cho Daniela, cô ấy đang đứng trên hiên nhà, đôi chân không còn trụ vững.

“Vợ tôi ốm nặng lắm. Còn con trai tôi đã chết ở trên lầu.”

Người lái xe chăm chú quan sát mặt tiền của ngôi nhà đá nâu qua lớp mặt nạ.

“Anh đã treo vải theo hướng dẫn. Sẽ có người đến đây...”

“Cô ấy cần được chăm sóc y tế ngay bây giờ.”

“Đây có phải là xe của anh không?”

“Phải.”

“Anh đang định đi đâu?”

“Tôi chỉ muốn đưa vợ tôi đi tìm sự trợ giúp. Có bệnh viện nào hay...”

“Anh hãy đợi ở đây.”

“Xin anh đấy!”

“Chờ đấy!” Anh ta quát lên.

Người lái xe bước lên vỉa hè và leo lên cầu thang về phía Daniela, cô ấy đang ngồi trên bậc cao nhất, tựa người vào lan can.

Anh ta quỳ xuống trước mặt cô, và dù tôi nghe thấy giọng anh ta, tôi cũng không nghe rõ anh ta nói gì.

Người phụ nữ cầm súng vẫn canh chừng tôi và Amanda.

Bên kia đường, tôi thấy ánh lửa bập bùng hắt qua cửa sổ khi một trong những người hàng xóm ngó xem chuyện gì đang diễn ra trước cửa nhà tôi.

Người lái xe đã quay lại.

Anh ta nói: “Nghe này, các khu cách ly của Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch đang quá tải. Từ hai tuần nay rồi. Và anh có đưa cô ấy đến đó thì cũng không giải quyết được gì. Một khi mắt đã xuất huyết, cái kết sẽ đến nhanh thôi. Tôi không biết anh thế nào, nhưng tôi thà chết trên giường của mình hơn là trên võng trong lều của FEMA[50] đầy những người chết và sắp chết xung quanh.” Anh ta ngoái nhìn về đằng sau. “Nadia, cô đưa anh này một vài bộ tiêm tự động được chứ? Và một chiếc mặt nạ nữa.”

Cô ta nói: “Mike.”

“Cứ làm như tôi nói đi.”

Nadia đi ra phía sau chiếc Humvee và mở cốp xe.

“Vậy là cô ấy sắp chết sao?”

“Tôi rất tiếc.”

“Còn bao lâu nữa?”

“Tôi sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu cô ấy sống được đến sáng.”

Daniela rên rỉ trong bóng tối phía sau tôi.

Nadia đã trở lại, dúi năm mũi tiêm tự động vào tay tôi cùng với một chiếc mặt nạ.

Người lái xe nói: “Hãy đeo mặt nạ mọi lúc, mọi nơi, và tôi biết việc này rất khó, nhưng hãy cố gắng không chạm vào cô ấy.”

“Đây là cái gì”? Tôi hỏi.

“Morphine. Nếu anh tiêm cả năm mũi cho cô ấy cùng một lúc, cô ấy sẽ từ từ lịm đi. Nếu là tôi thì tôi sẽ không chần chừ đâu. Tám tiếng cuối cùng là đau đớn nhất.”

“Cô ấy không còn cơ may nào sao?”

“Không.”

“Thuốc chữa bệnh ở đâu?”

“Sẽ không kịp có thuốc để cứu lấy thành phố này đâu.”

“Họ cứ để người ta chết trong nhà vậy sao?”

Anh ta quan sát tôi từ sau chiếc mặt nạ.

Lớp kính che mặt đã được phủ màu.

Tôi còn không thể nhìn thấy mắt anh ta.

“Nếu anh tìm cách bỏ trốn và rẽ vào nhầm một dãy phố khác, họ sẽ giết anh đấy. Đặc biệt là khi trời đã tối.”

Anh ta quay đi.

Tôi nhìn họ trèo vào trong chiếc Humvee, nổ máy và đi khuất khỏi khu nhà.

Mặt trời đã lặn xuống dưới đường chân trời.

Con phố đang tối dần.

Amanda nói: “Ta nên đi ngay thôi.”

“Chờ tôi một giây.”

“Cô ấy có thể lây bệnh cho anh.”

“Tôi biết điều ấy chứ.”

“Jason...”

“Cô ấy là vợ tôi đấy.”

“Không, đó chỉ là một phiên bản của vợ anh, và nếu anh bị lây bệnh từ cô ấy, anh sẽ không bao giờ được gặp lại người vợ thực sự của mình nữa.”

Tôi đeo mặt nạ và leo lên những bậc thềm dẫn tới hiên trước.

Daniela ngước nhìn lên khi tôi đến gần.

Khuôn mặt đã bị hủy hoại của cô khiến tim tôi đau nhói.

Cô đã nôn máu và mật đen ra đầy người.

“Họ sẽ không tiếp nhận em sao?” Cô hỏi.

Tôi lắc đầu.

Tôi những muốn ôm lấy cô và an ủi.

Nhưng tôi cũng muốn bỏ chạy khỏi cô.

“Không sao đâu.” Cô nói. “Anh không cần vờ như mọi chuyện sẽ ổn. Em đã chuẩn bị tinh thần rồi.”

“Họ đưa cho anh những thứ này.” Tôi nói và chìa các ống tiêm tự động ra.

“Đây là gì?”

“Một cách để chấm dứt những cơn đau này.”

“Em đã nhìn anh chết trên giường của chúng ta.” Cô nói. “Em cũng đã chứng kiến con trai chúng ta chết trên giường của nó. Em không bao giờ muốn vào lại ngôi nhà này. Trong tất cả những cách mà cuộc đời em có thể diễn ra, em không bao giờ nghĩ nó lại diễn ra như thế này.”

“Cuộc đời em không diễn ra như thế này. Đây chỉ là cách mà nó kết thúc thôi. Em đã sống một cuộc đời rất đẹp.”

Cây nến rơi khỏi tay cô và lụi tắt trên nền bê tông, từ bấc nến bốc lên một làn khói.

Tôi nói: “Nếu anh tiêm cho em tất cả những mũi này cùng một lúc, chuyện này sẽ kết thúc. Đó có phải là điều mà em muốn không?”

Cô gật đầu, nước mắt và máu cùng chảy dài trên má cô.

Tôi gỡ nắp màu tím của một trong những ống tiêm tự động ra, đặt đầu kim tiêm chĩa vào đùi cô và từ từ nhấn đầu pít tông.

Daniela thậm chí còn không phản ứng gì khi ống tiêm tự động bắn một liều morphine vào cơ thể cô.

Tôi mở bốn ống tiêm còn lại và liên tiếp tiêm cho cô.

Tác dụng của thuốc gần như tức thì.

Cô tựa người vào lan can bằng thép hàn, và đôi mắt đen của cô đục lại khi thuốc bắt đầu phát tác.

“Em thấy đỡ hơn chưa?” Tôi hỏi.

Cô gần như mỉm cười, rồi nói những lời lúng búng trong miệng. “Em biết em chỉ đang nhìn thấy ảo giác, nhưng anh là thiên thần của em. Anh đã trở lại với em. Em rất sợ phải chết một mình trong ngôi nhà đó.”

Hoàng hôn tối sẫm lại.

Những ngôi sao đầu tiên đã xuất hiện trên nền trời đen ghê rợn của thành phố Chicago.

“Em thấy... khá lơ mơ.” Cô nói.

Tôi nhớ đến những buổi tối chúng tôi ngồi cùng nhau ở hiên nhà này. Uống rượu, cười đùa, châm chọc những vị hàng xóm đi ngang qua trong lúc những ngọn đèn đường dọc con phố sáng nhấp nháy.

So với thời khắc này, thế giới của tôi dường như thật an toàn và hoàn hảo. Giờ thì tôi nhận ra tôi đã không biết trân trọng những điều đó. Thế giới đó thật tươi đẹp, trong khi nó đã có thể lụi tàn theo rất nhiều cách.

Daniela cất tiếng: “Ước gì anh có thể chạm vào em, Jason.”

Giọng cô đã khàn đục và vụn vỡ, chỉ như một lời thầm thì.

Mắt cô đã nhắm lại.

Mỗi nhịp thở của cô chỉ còn kéo dài chừng một hoặc hai giây.

Cho đến khi hơi thở của cô ngưng hoàn toàn.

Tôi không muốn bỏ lại cô ngoài này, nhưng tôi biết mình không nên chạm vào cô.

Tôi đứng dậy, bước về phía cửa và vào trong nhà. Ngôi nhà yên tĩnh và tối tăm, sự hiện diện của thần chết cứ bám lấy tôi.

Tôi đi ngang qua những bức tường phòng ăn được nến chiếu sáng, qua căn bếp, vào phòng làm việc. Sàn nhà bằng gỗ cứng kêu kẽo kẹt dưới bước chân tôi - âm thanh duy nhất trong ngôi nhà.

Ở chân cầu thang, tôi đứng và nhìn lên khoảng không tối om của tầng hai, nơi con trai tôi đang nằm trên giường thi thể đang dần thối rữa.

Tôi cảm thấy cơn thôi thúc phải đi lên đó, như lực hút không thể cưỡng lại của một hố đen.

Nhưng tôi đã chống cự lại nó.

Tôi vớ lấy cái chăn vắt trên ghế xô pha, mang ra ngoài và phủ lên thi thể của Daniela.

Rồi tôi đóng cánh cửa nhà và bước xuống những bậc thềm, xa dần khỏi những cảnh tượng kinh hoàng kia.

Tôi vào xe và khởi động máy.

Tôi quay sang nhìn Amanda.

“Cảm ơn vì đã không bỏ tôi lại đây.”

“Lẽ ra tôi nên làm thế.”

Tôi lái xe đi.

Một vài khu vực của thành phố vẫn còn có điện.

Những khu vực khác đã chìm trong bóng tối.

Mắt tôi ầng ậng nước.

Tôi không nhìn rõ đường mà lái xe.

Amanda nói: “Jason, đây không phải là thế giới của anh. Đó không phải là vợ anh. Anh vẫn có thể về nhà và tìm họ.”

Về lý trí mà nói, tôi biết cô ấy đúng, nhưng về mặt tình cảm, điều đó khiến tôi đau xé lòng.

Việc yêu thương và bảo vệ người phụ nữ đó đã nằm trong máu của tôi.

Chúng tôi đang đi qua Bucktown.

Đằng xa, một tòa nhà thành phố cao hơn ba mươi mét đang bốc cháy trên nền trời.

Đường cao tốc liên bang tối và không một bóng xe.

Amanda với tay ra và gỡ mặt nạ của tôi xuống.

Mùi của chết chóc từ trong nhà tôi vẫn vương trong mũi tôi.

Tôi không thể loại bỏ nó ra khỏi đầu.

Tôi cứ nghĩ về Daniela, đang nằm chết dưới một tấm chăn trước hiên nhà của chúng tôi.

Khi chúng tôi đi qua khu phía tây của những con phố chính, tôi liếc ra ngoài cửa sổ.

Ánh sao chỉ đủ giúp tôi nhìn ra hình dáng các tòa tháp.

Chúng mang một màu đen vô hồn.

Amanda gọi tôi: “Jason!”

“Chuyện gì thế?”

“Có một chiếc xe đang bám theo chúng ta.”

Tôi nhìn vào tấm gương chiếu hậu.

Giữa con đường không có đèn, chiếc xe trông giống như một bóng ma bám sau lưng tôi.

Đèn pha chói lòa và đèn hai màu xanh đỏ được bật lên, những tia sáng rọi vào bên trong xe.

Một giọng nói vang lên qua loa phía sau chúng tôi: Hãy đỗ vào vệ đường.

Tôi bỗng dưng thấy hoảng loạn.

Chúng tôi không có đồ gì để tự vệ.

Chúng tôi cũng không thể cắt đuôi họ bằng chiếc xe cà tàng này.

Tôi buông chân ga và nhìn kim tốc độ xoay ngược chiều kim đồng hồ.

Amanda nói: “Anh định dừng lại à?”

“Phải.”

“Tại sao?”

Tôi đạp nhẹ chân phanh, khi tốc độ xe giảm dần, tôi tạt vào lề đường và cho xe dừng hẳn.

“Jason!” Amanda nắm lấy cánh tay tôi. “Anh đang làm gì vậy?”

Tôi nhìn qua chiếc gương chiếu hậu và thấy một chiếc SUV màu đen dừng lại phía sau chúng tôi.

Hãy tắt máy xe và thả chìa khóa ra ngoài cửa sổ.

“Jason!”

“Hãy tin tôi.”

Đây là cảnh báo cuối cùng. Hãy tắt máy xe và thả chìa khóa ra ngoài cửa sổ. Bất kỳ ý định bỏ chạy nào cũng sẽ bị xử lý bằng vũ khí chết người.

Trong vòng một kilomet đổ lại chỗ chúng tôi, có thêm nhiều ánh đèn pha xuất hiện.

Tôi đặt xe ở chế độ DỪNG ĐỖ và tắt hết đèn. Sau đó, tôi hạ kính cửa sổ xuống vài centimet, thò tay ra ngoài và vờ như đang thả một bộ chìa khóa xuống đất.

Cánh cửa ghế lái của chiếc SUV màu đen mở ra, và một người đàn ông đeo mặt nạ phòng độc bước ra, vũ khí đã sẵn trong tay.

Tôi gài số xe trở lại, bật đèn và nhấn mạnh chân ga.

Tôi nghe thấy tiếng súng nổ cùng lúc với tiếng động cơ gầm lên.

Một viên đạn vừa xuyên thủng kính chắn gió.

Rồi một viên khác.

Một viên đạn đã xoáy vào máy chạy băng cassette.

Ngoái nhìn lại, tôi thấy chiếc SUV giờ đã cách chúng tôi vài trăm mét.

Xe đang chạy ở tốc độ gần một trăm kilomet một giờ và tiếp tục tăng tốc.

“Ta còn cách lối ra bao xa?” Amanda hỏi.

“Khoảng chừng hai, ba kilomet.”

“Đã có thêm vài chiếc xe đang bám theo.”

“Tôi thấy rồi.”

“Jason, nếu họ bắt được chúng ta...”

“Tôi biết.”

Giờ thì tôi đang đi ở tốc độ ngoài một trăm bốn mươi kilomet một giờ, động cơ oằn mình để duy trì tốc độ, kim đồng hồ nhích dần sang vạch đỏ.

Chúng tôi vừa băng qua một biển chỉ dẫn cho biết lối ra khỏi đường cao tốc còn cách chúng tôi bốn trăm mét và nằm ở bên phải.

Với tốc độ này, chỉ sau vài giây, chúng tôi đã nhìn thấy nó.

Tôi rẽ vào đường dẫn ra ở tốc độ một trăm hai mươi kilomet một giờ và phanh gấp.

Không ai trong chúng tôi thắt dây an toàn.

Quán tính khiến Amanda văng mạnh vào hộp đựng đồ ở xe và đẩy tôi dúi dụi vào vô lăng.

Ở cuối đoạn đường dốc, tôi cua gấp về bên trái khi gặp biển báo dừng xe - lốp cao su chà trên mặt đường cháy khét lẹt. Amanda bị quăng về phía cửa, còn tôi thì suýt bay sang ghế ngồi của cô.

Khi lái xe qua cầu dẫn xuống từ cao tốc, tôi đếm được năm bộ đèn nhấp nháy trên đường cao tốc liên bang, chiếc SUV gần nhất hiện đang tăng tốc vào lối dẫn ra khỏi cao tốc với hai chiếc Humvee bám đằng sau.

Chúng tôi len lỏi qua những con phố trống trải của Nam Chicago.

Amanda rướn người về phía trước, nhìn qua kính chắn gió.

“Chuyện gì thế?” Tôi hỏi.

Cô ấy đang nhìn lên bầu trời.

“Tôi thấy ánh đèn ở trên đó.”

“Của máy bay trực thăng à?”

“Chính xác.”

Tôi phóng vọt qua những giao lộ trống trơn, qua ga tàu tốc hành đã đóng cửa. Sau đó chúng tôi rời khỏi khu ổ chuột, chạy dọc một dãy nhà kho và ga xe lửa bỏ hoang.

Chúng tôi băng qua những khu vực vắng vẻ của thành phố.

“Họ đến gần lắm rồi!” Amanda nói.

Một loạt đạn xả vào cốp xe tôi.

Tiếp theo là ba loạt đạn nối nhau nữa, nghe như ai đó đang dùng búa để nện vào kim loại.

Cô nói: “Đó là một khẩu súng máy.”

“Cô hãy nằm xuống sàn xe đi.”

Tôi có thể nghe thấy tiếng còi báo động tiến lại gần.

Chiếc xe cổ lỗ sĩ này không thích hợp cho những điều sắp tới.

Hai loạt đạn nữa xuyên qua cửa sổ và kính chắn gió phía sau.

Một loạt đạn xé toạc chiếc ghế Amanda ngồi.

Qua lớp kính bị bắn thủng lỗ chỗ, tôi thấy hồ đã ở ngay trước mặt.

Tôi nói. “Bám chắc vào, ta gần đến nơi rồi.”

Tôi cua phải thật gấp vào đường Pulaski Drive, và khi một bộ ba đạn găm vào cửa sau của xe, tôi tắt đèn xe.

Vài giây đầu tiên lái xe mà không có đèn pha, tôi có cảm giác như đang bay trong bóng tối.

Rồi mắt tôi bắt đầu điều tiết cho quen dần.

Tôi có thể thấy vỉa hè ở phía trước, bóng đen của các khối nhà xung quanh.

Ở đây, trời tối không kém gì ở vùng đồng quê.

Tôi ngừng đạp chân ga, nhưng cũng không nhấn chân phanh.

Ngoái nhìn lại, tôi thấy hai chiếc SUV vừa quẹo gấp vào đường Pulaski.

Ở phía trước, tôi nhận ra hai ống khói quen thuộc đang vươn lên bầu trời đầy sao.

Tốc độ của xe đã giảm xuống ba mươi dặm một giờ, và dù hai chiếc SUV đang tăng tốc, tôi không nghĩ đèn pha của họ rọi tới được chỗ chúng tôi.

Tôi đã thấy hàng rào.

Xe chúng tôi tiếp tục giảm tốc.

Tôi bẻ lái qua đường, khung sắt của xe đâm uỳnh vào cánh cổng đang bị khóa, tách hai cánh cửa mở toang ra.

Chúng tôi từ từ tiến vào bãi đậu xe, và khi tôi lái xe qua những cột đèn bị đổ, tôi ngoái nhìn lại về phía con đường.

Tiếng còi hụ ngày một to hơn.

Ba chiếc SUV vừa vụt chạy qua cổng, theo sau là hai chiếc Humvee có súng máy gắn trên nóc.

Tôi tắt máy xe.

Trong bầu không khí im lặng xung quanh, tôi lắng nghe tiếng còi báo động đi xa dần.

Amanda nhổm lên từ dưới sàn xe khi thấy tôi nhấc ba lô lên từ ghế sau.

Tiếng sập cửa xe vọng vào bức tường gạch của tòa nhà phía trước mặt.

Chúng tôi tiến về phía khu nhà đổ nát và tất cả những gì còn lại của tấm bảng hiệu ban đầu có đề chữ: TRẠM ĐIỆN.

Một chiếc trực thăng kêu ù ù phía trên đầu chúng tôi, ánh đèn pha rực rỡ quét qua bãi đậu xe.

Giờ thì tôi nghe thấy tiếng động cơ quay trở lại.

Một chiếc SUV màu đen vừa xoay ngang bánh phía bên kia đường Pulaski.

Đèn pha khiến chúng tôi lóa mắt.

Khi chúng tôi chạy về phía tòa nhà, giọng một người đàn ông qua loa phóng thanh yêu cầu chúng tôi dừng lại.

Tôi bước qua khe hở trên bức tường gạch, rồi giúp Amanda trèo vào trong.

Trong này tối như mực.

Tôi mở ba lô và nhanh nhẹn lục tìm cây đèn.

Ánh sáng chiếu vào quầy lễ tân đã bị tàn phá. Cảnh tượng nơi này trong bóng tối khiến tôi nhớ lại đêm đó với Jason2, khi anh ta gí súng vào đầu tôi và bắt tôi đi bộ trần truồng vào một phiên bản khác của tòa nhà cũ này.

Chúng tôi ra khỏi căn phòng đầu tiên, ánh đèn rọi vào trong bóng tối.

Đi tiếp dọc một hành lang.

Mỗi lúc một nhanh hơn.

Bước chân của chúng tôi nện xuống nền nhà đang mục rữa.

Mồ hôi chảy xuống mặt, làm cay mắt tôi.

Tim tôi đập mạnh đến nỗi lồng ngực tôi đau rát.

Tôi thở hổn hển.

Có tiếng người ở phía sau chúng tôi.

Tôi quay lại và thấy những tia laser xuyên qua bóng tối, những đốm sáng màu xanh từ những cặp kính bảo hộ nhìn được trong bóng đêm.

Tôi nghe thấy tiếng léo nhéo từ trong bộ đàm và tiếng cánh quạt máy bay bên ngoài bức tường.

Một loạt tiếng súng nổ trong hành lang, và chúng tôi nằm rạp xuống mặt đất cho đến khi tiếng súng dừng lại.

Chúng tôi lồm cồm đứng lên và khẩn trương đi tiếp.

Đến một ngã rẽ, tôi dẫn Amanda vào một hành lang khác. Tôi tin đây là lối đi đúng dù trong bóng tối này, không có điều gì là chắc chắn.

Cuối cùng chúng tôi cũng lên đến bục kim loại ở đầu cầu thang mở dẫn xuống phòng chứa máy phát điện.

Chúng tôi đi xuống.

Những người đuổi theo chúng tôi đã đến rất gần, tôi có thể nhận ra ba giọng nói riêng biệt vang vọng khắp hành lang cuối cùng.

Hai người đàn ông, một phụ nữ.

Tôi vừa nhấc chân khỏi bậc thang cuối cùng, còn Amanda ở ngay phía sau tôi khi có tiếng bước chân nặng nề giậm lên những bậc cầu thang phía trên chúng tôi.

Hai chấm đỏ nhấp nháy phía trước lối đi của tôi.

Tôi né sang một bên và tiếp tục chạy thẳng vào bóng tối phía trước, nơi tôi biết chiếc hộp đang ở đó.

Tiếng súng vang lên phía trên đầu chúng tôi khi hai bóng người mặc đồ bảo hộ sinh học nhào ra từ chân cầu thang, lao về phía chúng tôi.

Chiếc hộp chỉ còn cách chúng tôi mười lăm mét, cánh cửa mở ra và bề mặt kim loại nhẹ nhàng khuếch tán ánh sáng từ ngọn đèn của chúng tôi.

Có tiếng súng.

Tôi cảm thấy một thứ gì đó vừa sượt qua tai phải của tôi, như một con ong bắp cày vừa bay qua.

Một viên đạn lao vào cánh cửa, làm tóe lên tia lửa.

Tai tôi đau rát.

Một người đàn ông phía sau chúng tôi hét lên: “Không còn đường chạy nữa đâu!”

Amanda là người đầu tiên chui vào hộp.

Sau đó, tôi bước qua ngưỡng cửa, rồi quay lại và dùng vai đẩy cửa đóng vào.

Những người lính còn cách chúng tôi sáu mét, gần đến nỗi tôi có thể nghe thấy tiếng họ thở hổn hển phía sau mặt nạ phòng độc.

Họ nổ súng, những luồng sáng lóe lên chói mắt và những viên đạn găm vào lớp vỏ kim loại của chiếc hộp là điều cuối cùng tôi nhìn thấy ở thế giới ác mộng này.

Chúng tôi lập tức lao đi, sải bước dọc hành lang.

Sau một hồi, Amanda muốn dừng lại, nhưng tôi thì vẫn đi tiếp.

Tôi cần tiếp tục di chuyển.

Tôi đã đi suốt một tiếng đồng hồ.

Hết một liều tác dụng của thuốc.

Máu từ tai tôi chảy xuống đẫm quần áo.

Cho đến khi hành lang sụp đổ trở lại là một cái hộp duy nhất.

Tôi ném ba lô xuống sàn.

Thẫn thờ.

Người tôi nhớp nhúa do mồ hôi đã khô lại.

Amanda đang đứng ở giữa hộp, váy của cô lem bẩn và bục chỉ, áo len bị rách bươm trong lúc chúng tôi chạy xuyên qua nhà máy điện bị bỏ hoang.

Khi cô ấy đặt ngọn đèn lồng xuống sàn, có thứ gì đó trong tôi dâng trào.

Sức mạnh, sự căng thẳng, cơn giận dữ và nỗi sợ hãi.

Mọi thứ cùng ùa ra một lúc khiến nước mắt tôi tuôn như mưa và tôi thổn thức một cách mất kiểm soát.

Amanda tắt đèn đi.

Tôi ngả người vào bức tường lạnh lẽo, và cô kéo tôi vào lòng.

Những ngón tay cô vuốt vuốt tóc tôi.

SỐ ỐNG THUỐC CÒN LẠI: BỐN MƯƠI

Tôi tỉnh lại trong bóng tối như hũ nút, nằm nghiêng trên sàn, lưng dựa vào tường. Amanda đang nép sát vào người tôi, ôm lấy tôi, đầu cô tựa vào cánh tay tôi.

Tôi đói và khát.

Tôi tự hỏi tôi đã ngủ trong bao lâu.

Ít nhất tai tôi đã ngừng chảy máu.

Tôi không thể phủ nhận thực trạng bất lực rõ rành rành của chúng tôi.

Ngoài chính hai chúng tôi, chiếc hộp này là hằng số duy nhất chúng tôi có.

Một chiếc thuyền rất nhỏ ở giữa một đại dương rất lớn.

Nó là nơi trú ẩn của chúng tôi.

Nhà tù của chúng tôi.

Nhà của chúng tôi.

* * *

Tôi cẩn thận gỡ tay tôi khỏi đầu cô.

Tôi cởi áo hoodie ra, gấp nó thành một cái gối và chèn xuống dưới đầu của Amanda.

Cô khẽ cựa quậy nhưng không thức giấc.

Tôi mò mẫm sờ tay lên cửa, biết mình không nên mạo hiểm phá lệ. Nhưng tôi phải biết có gì ở ngoài kia, và nỗi sợ hãi bị giam giữ trong chiếc hộp đang đeo bám lấy tôi.

Tôi xoay tay cầm và từ từ kéo cửa ra.

Cảm nhận đầu tiên của tôi là mùi cây thường xanh.

Những vệt nắng chiếu xuống xuyên qua những tán cây thông được trồng cách đều nhau.

Cách tôi không xa, một con nai đứng bất động, nhìn chằm chằm vào chiếc hộp bằng đôi mắt đen và ướt.

Khi tôi bước ra ngoài, con nai lặng lẽ nhảy vọt đi qua những cây thông.

Khu rừng yên tĩnh đến khó tả.

Sương bám đầy trên thảm lá thông dưới chân tôi.

Tôi bước xa khỏi chiếc hộp một chút và ngồi trên một mô đất, đón lấy ánh ban mai ấm áp và rực rỡ chiếu xuống mặt tôi.

Một cơn gió bay ngang qua những ngọn cây.

Tôi thoáng ngửi thấy mùi gỗ cháy trong gió.

Từ một đám lửa trại chăng?

Hay một ống khói?

Tôi tự hỏi: Ai sống ở đây?

Thế giới này là như thế nào?

Tôi nghe thấy tiếng bước chân.

Ngoái nhìn lại, tôi thấy Amanda đang tiến về phía tôi qua những hàng cây, và tôi chợt thấy nỗi hối hận dâng lên trong lòng - tôi suýt nữa đã khiến cô ấy mất mạng ở thế giới vừa rồi. Cô ấy không chỉ ở đây do lỗi của tôi. Cô ấy ở đây vì đã cứu mạng tôi. Vì cô đã làm một việc thật dũng cảm và mạo hiểm.

Cô ngồi xuống cạnh tôi và hướng mặt về phía mặt trời.

“Anh ngủ ngon không?” Cô cất tiếng hỏi.

“Không hề. Cổ tôi đau như dần. Cô thì sao?”

“Ê ẩm cả người.”

Cô ghé sát vào và xem xét tai phải của tôi.

“Có tệ không?” Tôi hỏi.

“Không, viên đạn chỉ xén mất một phần dái tai. Tôi sẽ sát trùng cho anh.”

Cô đưa tôi một lít nước chúng tôi đã lấy từ thế giới Chicago tiến bộ kia, và tôi uống một hơi dài tưởng như không bao giờ dứt.

“Anh ổn chứ?” Cô hỏi.

“Tôi không thể ngừng nghĩ về cô ấy. Cái xác lạnh ngắt trên hiên nhà. Còn Charlie cũng nằm chết trên phòng. Chúng ta đã đi lạc quá xa rồi.”

Amanda nói: “Tôi biết điều này rất khó, nhưng câu hỏi anh nên nghĩ tới - cả hai chúng ta cùng nên nghĩ tới - đó là tại sao anh lại đưa chúng ta đến thế giới đó?”

“Tất cả những gì tôi viết là: “Tôi muốn về nhà”.”

“Chính xác. Đó là những gì anh viết, nhưng anh cũng mang theo bộn bề cảm xúc qua cánh cửa.”

“Ý cô là sao?”

“Điều đó còn chưa rõ ràng sao?”

“Rõ ràng là chưa.”

“Những nỗi sợ sâu thẳm nhất trong anh.”

“Đó không phải là viễn cảnh trong đầu tất cả chúng ta sao?”

“Có lẽ. Nhưng nó mang đậm dấu ấn của anh đến nỗi tôi ngạc nhiên khi thấy anh không nhận ra.”

“Sao nó lại mang đậm dấu ấn của tôi?”

“Không chỉ là nỗi sợ mất gia đình, mà còn mất họ vào tay dịch bệnh. Cũng giống như cách anh đã mất mẹ hồi anh tám tuổi.”

Tôi quay sang nhìn Amanda.

“Sao cô biết điều đó?”

“Anh nghĩ là vì sao?”

Tất nhiên rồi, cô ấy là bác sĩ tâm lý của Jason2.

Cô nói: “Chứng kiến mẹ mình qua đời là sự kiện ám ảnh cả cuộc đời anh ta. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc lý giải tại sao anh ta không bao giờ kết hôn, không bao giờ có con. Và cả tại sao anh ta chìm đắm trong công việc.”

Tôi tin lời cô. Đã có những lúc, cách đây đã lâu, tôi cân nhắc việc chạy trốn khỏi Daniela. Không phải vì tôi không yêu cô ấy, mà vì ở một mức độ nào đó, tôi sợ mất cô ấy. Và tôi cảm thấy sợ hãi y như vậy khi tôi phát hiện ra cô ấy đang mang thai Charlie.

“Tại sao tôi lại tìm đến một thế giới như vậy?”

“Sao con người ta lại kết hôn với một ai đó giống bà mẹ thích kiểm soát, hoặc ông bố không lúc nào có mặt ở nhà của mình? Để có cơ hội sửa lại những sai lầm trong quá khứ. Sửa lại những gì từng làm ta tổn thương khi còn nhỏ. Có lẽ khi nói như thế này, anh không cảm thấy hợp lý, nhưng tiềm thức con người có cách hoạt động riêng của nó. Tôi nghĩ thế giới kia đã dạy cho ta nhiều điều về cách vận hành của chiếc hộp.”

Tôi đưa chai nước lại cho cô và nói: “Bốn mươi.”

“Bốn mươi gì cơ?”

“Chỉ còn bốn mươi ống thuốc. Một nửa trong số đó là của cô. Vậy là mỗi người trong chúng ta có hai mươi cơ hội để tìm ra điều ta muốn. Cô muốn làm gì?”

“Tôi không chắc. Tất cả những gì tôi biết vào thời điểm này là tôi sẽ không quay trở lại thế giới của mình.”

“Cô có muốn cùng nhau đi tiếp không, hay cô muốn từ biệt từ đây?”

“Tôi không biết anh cảm thấy thế nào, nhưng tôi nghĩ chúng ta vẫn cần nhau. Tôi nghĩ có lẽ tôi có thể giúp anh về nhà.”

Tôi dựa lưng vào thân cây thông, một cuốn sổ mở ra trên đầu gối, tôi đang suy nghĩ rất lung.

Việc này thật là kỳ lạ khi ta cố gắng biến một thế giới trong tưởng tượng trở thành sự thật mà không dùng gì khác ngoài những từ ngữ, ý định và mong muốn.

Đây cũng là một nghịch lý khiến tôi đau đầu - tôi có toàn quyền kiểm soát, nhưng chỉ khi tôi có thể kiểm soát toàn bộ bản thân mình.

Cảm xúc của tôi.

Những vật lộn nội tâm.

Những cỗ máy bí mật đang điều khiển tôi.

Nếu có vô số thế giới trong đa vũ trụ này, làm thế nào tôi tìm được thế giới duy nhất, đích thực của riêng tôi?

Tôi nhìn chằm chằm vào trang giấy và bắt đầu viết ra những chi tiết về Chicago mà tôi nhớ được. Tôi vẽ nên cuộc sống của tôi bằng từ ngữ.

Tiếng trẻ con trong khu phố của tôi cùng nhau đi bộ đến trường, giọng của chúng nghe như tiếng suối chảy trên những ngọn núi - lanh lảnh và ríu rít.

Những hình vẽ graffiti trên tường gạch trắng mờ của một tòa nhà cách nhà tôi ba dãy, đẹp đến nỗi không ai phủ sơn lên nó nữa.

Tôi suy ngẫm về những chi tiết trong nhà tôi.

Bậc thứ tư trên cầu thang lúc nào cũng kêu cót két.

Phòng tắm ở dưới nhà có vòi nước bị rò.

Mùi cà phê mới pha vào buổi sáng ở trong bếp.

Tất cả những chi tiết nhỏ bé, dường như vô nghĩa mà thế giới của tôi đang hoàn toàn bấu víu vào.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3