Quân Khu Nam Đồng - Chương 11
Anh Sơn
1
Đầu giờ chiều, Anh Sơn và Tiến Thọt gặp Việt và Hòa ở đầu Nhà 1. Anh Sơn rủ:
– Có phim “Đêm thứ 12” ở rạp Đống Đa, hay lắm. Bọn mày có đi mua vé xem không?
Việt nói:
– Hôm qua em Trung Phương có hai vé phim này, rủ tao đi xem. Nhưng tao sợ Hương ghen nên không dám. Mày có thích em này không, tao giới thiệu cho.
Tiến Thọt cười:
– Thằng này có Lệ Dung rồi. Mày giới thiệu cho tao.
Em Trung Phương hơi béo nhưng mà xinh.
– Em mẹ gì, nó lớn hơn mình một tuổi đó. Xinh thì có xinh, nhưng nhìn lẳng lơ quá.
– Lẳng lơ mình có thể dạy được, nhưng xấu thì không chữa được.
Việt mặc cả:
– Tao giới thiệu xong, mày phải chiêu đãi tao một vé xem phim.
Vì nghe nói phim “Đêm thứ 12” hay, người mua vé rất đông, rạp chỉ bán cho mỗi người hai vé, Anh Sơn bảo rủ cả bọn cùng đi để hợp sức chen hàng.
Tới rạp Đống Đa, cả bọn chen như đánh vật, người đẫm hết mồ hôi, cuối cùng cũng mua được 13 vé. Lúc ra bãi xe, Anh Sơn và Tiến Thọt thấy hai thanh niên mặc quần áo bộ đội bạc phếch, đang đánh túi bụi một cậu trai khoảng 13-14 tuổi. Tiến ngứa mắt. Nó rất ghét cảnh người lớn đánh trẻ con, huống hồ đây là hai lớn đánh một bé. Tiến đẩy cái xe đạp vừa lấy ra cho Anh Sơn, đưa tay gạt cú đấm, nói nhỏ nhẹ:
– Anh không nên đánh trẻ con.
Người kia nhìn Tiến Thọt:
– Tránh ra, không phải việc của mày.
Nhìn chiếc huy hiệu thương binh trên chiếc áo bộ đội bạc màu, Anh Sơn giật áo Tiến Thọt, nói nhỏ:
– Thôi, đừng dây vào hội này.
Thời gian này, an ninh trên địa bàn thành phố Hà Nội khá phức tạp. Với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, mọi việc đều tập trung cho chiến trường. Khi một dòng sông đang cuồn cuộn chảy về phía trước, ít người để ý việc hai bên bờ, bọt bèo, rơm rác đọng lại, thậm chí còn trôi quẩn về sau. Trong sự thiếu trật tự của những ngày mới chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, khi cả dòng người ồ ạt trở lại Thủ đô, đủ các loại băng, nhóm mọc ra. Mặc dù chẳng phải băng nhóm to tát và có tổ chức, nhưng những nhóm này cũng hùng cứ một phương, theo kiểu chó cậy gần nhà, chủ yếu gây ra những vụ đánh nhau và trấn lột lặt vặt.
Việc xuất hiện các băng nhóm nói trên, suy cho cùng cũng là chuyện tự nhiên của một xã hội mệt mỏi và thiếu thốn vì chiến tranh kéo dài. Chế độ tem phiếu không đủ cung cấp dinh dưỡng, đáp ứng nhu cầu tái tạo năng lượng. Trong lúc chờ ngày chiến thắng sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, người dân có cơm no, áo ấm hơn, những kẻ trộm cắp, cướp giật xuất hiện ngày càng nhiều, phổ biến ở các khu phố cổ, các chợ đầu mối lớn như chợ Đồng Xuân, chợ Bắc Qua, hay những khu nghèo và đông đúc như ngõ chợ Khâm Thiên, bãi Phúc Xá… Các vụ trấn lột ở cổng các trường học diễn ra thường xuyên. Đám học sinh cấp một, cấp hai khi bị trấn lột chỉ biết đứng khóc. Nhưng đám học sinh cấp ba, đang độ trưởng thành, đặc biệt là học sinh ở các khu gia binh lớn như Phố Lý Nam Đế, khu tập thể 1A Phố Hoàng Văn Thụ, 3B Phố Ông Ích Khiêm hay K95 Bãi Phúc Xá… thì đời nào chịu. Bọn này ở tập trung, lại sẵn tố chất của con nhà lính, nên mạnh mẽ, ngang tàng và có tính cộng đồng cao. Các ông bố quân nhân thời đó có ít thời gian ngó ngàng tới con cái. Mọi công việc chăm sóc, dạy dỗ con đều khoán trọn cho vợ. Các bà vợ ngoài việc thức khuya dậy sớm hứng nước, xếp hàng mua gạo, mua dầu, mua cá, mua đậu… bằng hàng xấp tem phiếu, họ còn phải nuôi gà, nuôi lợn, trồng rau, rồi thì nhận đan len, dán hộp, gói kẹo thuê… Tóm lại, làm đủ các việc nhằm tăng thu nhập để bổ sung thêm chút thực phẩm cho hai bữa ăn của gia đình, rồi còn phải chăm sóc ông bà nội ngoại hai bên. Vì vậy, việc giáo dục trẻ con được các bà mẹ tin tưởng giao cho nhà trường, và sau đó là phó mặc cho chính bản thân chúng “tự giáo dục”. Do bản năng tự vệ, lớp thanh, thiếu niên này tự phát hình thành những lực lượng đối địch với các băng nhóm ở Hà Nội lúc đó.
Trong các khu gia binh ngày ấy, thời gian đầu nổi nhất là Phố Lý Nam Đế, mang danh “Biệt khu”, cầm đầu bởi một số học sinh trường thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi, nổi tiếng đẹp trai, ngang tàng và can đảm. Khác với khu tập thể Nam Đồng những ngày mới thành lập, chủ yếu chỉ có sĩ quan cấp úy và cấp tá, mãi tới năm 1974 mới có bảy đại tá được phong thiếu tướng, Phố Lý Nam Đế là nơi tập trung gia đình các tướng lĩnh cao cấp của quân đội, được mệnh danh là “phố nhà binh”. Vì Phố Lý Nam Đế kéo quá dài, việc quy tụ lực lượng về một mối khó hơn các khu tập thể quân đội khác, nên về sau, những khu tập thể lớn như 37B và 16A Phố Lý Nam Đế phát triển thành những nhóm tương đối độc lập.
Kế tiếp đến là khu 3B Phố Ông Ích Khiêm, khu 1A Phố Hoàng Văn Thụ và khu 28A Phố Điện Biên Phủ. Các khu gia binh này không lớn như khu Nam Đồng, nhưng cũng có lớp đàn anh “trường Trỗi” cầm đầu, hơi tí là đánh nhau. Nhờ có bạn bè ở các đơn vị chiến đấu, hoặc người quen làm trong các kho quân dụng, các đàn anh này xin được đủ thứ như dao găm, xanh-tuya-lông, lưỡi lê CKC và AK làm vũ khí, trong đó lưỡi lê AK được thích hơn vì nó dẹt và ngắn, dễ dắt trong người. Nổi tiếng ở thời điểm này có Quốc Bình và Minh Thanh, những người đã phải hầu tòa vì đâm đối thủ, với những câu chuyện được bọn trẻ con các khu tập thể quân đội thêu đi dệt lại khắp nơi, gây nên nỗi ám ảnh cho nhiều băng nhóm trên địa bàn Hà Nội.
Những năm đầu thập kỷ 70, so với các khu gia binh thời đó, khu tập thể Nam Đồng là khu gia binh to nhất, nhưng lại hay bị bắt nạt, do không có thủ lĩnh. Lớp học sinh “trường Trỗi” ở khu Nam Đồng khá lành. Chẳng hiểu sao “Trỗi” các nơi anh hùng hảo hán mà “Trỗi” khu Nam Đồng chẳng có ai để lứa đàn em dựa vào danh tiếng hù dọa thiên hạ. Sau trận đánh Ô Chợ Dừa, cái tên “Quân khu Nam Đồng” mới bắt đầu hình thành, với lực lượng chủ chốt là bọn lớp 8D (Việt, Hoàng, Hòa, Khanh, Ngọc, Minh, Đính…) và 9H (Anh Sơn, Tiến Thọt, Khả Trung, Tân Thời…). Hai nhóm này cùng học trường Đống Đa nên gắn bó, đi đâu cũng có nhau. Nhưng những trận cần đông người thì học sinh các lớp khác trong khu Nam Đồng như Hà Tư, Bích Bọp, Thái Đen, Hưng Sẹo, Tuấn Mím… đều có mặt. “Quân khu Nam Đồng” không có người cầm đầu, tuy trong một chừng mực nhất định, khi cả đám đông cần ra một quyết định tức thời, mọi người đều nhìn vào Anh Sơn. Khu Nam Đồng rộng và đông nên bọn trẻ con chơi theo từng nhóm, nhưng mỗi khi cần, chúng liên kết với nhau rất nhanh. Một trong những nguyên nhân làm khu Nam Đồng ngày càng nổi tiếng vì chúng đoàn kết, luôn bảo vệ nhau và bảo vệ danh tiếng “Quân khu”.
Ngoài các băng nhóm nói trên, một lực lượng khác mà tất cả đều ngại, đó là “Hội thương binh”. Khi thấy một thương binh gặp chuyện thì bất cứ ai là thương binh đi ngang qua, đều xông vào bảo vệ. “Hội thương binh” thực chất không phải là một hội, mà chỉ là một số cựu chiến binh, trở về từ chiến trường, có chút tư tưởng công thần, trong khi cơ thể mang thương tật, nên khá nhạy cảm, hễ cảm thấy bị xúc phạm là nổi máu anh hùng. Và bởi các anh đã từng vào sinh ra tử nơi chiến trường, việc đánh nhau với đám lau nhau ở hậu phương là chuyện nhỏ. Dù chỉ có một, hai người, các anh vẫn sẵn sàng xông vào đánh lại cả những nhóm năm, bảy tên. Bình thường thì mấy anh cũng lành, ít khi chủ động gây gổ với ai. Công an cũng ngại mấy anh này nên mỗi khi đến giải tán các đám đánh nhau, luôn chỉ đe nẹt hoặc bắt những kẻ không phải thương binh.
Nghe Anh Sơn nói, Tiến Thọt lùi lại, nhưng vẫn đứng chắn trước mặt đứa bé. Người kia sấn lên, đấm thốc vào mặt Tiến Thọt. Tiến Thọt bị bất ngờ, loạng choạng ngã xuống. Khi Tiến Thọt đứng dậy thì trong tay đã cầm lưỡi lê ba cạnh CKC. Anh này lùi lại, vớ nửa hòn gạch, hét: “A, mày mang lê hả… có giỏi thì xông vào đây!”. Anh đi cùng chạy ra chỗ bà bán bánh giò, giật cái đòn gánh, mồm hét “A, a…” và lao đến.
Nhóm Việt, Hoàng, Minh, Ngọc, Hòa vừa đi tới, thấy vậy đồng loạt rút lưỡi lê, và búa ra đứng chờ. Nhìn đống búa với lưỡi lê loang loáng dưới ánh mặt trời, anh chàng cầm đòn gánh xông gần tới nơi bỗng dưng chựng lại rồi… vứt đòn gánh bỏ chạy. Thấy anh cầm gạch mải tập trung vào Tiến Thọt, Anh Sơn nhanh tay dùng dây xanh-tuya-lông vụt chát chát mấy cái, đánh văng cục gạch ra. Tiến Thọt đang cơn giận lao tới, chân đá tay vụt bằng lưỡi lê CKC. Chắc nó cũng thấy không nên xỉa cái vật ba cạnh sắc nhọn đó giữa chỗ đông người. Anh này vừa bò, vừa chạy, tay vẫn kịp vơ chiếc đòn gánh bạn vứt lúc nãy để làm vũ khí. Tiến đang hăng máu, cùng Anh Sơn lấy xe đuổi theo. Tình cờ, ở quán bia đối diện nhà máy Y Cụ, có một ông công an đang ngồi uống bia hơi. Dân tình chỉ chỏ: “Hai thằng kia đang cầm dao đuổi đánh các anh thương binh”. Ông công an buông ngay cốc bia, rút còi ra thổi “toét, toét!”.
Thấy công an, Tiến Thọt chở Anh Sơn chạy về hướng Ngã Tư Sở. Ông công an vẫy một chiếc xe máy đi cùng chiều đuổi theo. Việt bảo Hoàng: “Phóng theo cản cái xe máy lại cho bọn Tiến Thọt chạy”. Hòa nói: “Mình chỉ có xe đạp, lại đi sau, sao đuổi kịp xe máy?”. Việt nói: “Cứ đuổi theo xem thế nào!”.
Xe Tiến Thọt chạy đến Ngã Tư Sở thì đâm phải một phụ nữ qua đường. Xe đổ và bị tuột xích. Chiếc xe máy đuổi tới gần, tiếng còi vẫn liên tục “toét toét”. Hai anh công an giao thông trực ở ngã tư chạy ra phối hợp. Anh Sơn giằng lấy xe từ tay Tiến Thọt, nói nhỏ: “Trong người Tiến có dao, chạy trước đi”. Tiến Thọt ngần ngừ rồi băng qua đường, chạy như bay về phía đường Tàu Bay, ngoặt vào một ngõ nhỏ. Chẳng ai biết tại sao lại gọi nó là Tiến “Thọt”, vì chân nó dài và thẳng tắp. Tiếng còi “toét, toét” vẫn đuổi theo. Tiến Thọt chạy vào một căn nhà lụp xụp. Cả nhà đang chuẩn bị ăn cơm, thấy Tiến Thọt, ông bố hỏi: “Ơ, cái anh kia, xông vào nhà người ta ăn cướp hay sao thế này?”. Tiến Thọt rút lưỡi lê trong bụng ra: “Ai bảo tôi ăn cướp hả? Tôi đánh nhau bị người ta đuổi. Lê đây này”. Ông già dẫn Tiến Thọt vào gian nhà trong ngồi. Lát sau, một cô bé chừng 15 tuổi vào bảo Tiến: “Người ta đi hết rồi, anh về đi”. Tiến Thọt nhổm dậy, toan đi ra, nhưng cô bé giữ lại, ra hiệu cho Tiến Thọt đi cửa sau. Tiến Thọt lội ruộng, tắt đường Kim Liên về khu Nam Đồng.
Nhưng Anh Sơn bị bắt.
Buổi chiều hôm đó mua được mười ba vé xem phim thì Anh Sơn giữ tám, Tiến giữ hai, Việt, Hoàng và Ngọc mỗi đứa cầm một cái. Tiến nhường hai vé cho Hà Tư vì nó đã hẹn hò với Hoàng Yến. Biết Anh Sơn bị nhốt ở Đồn 41 phố Khâm Thiên, và bác nó là thiếu tá Công an khu Đống Đa sẽ xuống để can thiệp, Hòa nảy ra sáng kiến lên đồn xin lại số vé Anh Sơn đang cầm. Hòa gặp trực ban, vừa trình bày, lập tức bị giữ lại để điều tra. Trước sau Hòa vẫn một mực: “Nhà cháu cạnh nhà Anh Sơn. Chiều cháu bận học ở nhà nên gửi tiền nhờ nó mua vé hộ”. Hòa bị giữ tới 11 giờ đêm. Khi được thả, đã thấy Minh chờ sẵn, thông báo: “Việt, Hoàng và Ngọc bị bắt rồi. Mấy tay thương binh dẫn công an mật tới phục ở cổng khu, sau đó theo ba thằng tới tận rạp Đống Đa. Họ vào ngồi ngay sau bọn Việt, nghe hết những gì ba thằng nói về những chuyện xảy ra lúc chiều. Mấy ông công an chờ chiếu hết cuốn hai mới lấy khóa số 8 ra còng tay ba đứa. Tức nhất là có một bọn đứng bên ngoài, thấy ba thằng bị đưa ra khỏi rạp, nhảy vào đánh hôi. Quân mình bị còng nên đành chịu trận, bị đánh đau lắm”. Hòa nghĩ bụng: “May mà mình không đòi được vé. Nếu đòi được, chắc lúc này cũng bị nhốt trong nhà giam rồi. Chẳng biết bọn Việt tối nay có dắt dao theo không, nếu có lại thêm nặng tội”.
Minh bảo: “Thằng nhỏ hồi chiều bị hai ông thương binh đánh vì ăn cắp, thành ra bọn mình bị kết tội bao che cho bọn ăn cắp, dùng hung khí đâm các anh thương binh. Đúng là làm phúc phải tội!”.
2
Anh Sơn không biết nhờ bác nó làm ở Công an khu Đống Đa can thiệp, nên nó mới được xếp vào phòng “kinh tế”, nơi giam các phạm nhân tham ô, trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Hầu hết phạm nhân phòng này là cán bộ nhà nước. Vì vậy, nó tránh được trận đòn dằn mặt. Anh Sơn chưa bao giờ trải qua thủ tục “nhập phòng” trong trại giam nên không cảm nhận được giá trị của việc này. Nếu nó bị nhốt cùng phòng với bọn đầu gấu như Bích và Quang Anh sau này, nó sẽ hiểu cuộc đời nó đêm nay sướng hơn tiên.
Ở trong phòng giam chưa đầy một ngày, Anh Sơn đã thấm thía câu nói: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Với bản chất hiếu động, ngang tàng, việc bị nhốt trong bốn bức tường, đối với nó quả là một cực hình. Vô cùng bức bối. Nó thấy như có hàng ngàn con kiến đang bơi trong máu, cắn xé tứ tung lục phủ ngũ tạng. Cả đêm nó không ngủ, vì mệt, vì rét và vì đói. Từ chiều tới giờ Anh Sơn đâu có ăn gì. Nó cũng không đủ can đảm để hỏi mấy người lớn tuổi trong phòng xem có cái gì ăn không. Một tối bị đói, chưa đủ khiến người ta thành kẻ ăn xin. Nó chưa đói đến mức sẵn sàng làm bất cứ việc gì, kể cả giật miếng ăn trên mồm người khác như những đứa từng ở tù ra kể. Và để dằn cơn đói, nó nhớ tới Lệ Dung. Kỷ niệm về Lệ Dung như một dòng nước mát, nhẹ nhàng lan tỏa trong tâm hồn, làm nó quên đi sự cồn cào trong bụng.
Má Trâm Anh của Anh Sơn và cô Tân - mẹ Lệ Dung - là bạn thân từ khi còn ở chiến khu Việt Bắc, thời kháng chiến chống Pháp. Cả hai gia đình cùng chuyển về khu tập thể Nam Đồng khi khu vừa mới xây xong. Sau này ai hỏi Anh Sơn lần đầu yêu khi nào, nó khăng khăng mình yêu từ năm bảy tuổi, ngay khi nó nhìn thấy Lệ Dung, với cái áo cánh màu nâu làm nổi bật làn da trắng mịn và mái tóc dài óng mượt như một dòng suối. Sự rung động mơ hồ, lưu luyến trong giây phút ấy theo nó suốt cuộc đời. Hàng chục năm sau, mỗi khi gặp Lệ Dung, nó vẫn còn nguyên cảm giác xao xuyến đó, cảm giác nó không bao giờ có với ai.
Tình-yêu-bảy-tuổi của Anh Sơn kéo dài suốt năm lớp Một, chuẩn bị chuyển sang tình yêu tám tuổi thì chiến tranh ập đến. Sau vụ Mỹ ném bom Thanh Hóa ngày 3 tháng Tư năm 1965, tất cả học sinh phải đi sơ tán. Anh Sơn và Lệ Dung mỗi người một ngả. Sự xa cách là một thử thách vô cùng khắc nghiệt đối với tình yêu, nhất là khi người ta còn bé. Anh Sơn nhanh chóng quên Lệ Dung. Đúng hơn, nó quên tình yêu của mình. Thời gian này, Anh Sơn vớ được cuốn “Bỉ Vỏ”, một cuốn truyện làm nó đặc biệt say mê. Nó mơ ước sau này sẽ trở thành một đại ca ngang trời dọc đất như “Năm Sài Gòn”. Trong bốn năm sơ tán, nó nổi danh khắp trại là một thằng hay nghịch ngợm, đánh nhau. Nó nhớ một lần đã đánh cho thằng Minh Dũng ở Nhà 8 một trận nên thân. Dù Minh Dũng gây sự với nó trước, nhưng cô giáo không quan tâm tới nguyên nhân. Thằng nào bị đau hơn, thằng đó vô tội. Kết quả khi má Trâm Anh lên thăm, cô giáo mách má và Anh Sơn bị vụt mấy roi.
Năm 1969, Mỹ ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và bọn trẻ con trở về khu tập thể. Anh Sơn, Lệ Dung và đám trẻ con cùng lứa trong khu được xếp vào lớp 6A. Trường Trung Liệt nằm sau Gò Đống Đa, nhưng riêng lớp 6A được học trong khu Nam Đồng, ở khu nhà ba tầng. Vừa gặp Lệ Dung, tình yêu ngày xưa của Anh Sơn trỗi dậy. Nhưng không hiểu sao, mỗi lần đến gần Lệ Dung là nó cảm thấy hồi hộp, mất tự tin, không biết phải nói gì. Năm học lớp 6 của Anh Sơn trôi qua nhanh chóng. Lên lớp 7, Anh Sơn được xếp vào lớp 7H, còn Lệ Dung học 7G. Lớp 8, cả hai cùng học Trường Phổ thông Công nghiệp cấp III Đống Đa, nhưng vẫn mỗi đứa một lớp. Lệ Dung càng lớn càng xinh. Tuy không chơi thể thao, nhưng Lệ Dung lại là một cổ động viên nhiệt tình. Những khi Anh Sơn cùng cả bọn đá bóng, Lệ Dung hay ra xem. Những khi có Lệ Dung, Anh Sơn thi đấu vô cùng hào hứng. Nó quyết tâm dùng thành tích bóng đá để chinh phục Lệ Dung. Dù sân Nhà 1 đầy gạch nhỏ và sỏi, Anh Sơn vẫn sẵn sàng bay người bắt bóng rất điệu nghệ, mặc khuỷu tay và đầu gối tóe máu. Có lẽ ánh mắt quan sát từ xa của Lệ Dung đã tạo nên một thủ môn xuất sắc của đội tuyển Quân khu Nam Đồng sau này.
Nếu như nghệ thuật bắt gôn chưa đủ thu phục Lệ Dung, Anh Sơn nghĩ những thành tích trong thi đấu bóng rổ và điền kinh của nó sẽ góp thêm phần đánh gục nàng. Thế nhưng ngày 16 tháng Tư năm 1972, khi Anh Sơn cảm nhận tình yêu chỉ còn cách mình một gang tay, Mỹ lại ném bom Hà Nội. Năm học kết thúc luôn. Tất cả học sinh đều được lên lớp. Học sinh lớp 10 được cấp bằng tốt nghiệp phổ thông, mà không phải thi. Nhiều đứa sau khi nhận bằng, chẳng chờ tới kỳ thi đại học, viết đơn xung phong vào bộ đội luôn. Anh Sơn theo trường cấp ba Đống Đa lên Chương Mỹ, Hà Tây. Lệ Dung sơ tán theo cơ quan của bố.
Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết. Trở lại Hà Nội, Anh Sơn và Lệ Dung tình cờ lại được học chung một lớp, lớp 9H. Mới một năm, cô bé Lệ Dung đã vụt trở thành thiếu nữ. Mái tóc đen, dài như suối càng mượt mà, óng ả, chiếc áo chiết eo ôm chặt khít, làm nổi bật cái lưng ong. Lệ Dung bắt đầu biết làm điệu. Đôi mắt với hàng mi cong vút mỗi khi nói chuyện cứ như khép hờ. Nét duyên dáng của Lệ Dung khiến nhiều chàng trai để ý. Không hiểu sao, Anh Sơn có linh cảm Lệ Dung cũng thích mình. Anh Sơn không biết trong mắt các cô gái trong lớp, nó được xếp vào loại đầy nam tính và đẹp trai nhất nhì khu tập thể Nam Đồng.
Từ ngày vào lớp, hầu như Anh Sơn và Lệ Dung không nói với nhau câu nào. Mỗi khi ánh mắt gặp nhau, hai đứa đều cảm thấy ngượng ngùng, nhìn lảng ngay đi nơi khác. Bọn con gái trong lớp, vốn thính mũi và lắm chuyện, bắt đầu thì thào với nhau về một tình yêu chớm nở. Một hôm Anh Sơn đến nhà Hà Tư chơi (nhà Hà Tư ở sát nhà Lệ Dung), Hà Tư kể bọn Nhà 8 cũng đang đồn Anh Sơn yêu Lệ Dung.
Anh Sơn đỏ mặt:
– Từ ngày vào lớp, tôi và Lệ Dung chưa hề có biểu hiện yêu đương gì. Chúng nó cứ ác mồm. Đồn đại thì cũng phải có căn cứ chứ.
Hà Tư cười:
– Ông với Lệ Dung giấu mắm tôm trong người, làm gì thiên hạ chẳng biết.
Anh Sơn ngạc nhiên:
– Tôi giấu mắm tôm bao giờ?
Hà Tư giải thích:
– Vì ông với nó thích nhau, nên mỗi khi đến gần nhau là sực mùi yêu. Giấu tình yêu giống như giấu mắm tôm trong người, ông hiểu không? Ông với nó mang theo mắm tôm nên quen mũi, không ngửi thấy gì, chứ người ngoài đến gần họ ngửi thấy ngay.
– Thế ông ở cạnh Lệ Dung, ông có thấy thằng nào đến tán Lệ Dung không?
– Chúng nó biết Lệ Dung là người yêu của ông nên không thằng nào dây, nhất là lại thấy có tôi là chiến hữu của ông ngày đêm canh gác Lệ Dung. Nếu ông yêu thì về viết thư đi, tôi đưa cho. Còn nếu ông khẳng định không yêu thì để tôi.
Anh Sơn biết Hà Tư chỉ nói chơi, vì nó đang để ý Hoàng Yến. Tuy vậy, Anh Sơn cũng chẳng dại gì thách Hà Tư. Từ đó, Hà Tư biến thành anh giao liên vui tính nhưng tò mò. Tất cả thư của Anh Sơn, nó đều kiểm duyệt. Thư Lệ Dung viết cho Anh Sơn, Hà Tư cũng bóc ra xem. Nó giải thích: “Người lịch sự, khi gửi thư nhờ bạn bè đưa hộ không được dán”. Với Anh Sơn, đâu có gì cần bí mật với Hà Tư. Nhưng Lệ Dung thì không biết thư mình bị kiểm duyệt. Anh Sơn cũng không dám nói, vì sợ mất một tên liên lạc tận tụy. Mà suy cho cùng, giữa hai đứa đã có chuyện gì đâu… Những lá thư của chúng dù thiết tha, ấm áp tới mấy, vẫn mới chỉ mon men đến gần ranh giới giữa tình yêu và tình bạn. Nhưng cái ranh giới ấy đã làm cho ngày dài ngắn lại, đêm bớt lạnh giá và khoảng thời gian tựa “thiên thu” trong phòng giam của Anh Sơn bớt cô đơn.
Sau năm ngày bị giam thì Anh Sơn cùng cả bọn được thả. Ông trưởng đồn công an Khâm Thiên nói với bác của Sơn: “Em đã cố gắng hết sức rồi, nhưng vụ này là vụ lớn. Cháu Anh Sơn lại kiên quyết không khai ra tên đồng bọn trực tiếp cầm dao đâm anh thương binh. Cháu chỉ nói đấy là người bạn quen hồi sơ tán, tình cờ gặp lại, tên là Chiến, không biết ở đâu. Vì cháu không trực tiếp cầm dao đâm nên em cũng cố gắng khép lại hồ sơ”.