Pachinko - Chương 35
Tháng Mười năm 1961
Mozasu dựa người vào cây phong đối diện cửa hiệu của bà Totoyama, thân hình của cậu chỉ hơi bị thân cây che khuất. Đây là chỗ gặp nhau được định trước của họ. Ba tối một tuần, Mozasu gặp Yumi sau giờ làm. Trong hơn một năm qua, cậu đã cùng cô đến lớp học tiếng Anh tại nhà thờ, sau đó cậu đưa cô về phòng trọ, nơi cô làm cho họ bữa tối đơn giản. Thường thì họ làm tình trước khi Mozasu quay trở lại quán Thiên Đường 7, nơi cậu làm việc cho đến khi quán đóng cửa, trước khi cậu ngủ thiếp đi ở chỗ của mình tại phòng ngủ tập thể.
Bây giờ đã là tháng Mười và dù những cơn gió nhẹ của đầu buổi tối chưa làm mất đi sự ấm áp linh hoạt của mùa hè, nhưng những chiếc lá trên cây đã bắt đầu ngả vàng và trở nên lấp lánh. Cây phong cao ở phía trên đầu cậu tạo thành một lớp ren như kim loại được đánh bóng trên bầu trời mờ tối. Các công nhân và những người khác mặc đồng phục đang từ chỗ làm trở về nhà. Những đứa trẻ con thò đầu ra khỏi nhà để đón cha chúng. Trong năm qua, con đường nơi Totoyama có cửa hiệu mới đã được cải thiện, đông đúc hẳn lên với các gia đình chuyển tới những ngôi nhà bỏ hoang ở gần sông. Một người bán rau ở địa phương đã kinh doanh tốt tại địa điểm từng rất vắng vẻ, đến mức giờ đây ông có thể thuê cả một khu đất kề bên để em rể mình bán hàng khô. Hiệu bánh mới chuyên bán bánh xốp kiểu Bồ Đào Nha làm cả con phố đố tràn ngập mùi thơm hấp dẫn; nó đã có được sự nổi tiếng đáng kể ở Osaka để luôn có những khách hàng xếp hàng dài mỗi buổi sáng.
Các cô thợ may tại cửa hiệu của bà Totoyama làm việc muộn hơn thường lệ, vậy nên Mozasu tranh thủ học từ tờ giấy nhàu nhĩ liệt kê các từ mới được giao về nhà. Khi cậu còn đi học ở trường, cậu chưa bao giờ nghĩ nhiều về trí nhớ của mình, nhưng cậu nhận ra rằng mình có thể nhớ được các từ và các cụm từ tiếng Anh rất tốt. Khả năng nhớ của cậu hữu ích cho việc gây ấn tượng với Yumi. Không giống hầu hết các cô gái thường quan tâm đến các món quà bằng tiền mặt, váy áo, hoặc đồ nữ trang rẻ tiền, bạn gái của Mozasu chỉ quan tâm đến việc học. Yumi dường như hạnh phúc nhất về cậu khi cậu trả lời đúng các câu hỏi khi giáo viên của họ, mục sư John Maryman, yêu cầu cậu trả lời. Yumi luôn muốn sống ở Mỹ, cô tin rằng mình phải học tiếng Anh thật giỏi nếu một ngày nào đấy sẽ đến sống ở đó.
Chỉ còn chút ít ánh sáng tự nhiên để đọc, nhưng khi bóng của một người đàn ông đi qua chỗ cậu, cậu không thể nhìn rõ những từ trên trang giấy. Nhận thấy tiếng giày lao động khoan thai của đàn ông cách mình vài bước chân, Mozasu ngẩng lên nhìn.
“Có lẽ nào bạn đang học ư, Mo? Thật không vậy?”
“Chào Haruki!”. Mozasu reo lên. “Là bạn đó ư? Mình không nhớ mình chưa gặp lại bạn từ khi nào!”. Cậu nắm tay bạn một cách nồng nhiệt và lắc. “Mình luôn hỏi thăm mẹ bạn về bạn đấy. Mẹ bạn thực sự tự hào về bạn. Với tính ít nói và lịch sự của bà Totoyama thì dường như không phải bà khoe khoang đâu. Nhìn bạn kìa! Haruki, ngài sĩ quan cảnh sát!”. Mozasu huýt gió trước bộ đồng phục học viên của Haruki. “Trông bạn thực sự nghiêm túc đấy. Khiến mình muốn phạm tội. Bạn sẽ không đem mình đi trình báo đâu, đúng không?”.
Haruki mỉm cười, đấm đùa vào vai Mozasu, cảm thấy bẽn lẽn khi ở bên người bạn học cũ. Thật khó để tránh Mozasu, nhưng Haruki đã làm vậy bởi vì tình cảm của cậu dành cho bạn quá nồng nhiệt. Trong những năm qua, cậu đã có những niềm say mê khác và các cuộc gặp gỡ với những người lạ. Gần đây, có một người bạn ở Học viện, cậu Koji, một chàng trai hóm hỉnh và mạnh mẽ khác. Cậu đã thôi không chơi với Mozasu nữa, nên Haruki đã cố gắng hết sức để tránh xa Koji, bởi vì cậu biết là nên kẻ một đường ranh giới thật đậm giữa những gì là công khai và những gì là riêng tư.
“Bạn đang làm cái quái gì ở khu vực này vậy? Bạn không sống gần Học viện sao?”
Haruki gật đầu. “Mình được nghỉ một tuần”.
“Vậy hả? Vậy khi nào bạn trở thành cớm? Mình muốn nói là một thanh tra cảnh sát ý”. Mozasu cười khùng khục, giả bộ cúi chào một cách trang trọng.
“Hai năm nữa”.
Nhìn thấy Mozasu ở cạnh cây phong, Haruki đã sợ băng qua đường. Chỉ riêng hình ảnh của cậu thôi đã quá mạnh. Khi còn bé, Haruki tôn thờ Mozasu, người đã cứu cậu khỏi sự khổ sở ở trường. Khi Mozasu bỏ học để làm việc cho ông Goro rồi mất hút trong công việc, Haruki cảm thấy nỗi mất mát tựa hồ như một cú đấm chí mạng vào ngực. Sau khi Mozasu đi làm ở các quán pachinko, những con cừu, phù thủy và những con ma cà rồng của trường họ xuất hiện ngay lập tức, buộc Haruki rút vào bất kỳ nơi ẩn náu nào có thể. Những lúc rảnh rỗi, cậu lấp đầy những cuốn sách bằng những bức vẽ bằng chì trong sự an toàn nơi căn phòng của cô giáo dạy mỹ thuật tốt bụng, ở nhà thì lúc nào cũng vậy. Em trai của cậu chẳng bao giờ lớn và mẹ cậu sẽ chẳng bao giờ có thể ngừng làm việc cho tới khi mắt bà không nhìn rõ nữa. Giáo viên mỹ thuật của cậu có chồng và các anh trai đều là thanh tra cảnh sát đã gợi ý Haruki thi vào Học viện Cảnh sát. Thật thú vị, cô giáo ấy đã không lầm. Haruki thích Học viện đó với các quy định và hệ thống cấp bậc của nó. Cậu làm những gì cậu được bảo phải làm và cậu đã làm rất tốt. Cũng dễ hơn khi bắt đầu lại ở một chỗ mới, nơi mà không ai biết bạn.
“Tại sao bạn lại đứng ở đây?”. Haruki hỏi. Mặt trời xuống rất thấp và màu vàng đỏ của hoàng hôn khiến cậu xúc động.
“Mình đang đợi Yumi. Cô ấy làm việc cho mẹ bạn. Dẫu vậy, chúng mình không cho ai biết chuyện của mình. Tất nhiên, mình không nghĩ mẹ bạn sẽ lo lắng. Mình đâu đến nỗi tệ lắm”.
“Mình sẽ không nói gì đâu”, Haruki nói, nghĩ rằng Mozasu đã trở nên hấp dẫn hơn. Cậu luôn thích vầng trán phẳng, cái mũi khỏe khoắn và hàm răng trắng đều tăm tắp của Mozasu, nhưng trong bộ com-lê của người quản lý, Mozasu trông giống một người đàn ông trưởng thành làm chủ cuộc đời mình. Haruki muốn theo gót cậu.
Các ô cửa sổ của hiệu may vẫn sáng đèn và các cô gái đang cắm cúi bên bàn làm việc. Mozasu có thể hình dung ra những ngón tay thon của Yumi lướt trên mặt vải. Khi cô tập trung vào công việc, không gì có thể khiến cô xao lãng. Cô làm gì cũng vậy và có thể cặm cụi làm một mình hàng giờ. Mozasu không thể tưởng tượng nổi việc cứ im lặng như vậy suốt toàn bộ thời gian; cậu có thể sẽ nhớ sự ồn ào của quán pachinko. Cậu yêu mọi chuyển động trong cái quán rộng, ồn ào mà cậu quản lý. Mục sư Tin Lành của cậu tin vào một mục đích thiêng liêng, còn Mozasu tin rằng cuộc đời cũng giống như trò chơi pachinko này, nơi mà người chơi có thể điều chỉnh các đĩa số, nhưng cũng mong chờ sự bất ngờ của các yếu tố mà anh ta không thể kiểm soát được. Cậu hiểu tại sao các khách hàng của mình lại muốn chơi trò gì đó có vẻ chắc chắn nhưng cũng có chỗ cho sự ngẫu nhiên và hy vọng.
“Bạn có nhìn thấy cô ấy không?”. Mozasu chỉ tay vẻ hãnh diện. “Đó! Cô ấy ở bàn thứ tư tính từ…”.
“Cô Yumi. Có, mình đã gặp cô ấy rồi. Cô ấy là một thợ may giỏi. Một người rất thanh lịch. Bạn may mắn đấy”, Haruki nói. “Công việc của bạn thế nào? Bạn giàu rồi phải không?”.
“Bạn nên ghé qua chỗ mình. Mình bây giờ làm ở quán Thiên Đường 7. Mai đến nhé. Mình ở đó cả ngày và gần như cả đêm, trừ những lúc mình gặp Yumi và đưa cô ấy đến lớp học tiếng Anh”.
“Mình không biết. Mình phải trông em khi mình ở nhà”.
“Mình nghe nói hồi này tinh thần của cậu ấy hơi kém”.
“Đó là lý do tại sao mình về nhà. Mẹ mình nói nó trở nên hơi khác lạ. Không gây rắc rối cho mẹ hay bất cứ điều gì, nhưng mẹ mình nói rằng nó càng ngày càng ít nói. Các bác sĩ không biết phải làm gì. Họ muốn nó đến sống ở một dưỡng trí viện. Họ nói sống với những người giống như nó có thể nó sẽ vui hơn, nhưng mình nghi ngờ điều đó. Những chỗ như vậy có thể…” Haruki thở dài. “Tất nhiên, mẹ mình sẽ chẳng bao giờ cho phép điều đó. Daisuke là đứa trẻ rất ngoan”. Haruki nói khẽ, biết rằng chừng nào cậu còn có thể nhớ được, Daisuke sẽ thuộc về trách nhiệm của cậu sau khi mẹ cậu không thể chăm sóc thằng bé được nữa. Haruki sẽ kết hôn với ai, điều đó phụ thuộc vào việc người ấy sẵn sàng đối xử tốt với Daisuke và bà mẹ già của cậu.
“Yumi nói rằng có lẽ sẽ tốt hơn cho em trai bạn nếu cậu ấy ở Mỹ. Còn nữa, cô ấy nghĩ mọi người đều nên sống ở Mỹ. Cô ấy nói cuộc sống ở đó không giống ở nước Nhật này, nơi mà một con người không thể khác biệt với những người khác”.
Mozasu nghĩ bạn gái của cậu có chiều hướng thích nước Mỹ và bất cứ thứ gì thuộc về nước Mỹ một cách phi lý. Giống như anh Noa của cậu, Yumi nghĩ tiếng Anh là ngôn ngữ quan trọng nhất và Mỹ là đất nước tuyệt vời nhất.
“Yumi nói ở Mỹ có những bác sĩ giỏi hơn”. Mozasu nhún vai.
“Điều đó có lẽ đúng”.
Haruki mỉm cười, thường ước rằng mình có thể sống ở một nơi khác, nơi cậu không quen biết bất cứ ai.
Khi Yumi bước tới chỗ hẹn gặp, cô nhận ra người con trai cả của bà chủ. Sẽ thật bất tiện nếu quay trở lại, vậy nên cô cứ tiếp tục bước tới.
“Em biết Haruki rồi đấy”, Mozasu mỉm cười nói với Yumi. “Cậu ấy là bạn học cũ của anh ở trường trung học. Và bây giờ cậu ấy sẽ đấu tranh chống tội phạm!”.
Yumi gật đầu, mỉm cười một cách không được thoải mái cho lắm.
“Cô Yumi. Thật vui gặp lại cô. Tôi biết ơn cô vì tôi được gặp lại bạn mình sau rất nhiều năm”.
“Anh từ Học viện về nhà phải không, Haruki?”. Yumi giữ cho thái độ của mình vừa trang trọng vừa từ tốn.
Haruki gật đầu, sau đó lấy cớ Daisuke đang đợi mình ở nhà. Tuy nhiên, trước khi rời khỏi chỗ họ, Haruki hứa sáng hôm sau sẽ đến quán pachinko thăm Mozasu.
•••
Lớp tiếng Anh của họ tập trung trong một phòng họp rộng thuộc khu văn phòng của nhà thờ mới dành cho người Hàn, được xây dựng gần đây nhờ khoản quyên tặng lớn từ một số gia đình kinh doanh thịt nướng giàu có. Mặc dù mang cái tên của người châu Âu, John Maryman, giáo viên của họ là một người Hàn được các nhà truyền giáo người Mỹ nhận làm con nuôi từ khi còn bé. Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất của ông. Với chế độ ăn chay ưu việt, giàu cả đạm và can-xi, John cao hơn đáng kể so với những người Hàn và người Nhật. Cao gần 1,8m, ông tạo ra sự rung chuyển mỗi khi ông bước đi, như thể một người khổng lồ từ trên trời giáng thế. Mặc dù nói tiếng Nhật và tiếng Hàn đều giỏi, ông nói cả hai ngôn ngữ này bằng giọng Mỹ. Ngoài chiều cao quá khổ, phong cách của ông rõ ràng là của người ngoại quốc. John thích trêu đùa những người mà ông không biết rõ và nếu có điều gì đó hài hước, thì ông cười lớn hơn hầu hết mọi người. Nếu không nhờ bà vợ người Hàn đầy kiên nhẫn, có khả năng cảm nhận rất nhạy các cảm xúc và bầu không khí xung quanh cũng như khả năng giải thích một cách khéo léo cho người khác hiểu rằng John không biết như thế là không nên, thì ông chắc hẳn đã gặp rắc rối thường xuyên hơn nhiều vì không ít lỗi sơ suất về văn hóa của ông. Đối với một mục sư Tin Lành, John dường như vui tính quá. Ông là một người đàn ông tốt, có đức tin và trí thông minh không thể chê vào đâu được. Mẹ của ông, Cythia Maryman, là người thừa kế hãng sản xuất lốp ô tô, đã gửi ông vào trường Princeton và trường Thần học Yale, rồi trước sự vui mừng của cha mẹ, ông trở về châu Á để truyền bá Phúc Âm. Màu da của ông giống màu ô-liu hơn màu bánh mật và đôi mắt đen luôn lộ vẻ kinh ngạc, mời mọc cánh phụ nữ nấn ná khi có sự hiện diện của ông.
Là một cô gái bình thường rất khó chinh phục, Yumi ngưỡng mộ thầy giáo của mình - người mà tất cả các học viên đều gọi là mục sư John. Đối với cô, John đại diện cho một người Hàn từ một thế giới tốt đẹp hơn, nơi những người Hàn không phải là đĩ điếm, những kẻ say xỉn hoặc trộm cắp. Mẹ của Yumi, một gái mại dâm và là một người nghiện rượu, ngủ với đàn ông vì tiền hoặc vì đồ uống, còn cha cô, một kẻ dắt gái và là một kẻ say xỉn hung bạo, bị bỏ tù như cơm bữa vì phạm tội. Yumi cảm thấy ba người chị cùng cha khác mẹ của mình đều sống buông thả về mặt tình dục và tầm thường như súc vật ở nông trại. Người em trai của cô chết từ khi còn nhỏ và chẳng bao lâu sau, ở tuổi mười bốn, Yumi bỏ nhà đi cùng với người chị gái và tự nuôi thân bằng những việc vặt trong các nhà máy dệt cho tới khi chị cô chết. Qua từng ấy năm, Yumi đã trở thành một thợ may xuất sắc. Cô từ chối nhận gia đình mình, những người sống trong các khu tồi tệ nhất của Osaka. Nếu Yumi phát hiện thấy một người đàn bà thậm chí trông chỉ loáng thoáng giống mẹ mình trên bất cứ đường phố nào thì cô sẽ sang đường hoặc quay ngược trở lại và bước xa khỏi đó. Từ việc xem các bộ phim Mỹ, cô quyết định rằng một ngày nào đó cô sẽ sống ở California và định sẽ trở thành một thợ may ở Hollywood. Cô biết những người Hàn đã quay trở về Bắc Hàn và nhiều người hơn đã quay trở về Nam Hàn, tuy nhiên cô không thể gom góp được chút tình cảm dành cho bất cứ nơi nào trong hai nước đó. Đối với cô, là người Hàn chỉ là một gánh nặng khủng khiếp nữa, chẳng khác mấy so với gánh nặng là người nghèo khổ hoặc có một gia đình đáng xấu hổ mà bạn không thể rũ bỏ được. Tại sao cô sẽ sống ở đó chứ? Nhưng cô không thể tưởng tượng nổi việc trung thành với nước Nhật, cái xứ mà giống như một bà mẹ kế đã từ chối không chịu yêu thương bạn, vậy nên Yumi mơ về Los Angeles. Cho tới khi gặp Mozasu, với những giấc mơ lớn đầy tự tin của cậu, Yumi chưa bao giờ để một người đàn ông nào lên giường của cô và bây giờ vì cô gắn bó với cậu, cô muốn cả hai sang Mỹ để tạo dựng một cuộc sống khác - nơi mà họ không bị khinh miệt và bị coi như kẻ ngoài lề. Cô không thể tưởng tượng nổi việc nuôi một đứa con ở đây.
Lớp tiếng Anh có mười lăm học viên học mỗi tuần ba tối. Yumi là học viên xuất sắc nhất của mục sư John cho tới khi Mozasu xuất hiện. Mozasu có lợi thế lớn so với cô bởi vì cậu đã học một cách không chủ tâm với Noa, anh của cậu, trong nhiều năm bằng cách làm đối tác hỏi đáp tiếng Anh tại nhà của anh, nhưng Yumi không phiền. Cô cảm thấy nhẹ nhõm trước thực tế rằng cậu giỏi hơn cô trong việc này, rằng cậu kiếm được nhiều tiền hơn cô và rằng cậu luôn luôn tốt với cô.
Mỗi buổi học đều bắt đầu bằng việc mục sư John đi quanh phòng học hỏi mỗi người một loạt các câu bằng tiếng Anh.
“Moses”, mục sư John nói bằng giọng giảng bài của ông, “quán pachinko thế nào? Hôm nay cậu kiếm được nhiều tiền chứ?”.
Mozasu cười thành tiếng. “Vâng, thưa mục sư John. Hôm nay con kiếm được nhiều tiền. Ngày mai con sẽ kiếm được nhiều hơn! Ông có cần tiền không?”.
“Không, cảm ơn, Moses. Nhưng hãy nhớ giúp đỡ những người nghèo, Moses nhé. Trong số chúng ta có nhiều người nghèo lắm đấy”.
“Tiền pachinko không phải là của con, thưa mục sư John. Ông chủ của con giàu đấy, nhưng con thì chưa phải là một người giàu. Một ngày nào đó con sẽ giàu”.
“Cậu sẽ giàu”.
“Đúng vậy, con sẽ trở thành người đàn ông giàu có, thưa mục sư John. Một người đàn ông cần phải có tiền”.
John mỉm cười thân ái với Moses, muốn làm cho cậu tỉnh ngộ khỏi những quan niệm có tính chất sùng bái như vậy, nhưng ông lại quay sang Yumi.
“Yumi, hôm nay cô may được bao nhiêu bộ quần áo?”.
Yumi mỉm cười, má ửng hồng.
“Hôm nay con may được hai chiếc áo vest, thưa mục sư John”.
John chuyển sang hỏi những người khác, khuyến khích các học viên nhút nhát nói với nhau cũng như với cả lớp. Ông muốn những người Hàn này nói tiếng Anh thuần thục; ông muốn họ không bị ai coi thường, ông đã từ bỏ cuộc sống thoải mái một cách đáng hài lòng ở Princeton, New Jersey, bởi vì ông cảm thấy thương những người Hàn bần cùng ở Nhật. Trong thời thơ ấu tuyệt vời của ông, quãng thời gian tràn ngập hơi ấm của cha mẹ giàu tình yêu thương, ông luôn cảm thấy buồn cho những người Hàn đã mất tổ quốc mãi mãi. Những người như Moses và Yumi chưa bao giờ đặt chân đến nước Hàn. Người ta luôn nói về những người Hàn trở về cố hương, nhưng theo một cách nào đó, tất cả bọn họ đều đã vĩnh viễn mất quê hương trong tâm tưởng. Cha mẹ ông chỉ nhận một mình ông làm con nuôi và ông không có anh chị em. Bởi vậy John luôn cảm thấy thật hạnh phúc với cha mẹ mình, ông cảm thấy có lỗi vì nhiều người khác không được chọn như ông. Tại sao lại như vậy? Ông muốn biết. Chắc chắn rằng có những trường hợp nhận con nuôi không hạnh phúc, nhưng John biết số phận của ông tốt hơn số phận của hầu như bất cứ ai. “Được chọn” luôn luôn là từ mà mẹ ông đã sử dụng với ông.
“Bố mẹ đã chọn con, John yêu quý của chúng ta. Con có nụ cười dễ thương nhất, thậm chí khi con còn bé tí. Các bà ở trại trẻ mồ côi thích ôm con, bởi vì con là một đứa trẻ giàu tình cảm như thế”.
Dạy lớp tiếng Anh không phải là một phần công việc làm mục sư của ông. Ông không lôi kéo các học viên của mình, những người hầu hết không phải là giáo dân, theo tôn giáo của ông. John thích âm của các từ tiếng Anh và âm của người Mỹ nói. Ông muốn mang đến điều này cho những người Hàn nghèo khổ ở Osaka, ông muốn họ có một ngôn ngữ khác không phải là tiếng Nhật.
Giống như các học viên của mình, ông được cha mẹ người Hàn sinh ra ở Nhật Bản. Cha mẹ đẻ của ông đã bỏ ông lại cho người chủ cho họ thuê nhà. John không biết chính xác mình bao nhiêu tuổi. Cha mẹ nuôi của ông đã lấy ngày sinh của Martin Luther, ngày 10 tháng Mười một, làm ngày sinh của ông. Sự thật duy nhất mà ông biết về cha mẹ đẻ của mình là, họ đã rời khỏi căn phòng họ thuê vào những giờ đầu buổi sáng mà không trả tiền thuê phòng và bỏ ông lại đó. Mẹ nuôi của ông nói đó là điều chắc chắn bởi vì chủ cho thuê phòng có tiền và có chỗ ở; dù cha mẹ đẻ của ông đi đâu, họ có lẽ không thể đem lại cho ông những điều đó. Sự hy sinh của họ khi bỏ ông lại là một hành động của tình yêu, mẹ nuôi của ông nói như vậy mỗi lần John hỏi về cha mẹ đẻ của mình. Tuy nhiên, mỗi khi John nhìn thấy một người phụ nữ hoặc đàn ông Hàn có thể ở tầm tuổi cha mẹ mình, ông đều ngạc nhiên. Ông không thể không ngạc nhiên. Ông ước bây giờ mình có thể cho họ tiền, bởi vì John là người rất giàu và ông ước mình có thể gặp cha mẹ đẻ, tặng họ một ngôi nhà để họ được ấm áp và thức ăn để họ ăn khi đói.
Khi mục sư John trêu hai chị em gái ngồi ở cuối phòng vì họ thích đồ ngọt, Mozasu khẽ chạm đầu gối mình vào đầu gối Yumi. Mozasu có cặp đùi dài và cậu phải di chuyển cái đùi của cậu một chút chỉ để liếc nhìn tấm váy che đôi chân đẹp của Yumi. Cô gõ vào lưng cậu với vẻ hơi bực, mặc dù cô không phản đối.
Mục sư John hỏi cô em của một cặp chị em gái rằng cô làm gì khi trời mưa, thay vì lắng nghe, cô gái lắp ba lắp bắp bằng tiếng Anh, cố rặn ra từ “cái ô”. Mozasu nhận thấy mình đang nhìn Yumi đăm đăm. Cậu thích nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng dịu dàng của cô, cái cách đôi mắt đen u buồn và đôi gò má cao của cô gặp nhau.
“Moses, làm thế nào cậu có thể học tiếng Anh được nếu cậu cứ nhìn Yumi đăm đăm?”. John hỏi, cười thành tiếng.
Yumi lại đỏ mặt. “Cư xử cho phải phép đi”, cô nói thầm với Mozasu bằng tiếng Nhật.
“Con không thể nhịn được, thưa mục sư. Con yêu cô ấy”, Mozasu tuyên bố và John vỗ tay trong sự thích thú.
Yumi nhìn xuống tập vở của mình.
“Hai người sẽ cưới nhau chứ?”. Mục sư John hỏi.
Yumi trông có vẻ sững sờ trước câu hỏi này, mặc dù đáng lẽ cô không nên như vậy. Mục sư John có khả năng nói bất cứ điều gì.
“Cô ấy sẽ cưới em”, Mozasu nói. “Em dám nói như vậy”.
“Gì cơ?”. Yumi kêu lên.
Mấy phụ nữ ngồi ở cuối lớp cười gần như chảy nước mắt. Hai người đàn ông ngồi ở giữa lớp đập bàn, hoan hô ầm ĩ.
“Thật vui quá đi”, John nói. “Tôi nghĩ chúng ta đang chứng kiến một lời cầu hôn. ‘Cầu hôn’ có nghĩa là mời kết hôn đấy”.
“Tất nhiên em sẽ cưới anh, Yumi ạ. Em yêu anh và anh yêu em rất nhiều. Chúng tôi sẽ cưới nhau. Rồi các bạn sẽ thấy”, Mozasu nói một cách điềm tĩnh bằng tiếng Anh, “tôi đã có kế hoạch rồi”.
Yumi đảo mắt. Cậu biết cô muốn đi Mỹ, nhưng cậu muốn ở lại Osaka và mở quán pachinko riêng trong vài năm tới. Cậu định khi giàu có sẽ mua cho mẹ, bác gái, bác trai và bà của cậu một ngôi nhà thật lớn. Cậu nói rằng nếu họ muốn chuyển về nước Hàn thì cậu sẽ kiếm thật nhiều tiền để xây cho họ những lâu đài. Cậu giải thích rằng ở Los Angeles, cậu không thể kiếm được nhiều tiền như thế. Cậu không thể bỏ gia đình và Yumi biết điều đó.
“Anh và em yêu nhau, đúng không Yumi?”. Mozasu mỉm cười với cô và nắm tay cô.
Các học viên trong lớp vỗ tay ầm ĩ và giậm chân như thể họ đang xem một trận bóng chày.
Yumi cúi đầu xuống, xấu hổ vì hành vi của cậu, nhưng cô không thể giận cậu. Cô không bao giờ có thể giận cậu. Cậu là người bạn duy nhất cô từng có.
“Vậy thì chúng ta phải lên kế hoạch cho đám cưới”, John nói.