Pachinko - Chương 40
Osaka, tháng Tư năm 1965
Trong ba năm, Yumi đã bị sảy thai hai lần, và cô phát hiện ra mình lại có bầu. Bất chấp lời khuyên của chồng cô, Mozasu, cô làm việc suốt thời gian mang thai trước đây. Bằng cách dịu dàng và thận trọng, bà chủ của Yumi, bà Totoyama, khăng khăng rằng lần mang thai này cô nên làm việc ở nhà. Yumi không chịu.
“Yumi, mùa này không có nhiều việc lắm đâu, cháu cần nghỉ ngơi”, bà Totoyama nói, vậy mà chỉ thỉnh thoảng Yumi mới về nhà trước khi trời tối mịt.
Đó là một buổi trưa mùa xuân. Yumi vừa mới may xong những chiếc nơ cổ theo đơn đặt hàng đồng phục của một khách sạn thì cô cảm thấy đau dữ dội ở bụng dưới. Lần này, bà Totoyama từ chối nghe bất cứ lời phản kháng nào từ Yumi. Bà cho người đi tìm Mozasu và cậu lập tức đến đón vợ rồi đưa cô tới một bác sĩ sản khoa người Nhật nổi tiếng ở trung tâm Osaka, người mà bà Totoyama biết, chứ không phải bác sĩ theo dõi thường xuyên của Yumi ở Ikaino.
•••
“Thai nhi mới ở giai đoạn đầu thôi, cô Boku. Huyết áp của cô rất cao. Phụ nữ như cô thường kháng thai”, bác sĩ nói một cách điềm tĩnh.
Ông rời bàn khám bệnh và quay trở lại bàn giấy. Phòng khám của ông mới được sơn lại và mùi sơn vẫn còn thoang thoảng. Ngoài biểu đồ y tế về các bộ phận sinh sản của phụ nữ, mọi thứ trong phòng toàn là màu trắng hoặc thép không gỉ.
Yumi không nói gì mà nghĩ về những gì bác sĩ nói. Liệu có thật vậy không? Cô tự hỏi. Lẽ nào những lần trước cô bị sảy thai là vì cô kháng thai?
“Tôi ít lo lắng hơn về những lần sảy thai trước. Thật là một điều đáng buồn, tất nhiên, nhưng những lần sảy thai đó cho thấy sự sáng suốt của tự nhiên. Tốt nhất cô không sinh đẻ khi điều đó không tốt cho sức khỏe của cô. Một lần sảy thai báo hiệu rằng người phụ nữ có thể thụ thai, vậy nên đó không phải là vấn đề về khả năng sinh sản. Nhưng, như lần mang thai này, tôi không thấy nhiều nguy hiểm đối với đứa bé; chỉ có sự nguy hiểm đối với người mẹ; vậy nên để giữ được cái thai, cô phải nằm trên giường”.
“Nhưng tôi phải làm việc”, Yumi nói, trông có vẻ hoảng sợ.
Bác sĩ lắc đầu.
“Yumi”, Mozasu nói, “em phải nghe bác sĩ”.
“Em có thể làm việc ít đi. Em sẽ về nhà sớm như bà Totoyama muốn”.
“Cô Boku, có khả năng người mẹ sẽ tử vong vì chứng tiền sản giật. Là bác sĩ của cô, tôi không thể cho phép cô làm việc. Bệnh nhân của tôi phải nghe tôi, nếu không chúng ta không thể hợp tác với nhau”.
Vị bác sĩ nổi tiếng nhìn đi chỗ khác, giả vờ xem những giấy tờ trên bàn của ông, tự tin rằng Yumi sẽ tiếp tục là bệnh nhân của mình. Chỉ có kẻ ngốc mới chọn cách khác, ông viết ra một số lưu ý về chế độ ăn của cô, khuyên cô tránh ăn đồ ngọt hoặc quá nhiều cơm. Cô không được phép tăng cân nhiều, bởi vì cơ thể cô sẽ giữ một lượng nước lớn và đứa bé sẽ quá to để cô có thể đẻ thường.
Hãy gọi cho tôi bất cứ khi nào cô cảm thấy khó chịu. Đây là điều then chốt. Nếu chúng ta buộc phải cho đẻ sớm, thì chúng ta cần phải phòng ngừa. Cô Boku, không cần phải khắc kỷ quá. Sau khi cô sinh con thì hãy như thế. Một phụ nữ có quyền khó tính một chút trước khi sinh đứa con đầu lòng”. Vị bác sĩ mỉm cười với cả hai người bọn họ. “Lúc đó thì hãy cứ làm om sòm lên vì thèm cơm, hoặc nếu cô cậu muốn có thêm những chiếc gối vào ban đêm”.
Mozasu gật đầu, biết ơn sự hài hước và giọng cứng rắn của vị bác sĩ. Bất cứ một vị bác sĩ giỏi nào cũng cần phải đối chọi với tính ngang bướng của vợ cậu. Mozasu chưa bao giờ có lý do để không đồng ý với Yumi trong bất cứ chuyện quan trọng nào, nhưng cậu băn khoăn không biết liệu có phải mình không làm vậy bởi vì cậu cảm thấy đằng nào cô cũng chẳng nghe cậu.
Khi vợ chồng họ trở về nhà, Yumi nằm xuống giường, mái tóc rối đen nhánh của cô xõa trên chiếc gối nhỏ. Mozasu ngồi khoanh chân bên cạnh cô, không biết phải nói gì với người vợ chẳng muốn một ly nước hoặc một thứ gì để ăn. Với cô, cậu cảm thấy mình hơi ngốc nghếch, bởi vì cô thật kiên quyết và thông minh. Mục tiêu của cô dường như luôn lớn lao một cách phi lý. Cậu chưa bao thấy cô khóc hay phàn nàn về bất cứ việc gì khó khăn. Cậu biết Yumi không muốn ở nhà một mình, không thể đi làm hoặc tới lớp học tiếng Anh.
“Em có muốn lấy mấy cuốn sách tiếng Anh của em không?”. Cậu hỏi.
“Không”, cô nói, không nhìn cậu. “Anh phải quay lại làm việc, đúng không? Em khỏe, sẽ ổn thôi. Anh có thể đi”.
“Anh không thể lấy cho em thứ gì sao? Bất cứ thứ gì?”.
“Tại sao chúng ta không thể đi Mỹ? Ở đó chúng ta có thể có một cuộc sống tốt đẹp”.
“Em nhớ những gì ông luật sư về nhập cư đã nói đấy. Việc đó gần như không thể”.
“Mục sư Maryman có thể bảo lãnh cho chúng ta”.
“Tại sao ông ấy sẽ làm việc đó chứ? Anh sẽ không trở thành một nhà truyền giáo và cả em cũng vậy. Em thậm chí không tin ở Chúa. Ngoài ra, anh có thể làm gì ở Mỹ để kiếm được nhiều tiền như ở đây? Anh sẽ không đi học trở lại đâu. Anh đâu phải là người dành cho học hành; anh là gã ngốc của em. Anh hy vọng em nghĩ cho hai chúng ta và chẳng bao lâu nữa, cho ba chúng ta”. Cậu cười, hy vọng cô sẽ mỉm cười.
“Yumi, anh sẽ sớm mở quán pachinko của riêng mình ở Yokohama, và nếu việc kinh doanh thành công, thì anh sẽ kiếm được nhiều tiền hơn hai mươi người đã tốt nghiệp đại học. Em có thể tưởng tượng ra không? Khi đó, anh có thể mua cho em bất cứ thứ gì em muốn. Nếu việc đó không thành công, thì anh vẫn có thể làm cho ông Goro và tạo được cho chúng ta một cuộc sống dễ chịu”.
“Em biết cách kiếm tiền”.
“Ừ, anh biết. Anh biết em tự lập. Nhưng anh sẽ rất vui nếu anh mua cho em thứ gì đó mà em không thể tự mua được cho bản thân. Và anh hứa em sẽ thích Yokohama; đó là một thành phố quốc tế. Có nhiều người Mỹ ở đó. Ngay khi em sinh con và bác sĩ nói mọi chuyện ổn cả, anh sẽ đưa em tới thăm thành phố đó. Chúng ta có thể ở tại một khách sạn đẹp và em có thể thấy thành phố đó như thế nào. Và ở đó sẽ dễ dàng hơn để em học tiếng Anh. Chúng ta có thể tìm một gia sư và em có thể đến trường học nếu em thích”, Mozasu nói. Mặc dù cậu cố không nghĩ đến Noa bởi vì điều đó làm cậu quá buồn, Mozasu không thể không nghĩ đến anh mình đã bỏ trường Waseda và bỏ đi mà không một lời giải thích.
“Người Nhật không thích chúng ta. Ở đây con chúng ta sẽ sống như thế nào?”. Yumi hỏi.
“Một vài người Nhật không ưa chúng ta lắm. Con sẽ sống ở đây với chúng ta. Con bé sẽ sống như chúng ta”. Từ lần mang thai đầu tiên của vợ mình, Mozasu đã quả quyết đứa trẻ là con gái - một đứa con giống hệt Yumi.
Mozasu vuốt ve vầng trán của cô. Bàn tay ngăm đen của cậu trông thật to trên vầng trán nhỏ, trắng trẻo của cô. Đối với một người phụ nữ còn rất trẻ, có thể vợ cậu trông khá già dặn trong sự nghiêm nghị của cô, có thể vượt qua những việc khó khăn, nhưng khi buồn, cô có gương mặt của một đứa trẻ tuyệt vọng, mất mát và bị tước đoạt. Cậu thích gương mặt của cô, thích cái cách nó biểu hiện từng vết cảm xúc; cô có thể lặng thinh, nhưng cô không thể giấu được con người thật của mình trước những người khác.
“Chúng ta có thể làm gì khác nhỉ?”, Mozasu hỏi, nhìn cô để tìm câu trả lời. “Ngoài việc sang Mỹ?”. Cậu chưa bao giờ hiểu được những gì cô nghĩ cô sẽ tìm thấy ở đó. Đôi khi cậu tự hỏi, không biết có phải liệu Noa đã sang Mỹ rồi chăng - cái nơi mầu nhiệm mà nhiều người Hàn ở Nhật đã lý tưởng hóa. “Yumi, ngoài việc sang Mỹ, thì em còn muốn làm gì khác?”.
Cô nhún vai. “Em không muốn ở lì trong nhà cho tới khi sinh con. Em không thích lười biếng”.
“Em sẽ chẳng bao giờ lười biếng đâu. Điều đó là không thể”. Cậu cười. “Khi con chào đời và chẳng bao lâu nữa”, cậu nói, “em sẽ phải chạy theo nó. Em và con bé sẽ là những người phụ nữ chạy nhanh nhất Osaka này - không bao giờ chịu bị bó buộc ở trong nhà”.
“Mozasu, em có thể cảm nhận được nó đang cử động. Em không mất con”.
“Tất nhiên là không. Bác sĩ nói con khỏe mà. Con sẽ trông giống em như đúc. Chúng ta sẽ tạo cho con một gia đình tuyệt vời. Em sẽ là người mẹ tuyệt vời”.
Cô mỉm cười, không tin cậu nhưng muốn cậu nói đúng.
“Anh đã gọi điện cho mẹ. Tối nay mẹ sẽ tới đây”.
Yumi nheo mắt, lo lắng.
“Em thích mẹ anh, đúng không?”.
“Đúng”, Yumi nói. Đó là sự thật; Yumi ngưỡng mộ mẹ chồng, tuy nhiên họ khá xa lạ đối với nhau. Sunja không giống hầu hết những bà mẹ của các cậu con trai khác; bà chưa bao giờ nói bất cứ điều gì có tính xâm phạm và sự kiệm lời ở bà chỉ càng tăng sau khi Noa biến mất. Khi Mozasu vù Yumi đề nghị mẹ và bà của Mozasu chuyển đến ở nhà họ, Sunja từ chối, nói rằng sẽ tốt hơn cho đôi trẻ sống mà không bị mấy người già làm phiền.
“Em nghĩ mẹ muốn ở với bà và bác Kyunghee”.
“Ừ, nhưng mẹ muốn giúp chúng ta. Mẹ sẽ đến đây một mình thôi. Sẽ không phải là ở hẳn đâu. Bà sẽ ở với bác Kyunghee để giúp bác trông cửa hàng. Anh sẽ thuê mấy cô gái làm thay mẹ trong khi mẹ ở đây”.
•••
Sau hai tuần nằm miết trên giường, Yumi cảm thấy như thể sắp phát điên. Mozasu đã mua cho cô một chiếc vô tuyến, nhưng cô không có hứng thú xem vô tuyến, và chứng ợ nóng khiến cô không yên để đọc sách. Cổ tay và cổ chân cô bị phù đến mức nếu cô ấn nhẹ ngón tay cái lên cổ tay, cô có thể tạo ra một vết lõm sâu trên da thịt. Chỉ sự động cựa và thỉnh thoảng những tiếng nấc của đứa bé mới giữ Yumi gắn với chiếc giường mà không chạy ra khỏi cửa. Từ khi đến đó, mẹ chồng cô vẫn ở một mình trong căn phòng nhỏ bên cạnh bếp - mặc dù Mozasu đã nhiều lần nài nỉ bà sang căn phòng trống rộng hơn cạnh phòng ngủ chính. Sunja đảm nhiệm toàn bộ việc nấu nướng, dọn dẹp. Dù Mozasu về nhà vào bất cứ giờ nào, bà cũng chuẩn bị bữa tối sẵn sàng.
•••
Sunja gõ cửa phòng Yumi để mang bữa sáng vào cho cô.
“Mẹ vào đi ạ”, Yumi nói. Khác hẳn với mẹ của Mozasu đã nuôi gia đình bằng khả năng nấu nướng của mình, mẹ đẻ của cô không biết nấu một nồi cơm hoặc pha một tách trà.
Như thường lệ, Sunja bê vào một cái khay với các món ăn hấp dẫn, tất cả đều được đậy bằng một tấm vải trắng sạch. Bà mỉm cười với con dâu. Bình thường Yumi thích những bữa ăn ngon như vậy, nhưng giờ cô cảm thấy thật tệ, vì gần đây tất cả những gì cô có thể cố nuốt là món cháo gạo.
“Con cảm thấy thật tệ khi cứ nằm trên giường cả ngày trong khi mẹ làm việc quần quật”, Yumi nói, hy vọng Sunja sẽ ở lại nói chuyện với cô. “Mẹ đã ăn sáng chưa ạ?”.
“Rồi, mẹ ăn rồi. Con lúc nào cũng làm việc chăm chỉ. Nhưng bây giờ con phải nghỉ ngơi. Mang thai chẳng phải là việc dễ dàng gì. Mẹ của mẹ đã sảy thai sáu lần trước khi sinh ra mẹ đấy”, bà nói. “Bà muốn đến chăm sóc con, nhưng mẹ bảo bà ở nhà”.
“Sáu lần. Con mới có hai”.
“Hai lần cũng chẳng dễ dàng gì”, Sunja nói. “Con nên ăn sáng. Con và đứa bé cần dinh dưỡng”.
Yumi ngồi dậy một chút. “Mozasu hôm nay đi Yokohama từ sớm”.
Sunja gật. Bà đã làm bữa sáng cho cậu trước khi cậu lên chuyến tàu buổi sáng.
“Vậy mẹ đã tiễn anh ấy”. Yumi ngắm nhìn khay thức ăn một cách thích thú. “Trông thật ngon”.
Sunja hy vọng con dâu bà sẽ ăn. Bà sợ rằng cô sẽ lại sảy thai, nhưng không muốn tỏ ra lo lắng. Bà hối tiếc vì đã đề cập đến số lần sảy thai của mẹ mình. Vị mục sư ở nhà thờ đã cảnh báo về tội nói năng thiếu thận trọng; Sunja nghĩ tốt hơn nên nói ít thôi.
“Cảm ơn mẹ vì đã chăm sóc chúng con chu đáo như thế này”.
Sunja lắc đầu.
“Không có gì. Con cũng sẽ làm như thế này cho các con của con”, Sunja nói.
Không giống các bà buôn bán ở chợ với những lọn tóc đen được tạo sóng cố định xoăn tít, Sunja không nhuộm mái tóc muối tiêu của mình mà cắt tóc ngắn như đàn ông. Thân hình đã phát triển đầy đủ của bà rắn chắc, không nhỏ cũng không quá mập. Bà làm việc ở ngoài trời trong nhiều năm đến nỗi mặt trời đã khắc những nếp nhăn lên khuôn mặt tròn ngăm đen của bà. Như một ni cô, Sunja không trang điểm, thậm chí không dùng kem dường ẩm. Cứ như thể từ một thời gian trước, bà đã quyết định sẽ không quan tâm mình trông như thế nào, ngoài việc giữ cho mình sạch sẽ, cứ như thể để sám hối vì đã có thời bà quan tâm đến những điều đó, khi mà thực tế không phải vậy.
“Mozasu đã kể với mẹ về mẹ đẻ của con chưa ạ?”. Yumi cầm thìa lên.
“Nó kể rằng mẹ con làm ở một quán bar”, Sunja nói.
“Mẹ con là gái làng chơi. Cha con là người dắt gái của bà ấy. Họ lấy nhau”.
Sunja gật đầu, nhìn đăm đăm khay thức ăn chưa được đụng tới. Khi Mozasu kể với bà về gia đình Yumi, Sunja đã hình dung ra những chuyện đó. Thời kỳ chiếm đóng và chiến tranh là thời kỳ khó khăn đối với tất cả mọi người.
“Mẹ tin chắc rằng bà ấy là người tốt. Mẹ tin rằng bà ấy quan tâm đến con rất nhiều”.
Sunja tin điều đó. Bà đã từng yêu Hansu, và rồi sau đó yêu Isak. Tuy nhiên, tình cảm của bà dành cho các con trai, Noa và Mozasu, còn hơn cả tình cảm của bà dành cho những người đàn ông đó; tình yêu dành cho các con của bà giống như sự sống và cái chết. Sau khi Noa bỏ đi, bà cảm thấy mình cận kề cái chết. Bà không thể tưởng tượng có người mẹ nào lại không cảm thấy như vậy.
“Mẹ của con không phải là người tốt. Bà ấy đánh đập chúng con. Bà ấy quan tâm đến việc uống rượu và kiếm tiền hơn bất cứ điều gì khác. Sau khi anh trai con mất, nếu chị con và con không bỏ nhà đi, thì bà ấy sẽ bắt chúng con làm việc. Làm cái việc bà ấy làm. Chưa bao giờ mẹ con nói một điều tử tế với con”, Yumi nói.
Cô chưa từng nói điều này với bất cứ ai.
“Mozasu kể với mẹ rằng chị của con mất rồi”.
Yumi gật đầu. Sau khi cô và chị gái bỏ nhà đi, họ tìm được nơi trú ngụ trong một nhà máy may bỏ hoang. Vào mùa đông, cả hai chị em họ đều bị một trận sốt cao, nhưng chị gái của cô đã chết trong giấc ngủ mê man. Yumi ngủ bên cạnh người chị đã chết của mình gần một ngày trời, chờ chết.
Sunja đổi chỗ ngồi, nhích đến gần cô.
“Ôi, con, con đã phải chịu đựng quá nhiều”.
•••
Yumi không sinh con gái. Solomon, đứa con cô sinh ra là một bé trai bụ bẫm, nặng hơn bốn cân, thậm chí nặng hơn vị bác sĩ kia đã dự đoán. Cuộc sinh nở kéo dài hơn ba mươi tiếng đồng hồ và ông bác sĩ đã phải mời một đồng nghiệp tới để trợ giúp mình suốt đêm đó. Đứa trẻ khỏe mạnh bình thường. Trong vòng một tháng, Yumi đã phục hồi sức khỏe hoàn toàn và trở lại làm việc, mang Solomon tới hiệu may cùng cô. Trong tiệc mừng sinh nhật đầu tiên của mình, Solomon đã chộp lấy tờ bạc tiền yên giữa đám bút lông, chuỗi hạt và những chiếc bánh - báo trước rằng cậu sẽ có một cuộc sống phong lưu.