Sét Hòn - Tử Thần Trên Sa Mạc Gobi - Chương 02
3
LÂM VÂN (1)
Tôi ngồi tàu tới Trung Thiên Môn, định ngồi cáp treo lên đỉnh núi, nhưng sau khi nhìn thấy hàng người dằng dặc xếp hàng chờ đợi, tôi đành leo bộ lên. Sương mù trên núi dày đặc, rừng rậm hai bên chỉ là bóng đen mờ ảo, kéo dài lên trên thêm một đoạn nữa thì biến mất trong màn sương trắng. Gần đó, những bức thạch khắc của các thời đại không ngừng ẩn hiện.
Từ khi theo thầy Trương Bân tới Vân Nam, tôi luôn cảm thấy mình bị đánh bại khi ở giữa thiên nhiên. Nhìn thế giới tự nhiên đầy nhựa sống, phức tạp và biến ảo khôn lường càng làm tăng thêm vẻ thần bí, thật khó tưởng tượng rằng nó có thể bị những phương trình mỏng manh của loài người ràng buộc. Lúc này, tôi nghĩ tới câu nói của Einstein trong những năm tháng cuối đời: “Mỗi chiếc lá ngoài cửa sổ đều khiến khoa học của nhân loại trở nên ấu trĩ và bất lực.”
Nhưng cảm giác bị đánh bại này rất nhanh được thay thế bởi sự mệt mỏi của thể xác, nhìn những bậc đá tiếp tục trải dài lên cao trong sương mù, tôi cảm thấy Nam Thiên Môn dường như đã vượt lên trên tầng khí quyển.
Đây là lần đầu tiên tôi thấy cô ấy. Cô ấy hấp dẫn tôi vì sự khác biệt với những người xung quanh. Trên đường đi, tôi luôn bắt gặp cảnh tượng những cặp đôi, đều là những cô gái kiệt sức ngồi trên bậc đá, còn cánh mày râu thì đứng bên cạnh vừa thở hổn hển vừa động viên bạn gái đi tiếp. Mỗi khi tôi đi ngang qua một người, hoặc thi thoảng có một người vượt qua tôi, tôi đều nghe được tiếng thở dốc phì phò của họ. Tôi dốc sức leo sau một anh chàng cửu vạn, tấm lưng rộng màu cổ đồng của anh ấy tiếp cho tôi sức mạnh để tiếp tục leo lên. Lúc này, một bóng trắng nhẹ nhàng lướt qua tôi và anh chàng cửu vạn, cô gái ấy mặc áo sơ mi trắng và quần jean cũng màu trắng nốt, trông giống một làn sương trắng dày đặc. Trong dòng người chậm rãi di chuyển, tốc độ leo núi của cô thật đáng nể. Bước chân nhanh nhẹn, hoạt bát, không chút nặng nề, lúc cô ấy bước qua tôi, tôi cũng không nghe thấy tiếng thở gấp nào. Cô ấy liếc nhìn lại, không phải nhìn tôi mà là nhìn anh chàng cửu vạn, vẻ mặt cô vẫn bình thản, không hề có dấu hiệu của mệt mỏi, thân hình mảnh dẻ dường như cũng không chứa nặng nhọc, cô bước đi trên con đường núi mệt mỏi này mà như thể đang tản bộ trên con đường bằng phẳng rợp bóng cây hai bên đường. Không lâu sau, bóng dáng ấy biến mất trong làn sương trắng.
Cuối cùng tôi cũng lên tới Nam Thiên Môn, đưa mắt chiêm ngưỡng không gian rộng lớn, hoàng hôn buông xuống nhuộm đỏ cả một vùng mây trời.
Tôi lê từng bước nặng nhọc tới trạm khí tượng trên đỉnh núi Ngọc Hoàng. Những nhân viên trong trạm sau khi biết thân phận và lai lịch của tôi đều không bất ngờ, trạm khí tượng ở đây rất nổi tiếng, luôn có những nhà khoa học khí tượng tới làm quan trắc. Họ nói với tôi rằng trạm trưởng có việc nên đã xuống núi, sau đó giới thiệu phó trạm trưởng cho tôi, lúc gặp mặt, chúng tôi đều ồ lên vui mừng, phó trạm trưởng hoá ra lại là Triệu Vũ.
Từ ngày chúng tôi đi Vân Nam tới nay đã hơn ba năm. Khi tôi hỏi anh ấy sao lại tới nơi kỳ lạ này, Triệu Vũ đáp: “Tôi muốn tới đây để Suddhi, thế giới dưới kia quá đỗi mệt mỏi!”
“Vậy sao anh không tới Đại Miếu làm đạo sĩ?”
“Nơi đấy giờ chẳng còn thanh tịnh nữa đâu, còn cậu thì sao? Vẫn theo đuổi cái âm hồn bất tán kia à?”
Tôi giải thích lý do tới đây của mình cho Triệu Vũ nghe.
Anh ấy lắc đầu: “Năm 1962, đã lâu lắm rồi, tới nay trạm này đã thay biết bao người, e rằng không còn ai biết về chuyện này nữa đâu.”
“Không sao, em muốn tìm hiểu chuyện này, vì đây là trường hợp đầu tiên mà một nhà Vật lý học khí quyển được tận mục sở thị sét hòn ở Trung Quốc,” tôi nói. “Đúng là không có ý nghĩa gì lớn lao, em lên núi cũng để thư giãn, không chừng gặp trận mưa bão, ngoài Kim Đỉnh ở núi Võ Đang, đây cũng là nơi tốt nhất để thấy sấm sét mà.”
“Ai xem sét mà no bụng được! Tôi thấy cậu đúng là tẩu hỏa nhập ma rồi! Ở đây, giông bão tránh cũng không tránh được, nhưng nếu cậu muốn xem thật thì ở thêm vài ngày nữa may chăng sẽ gặp được.”
Triệu Vũ đưa tôi về ký túc xá của anh, lúc đó đã tới giờ ăn trưa nên anh gọi nhà ăn mang tới rất nhiều đồ, có món bánh rán Thái Sơn vừa mỏng vừa giòn, hành lá thô dày, và cả một chai Thái Sơn Đại Khúc.
Triệu Vũ nói lời cảm ơn với ông lão làm bếp mang đồ tới, lúc ông lão chuẩn bị rời đi, Triệu Vũ sực nhớ ra gì đó, hỏi ông: “Ông Vương, ông bắt đầu làm việc ở trạm này từ khi nào vậy ạ?”
“Tôi làm trong nhà ăn từ năm 1960 rồi, hồi đấy mọi thứ khó khăn lắm, lúc ấy không có anh Triệu.”
Triệu Vũ và tôi vui mừng nhìn nhau cười.
Tôi háo hức hỏi: “Vậy ông đã thấy sét hòn bao giờ chưa ạ?”
“Ý cậu là… cổn địa lôi?”
“Đúng rồi! Dân gian thì là vậy!”
“Tất nhiên là tôi từng thấy rồi, bốn mươi năm vừa qua thì thấy tầm ba hay bốn lần gì đó.”
Triệu Vũ lấy thêm một cái chén, chúng tôi nhiệt tình mời ông Vương ngồi xuống, tôi vừa rót rượu vừa hỏi ông: “Vậy ông có nhớ lần năm 1962 không ạ?”
“Cậu không nhắc thì lần đó tôi vẫn nhớ rõ lắm, còn có người bị thương mà!”
Ông Vương bắt đầu kể: “Lúc đó là tầm cuối tháng Bảy, buổi tối, khoảng 7 giờ hơn, thường thì tầm đó trời vẫn còn sáng lắm, nhưng hôm ấy mây rất dày, không thắp nến thì chẳng thấy gì cả. Mưa như trút nước, ấy vậy mà đứng trong mưa thì oi bức không thở nổi. Sấm vang rền nối nhau không ngơi nghỉ…”
“Có thể đó là do thời tiết giông bão khi có hai khối nóng lạnh đi qua,” Triệu Vũ bổ sung cho tôi hiểu.
“Tôi nghe thấy tiếng sấm, tia sét lóa lên đến lóa mắt trước mỗi lần sấm dội, tôi ở trong nhà mà cũng bị chiếu hoa mắt. Lúc đó, khi thấy bên ngoài vang lên tiếng kêu thất thanh rằng có người bị thương, tôi liền chạy ra ngoài cứu trợ. Lần đó, có bốn người tới trạm làm nghiên cứu khoa học, một trong số họ bị sét đánh trọng thương. Tôi kéo người đó vào nhà từ màn mưa, chân của anh ta bốc khói, nước mưa nhỏ xuống, nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo. Ngay lúc đó, cái cổn địa lôi bay vào từ cửa sổ phía Tây, ngay cả khi cửa đang đóng chặt! Thứ đó… thứ đó to bằng cái bánh rán, đỏ như máu, nhuốm đỏ cả căn phòng. Nó trôi lơ lửng trong phòng, rất nhanh…” Ông giơ một tay cầm ly rượu lên vạch vạch trong không khí. “Lơ lửng, lơ lửng, tôi như nhìn thấy quỷ, bị dọa đến á khẩu, nhưng mấy người, mấy nhà khoa học, họ không sợ, dặn chúng tôi đừng chạm vào nó. Thứ đó trôi một lúc, có lúc chạm tới nóc nhà hoặc trượt ngang qua giường, may là không chạm vào ai. Cuối cùng, nó chui vào ống khói, vừa chui vào đã nổ đoàng một tiếng. Lần đó, tôi đã ở nhiều năm trên đỉnh núi này rồi nhưng chưa từng thấy sấm sét nào như vậy, đến nay vẫn không quên được âm thanh đó, màng nhĩ của tôi bị chấn động suốt mấy ngày liền, cứ kêu lên ong ong, sau đó tai trái tôi có bệnh vặt, giờ thì nghễnh ngãng hẳn. Ngọn đèn dầu lúc đó tắt hẳn, chao đèn thủy tinh và phích nước bị sét đánh tan tành, có một vệt cháy để lại trên ga giường. Lúc sau tôi chạy ra ngoài xem thì thấy ống khói trên mái nhà đã sập.”
“Bốn người làm quan trắc ấy tới từ đâu vậy ạ?”
“Tôi không biết. Ôi, đã nhiều năm trôi qua rồi… chỉ nhớ người bị thương ấy được tôi và hai người nữa trong trạm cõng xuống núi để đưa tới bệnh viện. Người đó rất trẻ, hình như vẫn là sinh viên đại học. Một chân của anh ta bị cháy không còn hình dạng, hồi đó điều kiện ở bệnh viện Thái An không tốt, đành phải đưa tới Tế Nam, trời ạ, chắc cũng đã thành tàn tật. Người đó họ Trương thì phải, Trương gì nhỉ… Phu gì đó.”
Triệu Vũ đập mạnh ly rượu xuống bàn: “Trương Hách Phu?”
“Đúng rồi, đúng rồi, là tên đó. Tôi còn chăm sóc anh ta hai ngày ở bệnh viện Thái An, sau khi rời đi anh ta còn gửi thư cảm ơn, bức thư đó hình như được gửi tới từ Bắc Kinh. Sau đó thì mất liên lạc, giờ không biết ở đâu.”
Triệu Vũ nói với ông Vương: “Ở Nam Kinh, là giáo sư của trường đại học mà tôi theo học, thầy hướng dẫn của cả hai chúng tôi.”
“Gì cơ?” Ly rượu trong tay tôi suýt chút nữa rơi xuống đất.
“Đó là tên gọi cũ của thầy Trương Bân, vì trong đợt Cách mạng Văn hóa, cái tên cũ làm người ta nghĩ tới Hách Lỗ Hiểu Phu*.”
Tôi và Triệu Vũ im lặng hồi lâu, rồi ông Vương phá tan không khí trầm mặc. “Cũng không phải quá ngẫu nhiên, các cậu đều làm công việc này. Đó là một thanh niên tốt, chân đau tới mức cắn nát môi nhưng vẫn tựa gối đọc sách trên giường. Tôi bảo anh ta nghỉ ngơi đi, thì anh ta nói từ nay phải tranh thủ thời gian, vì cuộc đời này của anh ta đã có mục tiêu rồi, vừa mới có thôi, anh ta sẽ nghiên cứu về nó, còn muốn chế tạo ra nó.”
“Nghiên cứu chế tạo cái gì cơ?” Tôi ngạc nhiên.
“Cổn địa lôi chứ sao! Chính là sét hòn mà hai người nhắc tới.”
Tôi và Triệu Vũ ngơ ngác nhìn nhau.
Ông Vương không để ý tới nét mặt của chúng tôi, tiếp tục nói: “Anh ta bảo sẽ dành cả đời để nghiên cứu nó, xem ra, ở trên núi gặp cổn địa lôi nên đã mê mẩn rồi. Con người là thế ấy. Có lúc bất tri bất giác say mê cái gì đó, thế là cả đời dứt không nổi. Như tôi này, hai mươi năm trước, đang lúc đi lấy củi nấu cơm, gảy ra được cái rễ cây, đang định ném vào trong lửa, thì tôi nhận thấy cái rễ ấy có hình dáng giống con hổ, thế là đánh bóng rồi đặt ở đó, nhìn cũng khá lắm, từ đó về sau tôi say mê chạm khắc gỗ, đó là lý do khi về hưu rồi tôi vẫn còn ở lại trên núi.”
Giờ tôi mới để ý trong phòng Triệu Vũ đúng là có rất nhiều bức chạm khắc lớn nhỏ, anh ấy giới thiệu với tôi đây đều là tác phẩm của ông Vương.
Sau đó, chúng tôi không nói về Trương Bân nữa, tuy nhiên trong lòng tôi vẫn canh cánh chuyện này, cảm giác bàng hoàng mà câu chuyện mang lại rất khó tả thành lời.
Ăn cơm xong, Triệu Vũ dẫn tôi đi quanh trạm khí tượng trong đêm tối. Lúc chúng tôi đi qua khung cửa sổ duy nhất còn sáng đèn của nhà khách, tôi kinh ngạc dừng bước, nhìn thấy cô gái mặc đồ trắng ở bên trong, cô chỉ có một mình trong căn phòng có hai chiếc giường và một cái bàn để đầy sách vở đang mở và bản vẽ, đi đi lại lại, có vẻ đang suy nghĩ gì đó.
“Này, lịch sự chút đi, đừng nhìn trộm cửa sổ nhà người khác như vậy chứ.” Triệu Vũ khẽ đẩy tôi từ phía sau.
“Em đã gặp cô ấy trên đường tới đây,” tôi giải thích.
“Cô ấy tới đây để liên hệ việc quan trắc sét, trước khi tới đã chào hỏi Chi сụс Khí tượng của tỉnh rồi nhưng không nói rõ từ đâu tới, chắc chắn là một đơn vị rất lớn, họ định dùng trực thăng mang thiết bị lên đỉnh núi.”
Tôi không ngờ rằng mới đến ngày thứ hai mà đã gặp trận giông. Sức chấn động của cơn giông trên đỉnh núi không gì có thể so sánh nổi, Thái Sơn lúc này chẳng khác nào cột thu lôi của Trái đất, hút hết tất cả tia sét trong vũ trụ. Hồ quang điện chớp sáng chớp tắt trên mái nhà, khiến con người run rẩy tê dại. Sét và sấm lúc này không còn khoảng cách nữa, những tiếng vang cực lớn làm rung chuyển từng tế bào, khiến bạn dường như cảm thấy Thái Sơn dưới chân mình bị thổi tan thành từng mảnh, khiến linh hồn bạn bật ra khỏi thể xác bởi cơn địa chấn, nỗi sợ hãi phiêu lãng giữa những tia chớp rực rỡ và không còn nơi trú ẩn…
Tôi nhìn thấy cô gái ấy, cô đứng ngoài hành lang, mặc cơn cuồng phong thổi rối mái tóc ngắn, thân hình mảnh mai trông hơi yếu ớt, quan sát sét trong mây đen vần vũ, bất động trong âm thanh sấm rền kinh thiên động địa, mọi thứ đủ để trở thành một bức tranh khó quên.
“Cô nên đứng vào trong thì hơn, chỗ đó không an toàn đâu, chưa kể sẽ ướt hết đó!” Tôi hét lên từ đằng sau. Cô như sực lại từ giấc mộng sấm sét, lùi lại hai bước về phía sau.
“Cảm ơn anh,” cô ngoảnh lại nhìn tôi rồi cười, một nụ cười rung động lòng người. “Có thể anh không tin, nhưng chỉ những lúc như thế này tôi mới cảm thấy yên tĩnh.”
Thật kỳ lạ, trong không gian dày đặc tiếng sấm này, bạn phải hét to mới mong người khác nghe thấy, vậy mà cô chỉ nói nhẹ nhàng, âm thanh dịu dàng xuyên qua những tiếng ồn vang dội, tôi đều nghe được rất rõ. Bây giờ, cô gái kỳ diệu này hấp dẫn tôi hơn cả sấm sét ngoài kia.
“Cô thật đặc biệt!” tôi thốt ra những lời từ trong lòng mình.
“Nghe nói anh theo chuyên ngành Điện Khí quyển?” Cô không đáp lại lời tôi.
Lúc này, tiếng sấm đã ngớt, chúng tôi đã có thể thong dong nói chuyện. Tôi hỏi cô: “Các cô muốn quan trắc sấm sét ở đây?” Từ lời Triệu Vũ, tôi thấy không tiện nhắc tới lai lịch của cô nên đành hỏi như vậy.
“Đúng thế.”
“Tập trung vào lĩnh vực nào vậy?”
“Quá trình hình thành của sấm sét. Tôi không coi thường chuyên ngành của anh, nhưng hiện tại giới Vật lý học khí quyển đối với các đề tài cơ bản nhất như mây vũ tích hay điện đều có nhiều ý kiến bất động, thậm chí cách hoạt động của cột thu lôi cũng còn chưa được làm rõ.”
Tôi biết ngay cô ấy không theo Vật lý học khí quyển, có thì cũng chỉ là lướt qua. Đúng như những gì cô vừa nói, mây vũ tích hay nguyên lý điện chưa có lý thuyết thỏa đáng, ngay cả nguyên lý chống sét của cột thu lôi có vẻ học sinh tiểu học cũng trả lời được, nhưng về mặt lý luận thì chưa được làm rõ. Mấy năm nay, nhờ việc tính toán chính xác lượng điện phóng ra từ đầu kim loại của cột thu lôi thì ta mới biết được rằng còn lâu mới trung hòa được điện tích tích tụ trong mây vũ tích.
“Vậy thì nghiên cứu của các cô rất cơ bản rồi.”
“Mục tiêu cuối cùng là thực dụng.”
“Nghiên cứu quá trình hình thành của sấm sét… Tiêu lôi nhân tạo ư?”
“Không, chế tạo sấm nhân tạo.”
“Chế tạo… sấm? Là gì vậy?”
Cô cười mỉm: “Đoán xem?”
“Dùng sét chế tạo phân đạm à?”
Cô ấy lắc đầu.
“Dùng sấm sét làm nguồn năng lượng mới chăng?”
Cô ấy vẫn lắc đầu.
“Ồ, nếu không thể làm năng lượng thì chế tạo sấm hao phí càng nhiều năng lượng hơn. Còn đúng một khả năng nữa thôi.” Tôi muốn đùa với cô ấy một chút. “Dùng sấm sét để giết người đúng không?”
Vậy mà cô gái đó lại gật đầu.
Tôi cười ha hả: “Thế thì các cô phải giải quyết vấn đề nhắm trúng đã, đường đi của tia sét là một chuỗi đa giác rất ngẫu nhiên.”
Cô ấy khẽ thở dài: “Đó là việc phải cân nhắc sau này, giờ đến cả vấn đề tạo sấm sét còn chưa được giải quyết nữa là, chúng tôi không hứng thú với sấm sét được tạo thành từ mây tích vũ, quan trọng là ngày nắng cũng có thể xuất hiện giông khô* hiếm gặp, nhưng giờ muốn quan sát rất khó… Anh thấy sao?”
“Cô nói thật à?” Tôi ngẩn tò te nói.
“Đương nhiên! Chúng tôi quan trắc, điều giá trị nhất của việc nghiên cứu dự án này trong tương lai là nó có thể ứng dụng tạo ra hệ thống phòng không đem lại hiệu quả cao, xây dựng một trường sấm sét rộng lớn trên không trong thành phố hoặc các mục tiêu cần bảo vệ, chỉ cần máy bay công kích của kẻ địch đi vào khu vực sấm sét này sẽ lập tức phóng điện. Lúc này, vấn đề nhắm chuẩn mà anh nói không còn quan trọng nữa. Dĩ nhiên, nếu như biến mặt đất thành trường sấm sét thì lại là chuyện khác, đúng là có thể tấn công vào mục tiêu trên mặt đất nhưng như thế sẽ dẫn tới nhiều vấn đề hơn… Thực ra, chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu những thứ khả thi, đề ra khái niệm, tìm đầu mối từ những nghiên cứu cơ bản nhất. Nếu quả thực không thể thì việc làm cụ thể sẽ cần các cơ quan chuyên nghiệp hơn như các anh xử lý.”
Tôi thở hắt ra một hơi: “Cô là quân nhân à?”
Cô giới thiệu mình tên là Lâm Vân, tiến sĩ của Đại học Công nghệ Quốc phòng Trung Quốc, chuyên ngành hệ thống vũ khí phòng không.
Cơn giông đã dừng lại, mặt trời chiều chiếu xuyên những tia nắng vàng hoe qua khe hở của những đám mây.
“Chà, anh nhìn kìa, thế giới tươi đẹp làm sao, giống như vừa được tái sinh sau cơn giông!” Lâm Vân kinh ngạc thốt lên.
Tôi cũng cảm thấy vậy, không biết do cơn giông ban nãy hay cô gái trước mặt, dù sao thì từ trước đến giờ, tôi chưa từng cảm thấy như thế.
Đến tối, ba người chúng tôi – tôi, Lâm Vân, Triệu Vũ – cùng ra ngoài đi dạo, được một lát thì Triệu Vũ bị điện thoại của trạm réo về, tôi và Lâm Vân đi men theo con đường mòn nhỏ trên núi, tới Thiên Nhai. Trời đã về khuya, một tầng sương mờ ảo phủ lấy Thiên Nhai, những ngọn đèn đường chìm trong sương tỏa ra thứ ánh sáng yếu ớt, mơ màng. Đêm trên núi cao rất yên tĩnh, vô cùng yên tĩnh, khiến bầu không khí huyên náo dưới chân núi dường như trở thành một ký ức rất xa.
Sương bảng lảng tan đi đôi chút, vài ngôi sao xuất hiện thưa thớt trên bầu trời. Ánh sao phản chiếu trong đôi mắt trong veo của cô. Tôi tâm sự với Lâm Vân bí mật sâu kín nhất của mình. Tôi kể cho cô nghe về buổi tối sinh nhật ác mộng rất nhiều năm về trước, còn nói với cô việc tôi quyết định dành cả đời để làm. Đây là lần đầu tiên tôi thổ lộ với người khác những điều này.
“Anh ghét sét hòn hả?” Lâm Vân hỏi.
“Đối với một bí ẩn khó lường mà cả nhân loại chưa thể giải thích, không kể nó còn mang đến cho cô bao nhiêu tai họa, thì cô cũng rất khó mà tránh được cảm giác ghét bỏ. Lúc đầu, tôi cũng chỉ hiếu kỳ về nó, về sau kiến thức ngày càng nhiều, cảm giác hiếu kỳ ấy thay đổi, và thế là tôi hoàn toàn bị nó làm cho say mê. Trong tâm trí của tôi, nó giống như cánh cửa mở ra một thế giới khác. Trong thế giới đó, tôi có thể thấy được nhiều điều đẹp đẽ, huyền diệu mà trong mơ cũng khó thấy được.”
Đúng lúc này, một cơn gió nhẹ thổi tới, những lỗi lầm hóa thinh không. Những ngôi sao trên cao dần xuất hiện nhiều hơn, tạo thành một biển sao trời trong đêm hè trải dài vô tận; phía xa xa dưới chân núi, những ánh đèn của hàng vạn ngôi nhà ở Thái An sáng lên, tạo thành một biển sao nho nhỏ, như thể là hình ảnh phản chiếu của biển sao trời trên mặt hồ nhỏ.
Lâm Vân ngâm thơ bằng chất giọng dịu dàng:
“Đèn đường vừa mới rạng
Như chớp tới ngân hà.
Ở trên trời sao sáng
Như thắp cả đường xa.”
Tôi tiếp lời:
“Bầu trời đêm ẩn hiện
Chắc có chốn thị thành
Bày bán đồ quý hiếm
Nhân gian khó đua tranh.”
Nước mắt tôi trào ra khỏi hốc mắt. Qua màn lệ, thế giới ban đêm xinh đẹp, run rẩy càng trong trẻo hơn. Tôi hiểu bản thân là người mơ mộng, tôi cũng hiểu trên thế giới này, đường đời tràn ngập những hiểm ác khó lường, nhưng tôi vẫn sẽ tiếp tục leo lên, cho tới khi Nam Thiên Môn ló ra từ mây mù.
Tôi không còn lựa chọn nào khác.
4
TRƯƠNG BÂN
Hai năm học tiến sĩ nhanh chóng trôi qua. Trong hai năm này, tôi đã lần đầu tự xây dựng mô hình toán học của sét hòn.
Cao Ba là một giáo viên hướng dẫn xuất sắc, ông rất giỏi khơi dậy khả năng sáng tạo của học trò. Nỗi ám ảnh của ông về lý thuyết cũng cực đoan y như sự coi nhẹ thực nghiệm, trong trường hợp này, mô hình toán học của tôi trở thành một thứ phù phiếm hoàn toàn không có cơ sở thực nghiệm. Nhưng buổi bảo vệ luận văn vẫn suôn sẻ trôi qua, với ý kiến nhận xét: Lập luận mới lạ, thể hiện nền tảng toán học sâu sắc và kỹ năng thuần thục. Khuyết điểm lớn nhất của mô hình ở phương diện thực nghiệm cũng dẫn tới rất nhiều tranh cãi. Buổi bảo vệ kết thúc, một thầy giáo đã nhận xét thô lỗ, “Câu hỏi cuối cùng: Có bao nhiêu thiên sứ có thể đứng trên một đầu mũi kim?”, khiến cả hội trường cười rộ lên.
Trương Bân là một thành viên trong ban hội đồng, ông chỉ hỏi một câu hỏi phụ bâng quơ, không bày tỏ nhiều ý kiến. Hai năm này, tôi chưa dám hỏi ông về câu chuyện ở Thái Sơn, bản thân tôi cũng không rõ tại sao, chỉ là tôi có thể đoán trước được rằng điều đó sẽ bắt ông phải nói ra bí mật đã khiến ông tổn thương sâu sắc. Nhưng lúc này, tôi sắp ra trường rồi, cuối cùng không nhịn được mà vẫn muốn hỏi rõ câu chuyện.
Tôi tới nhà Trương Bân, kể cho ông nghe câu chuyện mà tôi đã nghe được ở Thái Sơn. Sau khi nghe xong, ông không nói gì cả, chỉ im lặng hút thuốc rồi nhìn chằm chằm xuống sàn nhà, hút hết điếu thuốc đó, ông nặng nề đứng lên rồi nói với tôi: “Em tới đây.” Sau đó, ông dẫn tôi qua một cánh cửa đang đóng chặt.
Trương Bân sống một mình trong căn nhà hai phòng ngủ. Cuộc sống hằng ngày của ông chỉ gói gọn trong một căn phòng, cánh cửa của căn phòng còn lại luôn được đóng chặt. Triệu Vũ kể với tôi rằng có lần, bạn học cũ từ tỉnh khác tới thăm, anh liền nghĩ đến nhà của thầy Trương nên hỏi ông xem có thể cho người bạn học của mình ở tạm một đêm không. Trương Bân nói không có chỗ. Ngày thường, tuy các mối quan hệ xã giao của ông cũng chẳng nhiều nhặn gì nhưng ông không phải kiểu người không thân thiện, vậy nên tôi và Triệu Vũ đều thấy căn phòng đóng chặt đó có gì đó khá thần bí.
Trương Bân mở cửa ra, thứ đầu tiên đập vào mắt tôi là một dãy thùng giấy chất cao ngất, đằng sau chúng vẫn còn mấy thùng giấy nữa, ngoài ra trong phòng không còn gì to hơn. Trên bức tường đối diện treo một bức ảnh đen trắng chụp một người phụ nữ đeo kính, người phụ nữ ấy có mái tóc ngắn hợp mốt thời đó và đôi mắt sau tròng kính rất có hồn.
“Người tôi yêu mất năm 1971.” Trương Bân chỉ vào bức ảnh và nói.
Tôi nhận thấy một điều rất lạ: Chủ nhân của căn phòng này rất chăm chút cho những bức ảnh xung quanh được giữ sạch sẽ, mấy thùng giấy kia cũng cách bức ảnh một khoảng cách nhất định, tạo thành một khoảng trống hình bán nguyệt trước nó. Nhưng ngay bên cạnh bức ảnh, có một cái đinh được đóng trên tường đang treo một cái áo mưa, loại áo mưa kiểu cũ phủ vải nhựa cao su, màu xanh thẫm, trông không hài hòa lắm.
“Em cũng biết rồi đấy, sau lần nhìn thấy sét hòn ở Thái Sơn, tôi đã bị ám ảnh; lúc đó, tôi vẫn còn là một sinh viên đại học, tâm trạng hoàn toàn giống em bây giờ nên cũng không cần kể nhiều nữa. Thời gian đầu, tôi tìm sét hòn trong mưa giông tự nhiên, đi tới rất nhiều nơi. Sau này tôi quen cô ấy, cũng chính sét hòn đã kết nối chúng tôi lại với nhau. Cô ấy là một nhà nghiên cứu đầy đam mê, chúng tôi gặp gỡ nhau trong một trận mưa giông lớn, sau đó cùng nhau tìm kiếm. Hồi ấy, điều kiện rất nghèo nàn, đa phần đều là đi bộ, buổi tối ở nhờ nhà dân địa phương, có khi còn phải tá túc trong những ngôi miếu đổ nát hay hang động qua đêm, thậm chí là ngủ ngoài trời. Tôi vẫn nhớ một lần, vì để quan sát một trận mưa giông mùa thu mà sau đó cả hai người chúng tôi cùng bị viêm phổi. Nơi đó hẻo lánh xa xôi, thiếu thốn y tế, cô ấy lâm bệnh nặng, suýt chút nữa đã mất mạng. Chúng tôi gặp sói, bị rắn độc cắn, bụng dạ lúc nào cũng đói meo là chuyện thường như ở huyện. Sét đánh sát sạt chúng tôi không chỉ một lần. Lần quan sát thực địa đó kéo dài mười năm; mười năm đó, chúng tôi đi qua không ít con đường, chịu khổ chịu rét, đối mặt với rất nhiều hiểm nguy, đếm cũng không đếm nổi nữa rồi. Và vì sự nghiệp của mình, chúng tôi quyết định không sinh con.
Chúng tôi ở ngoài hầu hết thời gian, nhưng vào những ngày cô ấy bận việc dạy hoặc nghiên cứu khoa học thì cũng có lúc tôi đi một mình. Có lần, tôi tới phương Nam, bị lạc vào căn cứ quân sự, thời ấy Cách mạng Văn hóa đang lên đến đỉnh điểm, bố mẹ tôi cũng từng đi du học ở Liên Xô, mọi người thấy tôi có máy ảnh và các dụng cụ quan trắc liền nghi ngờ tôi là gián điệp tình báo cho kẻ địch, giữ tôi lại hai năm. Hai năm ấy, cô ấy vẫn không ngừng ra ngoài tìm kiếm và quan trắc.
Tôi được nghe kể về lần cô ấy gặp nạn từ một người dân địa phương. Trong một trận mưa giông lớn, cô ấy đã gặp được sét hòn, cô chạy theo nó, lúc nhìn thấy nó sắp bay qua khe nước chảy xiết, trong lúc khẩn cấp, cô giơ dụng cụ thu sét của máy nam châm vĩnh cửu lên để chặn quả cầu. Sau chuyện đó, mọi người đều nói làm thế là vô nghĩa. Nhưng họ sao mà hiểu được, khi đó, cô ấy đã tìm được sét hòn sau mười năm ròng, vậy mà chỉ trong chớp mắt cơ hội quan sát đo đạc nó lại vụt mất đi. Cảm xúc của cô ấy lúc đó không ai hiểu được.”
“Tôi hiểu,” tôi nói.
“Theo lời của những nhân chứng từ xa, quả cầu lửa ấy đã biến mất sau khi bị hút vào dụng cụ thu sét, nó men theo dây dẫn xuyên qua máy nam châm vĩnh cửu rồi lại chui ra từ đầu khác. Cho đến thời điểm đó, cô ấy vẫn không sao cả, nhưng cuối cùng vẫn không thoát được: Quả cầu lửa ấy bay xung quanh rồi nổ tung trên đỉnh đầu cô ấy. Sau khi luồng chớp nổ, cô ấy biến mất. Những người đứng sau cô ấy chỉ nhìn thấy một chiếc áo mưa lành lặn rơi trên đất, dưới lớp áo mưa là một đống tro bụi màu trắng, sau đó, lớp bụi ấy cũng bị nước mưa rửa trôi. Xung quanh áo mưa là những dòng nước nhỏ màu trắng…”
Tôi quan sát chiếc áo mưa đó, tưởng tượng linh hồn trẻ trung nhưng cố chấp đang được bao bọc bên trong, nói với giọng trầm trầm: “Cô ấy như vậy cũng giống như một hoa tiêu chết trên biển lớn, một phi hành gia chết giữa không gian, cũng xem như một cái chết có ý nghĩa.”
Trương Bân chậm rãi gật đầu: “Tôi cũng nghĩ vậy.”
“Vậy còn máy thu nam châm vĩnh cửu kia thì sao ạ?”
“Còn nguyên vẹn, được đưa tới phòng thí nghiệm kịp thời để đo độ từ dư.”
“Là bao nhiêu ạ?” Tôi căng thẳng, đây là phép đo định lượng đầu tiên duy nhất trong lịch sử nghiên cứu sét hòn.
“0.”
“Gì cơ?”
“Không có từ dư.”
“Điều đó có nghĩa là không có dòng điện chạy qua dây dẫn thu sét, vậy thì nó được dẫn qua với hình dạng nào đây?”
Trương Bân xua tay: “Bí ẩn về sét hòn quá nhiều, tôi không muốn bàn sâu về nó ở đây. So với nhiều bí ẩn khác, đây chẳng được xem là gì cả. Bây giờ, tôi sẽ cho em xem một thứ khó tin hơn.” Nói đoạn, ông lấy ra một cuốn sổ bọc nhựa từ trong túi áo mưa, rồi lên tiếng: “Đây là thứ mà cô ấy đã để trong túi áo mưa khi qua đời.” Sau đó, ông cực kỳ cẩn thận đặt cuốn sổ tay lên trên thùng giấy, như thể nó là vật dễ vỡ. “Lúc lật thì nhớ nhẹ tay một chút.” Đó là một cuốn sổ rất đỗi bình thường, trên bìa là hình ảnh Thiên An Môn bị sờn và mờ đi một chút. Tôi nhẹ nhàng mở trang bìa ra, nhìn thấy dòng chữ duyên dáng ở trang tiêu đề đã ố vàng:
[Lối vào của khoa học cũng chính là lối vào của địa ngục. – Marx]
Tôi ngẩng đầu lên nhìn Trương Bân, ông ra hiệu cho tôi lật tiếp trang sau. Đây chính là lý do tại sao ông bảo tôi lật thật nhẹ nhàng: Trang này đã bị cháy đen hết cả, một phần đã biến thành tro rồi tứ tán mất. Tôi lật qua trang giấy đã cháy này, trang tiếp theo còn nguyên, ghi chép số liệu dày kín mít vẫn còn rất rõ ràng, giống như mới viết ngày hôm qua.
“Lật tiếp đi,” Trương Bân nói.
Trang thứ ba cháy đen thui.
Trang thứ tư còn nguyên vẹn.
Trang thứ năm cháy đen thui.
Trang thứ sáu còn nguyên vẹn.
Trang thứ bảy cháy đen thui.
Trang thứ tám còn nguyên vẹn.
…
Tôi lật từng trang, không có hai trang liên tiếp nào bị cháy và cũng không có hai trang liên tiếp nào còn nguyên vẹn. Những trang bị cháy chỉ sót lại một phần nhỏ dính sát vào gáy sổ, nhưng trang nguyên vẹn ngay sau trang bị cháy ấy thì không nhìn thấy bất cứ dấu vết bị đốt cháy nào. Tôi ngẩng đầu lên, ngây người nhìn Trương Bân.
Ông nói: “Em có thể tin được không? Tôi chưa từng đem cuốn sổ này cho bất kỳ ai khác xem, vì chắc chắn người ta sẽ cho đó là ngụy tạo.”
“Không đâu, thầy Trương, em tin mà!” Tôi vội vàng nói.
Tiếp đó, tôi kể về đêm sinh nhật đó của tôi cho người thứ hai.
Nghe xong, Trương Bân nói: “Trước kia, tôi đoán em cũng đã trải qua chuyện này, chỉ là không ngờ rằng nó kinh khủng đến thế. Em đã chứng kiến tất cả, lẽ ra em nên biết nghiên cứu sét hòn là một điều ngu ngốc đến cỡ nào.”
“Em không hiểu, tại sao vậy thầy?”
“Thực ra, tôi nhận ra điều này rất muộn. Hơn 30 năm nay, ngoài những lúc tìm sét hòn trong mưa giông, tôi dành rất nhiều tâm sức để nghiên cứu nó về mặt lý luận. Hơn 30 năm, tôi sẽ không kể quá trình, em tự mình xem đi.” Ông chỉ tay vào mấy thùng giấy xung quanh. Tôi mở một thùng giấy trong số đó, bên trong chất đầy những bản nháp tính toán.
Tôi rút ra hai bản, đọc các phương trình vi phân và ma trận nhằng nhịt, sau đó ngẩng lên nhìn hơn chục thùng giấy đang chất thành một bức tường thấp xung quanh. Khối lượng công việc mà ông làm trong hơn 30 năm khiến tôi há hốc miệng.
“Thầy đã làm gì trong phòng thí nghiệm chưa ạ?” Tôi hỏi.
“Không nhiều, bởi vì điều kiện hạn chế, dự án này cũng không nhận được nhiều kinh phí. Quan trọng hơn là trong những mô hình toán học này không có cái nào đáng để làm thí nghiệm cả! Chúng đều không thành công về mặt lý luận, luôn là tới bước cuối cùng em mới phát hiện mình đã sai ngay từ bước đầu tiên. Ngay cả khi làm ra được một mô hình toán học nhất quán về lý thuyết thì vẫn còn khuya mới tạo ra được sét hòn trong phòng thí nghiệm.”
“Thầy còn đang nghiên cứu dự án này không ạ?”
Trương Bân lắc đầu: “Đã dừng từ mấy năm trước rồi, thật trùng hợp đó chính là cái năm mà em lần đầu tới hỏi tôi về sét hòn. Đêm giao thừa năm ấy, tôi vẫn còn đang mắc kẹt trong những tính toán vô vọng, nghe thấy tiếng đồng hồ điểm năm mới vang lên, còn cả tiếng hoan hô của mấy cô cậu học trò, một nỗi buồn chưa từng có đã đè tôi xuống, chết chìm. Tôi lại tới đây, giống như những lần trước, lấy ra cuốn sổ đó từ túi áo mưa, cẩn thận lật từng trang một, và lúc ấy, tôi nhận ra một đạo lý.”
“Là gì vậy ạ?”
Ông cầm cuốn sổ lên, ôm vào ngực: “Nhìn cuốn sổ này, nhớ về đêm giông bão năm sinh nhật tuổi mười bốn của em, em thực sự cho rằng tất cả chuyện này đều nằm trong các định luật vật lý đang có sao?”
Tôi không nói thành lời.
“Chúng ta đều là những người bình thường. Mặc dù chúng ta đang vượt qua nỗ lực thông thường để tìm kiếm, nhưng cuối cùng vẫn là người thường mà thôi, chúng ta chỉ đang suy luận tiếp trong khuôn khổ do Newton, Einstein, Maxwell đặt ra, không đi ra nổi bãi mìn dù chỉ nửa bước. Nếu không thì sẽ giống như bước vào nơi hư ảo không có không khí. Nhưng từ khuôn khổ sẵn có, chúng ta cũng không thể suy luận ra được bất cứ thứ gì.”
Nghe xong những lời đó, tôi cảm thấy mình bị đánh gục như cái ngày đi trên con đường ở Thái Sơn.
Trương Bân nói tiếp: “Nhìn em, tôi thấy chính mình hồi còn trẻ, tôi đã dành nỗ lực lớn nhất để ngăn cản em đi trên con đường nguy hiểm này, nhưng biết là không có tác dụng gì. Em vẫn sẽ đi tiếp. Tôi chỉ muốn nói với em rằng tôi đã làm xong những gì tôi có thể rồi.” Nói xong, ông mệt mỏi ngồi lên một chiếc thùng.
“Thầy Trương, thầy cũng nên đánh giá chính xác về công việc của mình: Chúng ta ám ảnh một thứ gì đó, cố gắng hết sức mình, như vậy là đủ, đó cũng được gọi là thành công rồi,” tôi nói.
“Cảm ơn lời an ủi của em,” ông yếu đuối đáp lại.
“Em cũng tự nhủ với mình rằng khi bản thân tới tuổi của thầy thì cũng sẽ tự an ủi mình như vậy.”
Trương Bân chỉ vào mấy thùng giấy xếp xung quanh. “Những thứ này, và cả mấy cái đĩa kia, em cầm đi, có hứng thú thì mở ra xem, không thích thì bỏ đi. Chúng vốn cũng không có ý nghĩa gì cả… Còn có cuốn sổ này, em cũng cầm nốt đi, nhìn thấy nó là tôi khiếp sợ.”
“Em cảm ơn thầy!” Tôi nói, cổ họng nghẹn lại, sau đó chỉ vào bức ảnh treo trên tường: “Em có thể sao chép bức ảnh này không ạ?”
“Được, nhưng để làm gì?”
“Có lẽ sẽ có một ngày, chúng ta có thể cho thế giới biết rằng cô ấy là người đầu tiên trực tiếp làm các phép đo về sét hòn.”
Trương Bân cẩn thận gỡ bức ảnh trên tường xuống đưa cho tôi: “Cô ấy tên Trịnh Mẫn, tốt nghiệp khóa 63 khoa Vật Lý của Đại học Bắc Kinh.”
Ngày hôm sau, tôi chuyển mấy thùng giấy từ nhà của Trương Bân tới ký túc xá, căn phòng giờ đây chẳng khác nào một nhà kho. Mấy ngày này, tôi dành cả ngày lẫn đêm ngấu nghiến mấy thứ đó. Tôi giống như một người leo núi thiếu kinh nghiệm, kiệt sức khi leo tới một độ cao chưa ai đạt tới, nhưng khi nhìn bốn bề xung quanh, tôi lại thấy những chiếc lều do người đi trước để lại và dấu chân của họ tiếp tục dẫn ngược lên trên. Tới giờ, tôi đã đọc xong ba mô hình toán học do Trương Bân xây dựng, tất cả đều rất tinh vi, trong đó có một mô hình có ý tưởng giống với luận văn tiến sĩ của tôi, chỉ có điều nó hoàn thành trước tôi mười năm. Và điều làm tôi toát mồ hôi hột hơn cả là mấy trang cuối cùng của bản thảo, ông đã chỉ ra những sai lầm của mô hình này, điều mà tôi, Cao Ba và các giáo viên khác trong hội đồng không nhìn ra được. Nhưng thứ mà tôi thấy nhiều nhất vẫn là những mô hình toán học chưa hoàn thiện, trong quá trình xây dựng, Trương Bân đã phát hiện ra sai sót.
Tối nay, trong lúc tôi đang vùi đầu vào đống giấy tờ thì thầy Cao Ba tới tìm tôi. Ông nhìn núi giấy tờ chất đống, lắc đầu.
“Nghe tôi nói này, em muốn cả đời giống như ông ta hả?”
Tôi cười với ông, đáp: “Thầy Cao…”
Ông xua tay: “Tôi không còn là thầy của cậu nữa, có khi sau này còn là đồng nghiệp.”
“Vậy thì em càng dễ nói chuyện hơn rồi. Thực lòng mà nói, em chưa từng thấy một người nào tài năng như thầy. Không hề nịnh bợ đâu ạ, nhưng thứ lỗi cho em nói thẳng, em thấy thầy làm việc luôn thiếu sự kiên trì, ví dụ như bản CAD hệ thống chống sét cho các kiến trúc lần trước, một dự án tốt như vậy chỉ cần bỏ ra thêm chút công sức là đã có thể hoàn thành, vậy mà thầy lại ghét phiền phức nên đem cho người khác.”
“Ha ha, kiên trì như em, cả đời làm một việc mãi mãi không hợp với xu thế thời đại, trong khi thời đại ngày nay, ngoại trừ khoa học cơ bản, các ngành nghiên cứu khác đều nên bị dao sắc chặt đay rối. Lần này, tôi tới đây để chứng minh cho em thấy tôi thiếu kiên trì như thế nào, em còn nhớ lời tôi nói không? Nếu như luận văn của em không được thông qua, tôi sẽ từ chức.”
“Nhưng nó được thông qua rồi ạ.”
“Tôi vẫn sẽ từ chức. Ha ha, em thấy rồi đó, lời hứa này có bao phần là cái bẫy.”
“Sau này thầy đi đâu ạ?”
“Sở nghiên cứu sấm sét của Viện nghiên cứu Khoa học Khí quyển đã mời tôi tới làm sở trưởng. Tôi đã chán ngấy môi trường đại học rồi. Còn em, em đã có dự định gì sau này chưa? Cùng tôi qua đó đi!”
Tôi hứa với thầy rằng mình sẽ suy nghĩ về điều đó. Hai ngày sau, tôi đồng ý với thầy Cao Ba. Tôi không biết nhiều về nơi đó, nhưng trên tất cả, đó là cơ quan nghiên cứu sấm sét lớn nhất cả nước.
Hai đêm trước khi rời trường, khi tôi vẫn đang đọc những bản thảo tính toán đó thì nghe thấy có tiếng người gọi cửa. Đứng trước cửa là thầy Trương.
“Em chuẩn bị rời đi à?” Ông nhìn hành lý của tôi và hỏi.
“Vâng, hôm sau em sẽ đi. Nghe nói thầy đã về hưu ạ!”
Ông gật đầu: “Hôm qua, vừa làm xong thủ tục. Tôi cũng già rồi, chỉ muốn nghỉ ngơi thôi, sống đời này đã mệt lắm rồi.”
Ông ngồi xuống, tôi châm thuốc cho ông, ông im lặng một lúc rồi lên tiếng: “Tôi tới để nói với em một chuyện. Chuyện này chắc chỉ có em mới hiểu được. Em biết điều đau đớn nhất đời tôi là gì không?”
“Em hiểu, thưa thầy, muốn giải thoát khỏi mối tơ vò này quả thực rất khó, đã ba mươi năm rồi. Nhưng ba mươi năm của thầy không chỉ làm mỗi việc đó. Chưa kể, hơn trăm năm qua, những người dùng cả đời để nghiên cứu sét hòn cũng không ít, không ai trong số họ may mắn hơn thầy cả.”
Trương Bân lắc đầu cười: “Em hiểu sai rồi. Tôi đã trải qua nhiều việc hơn em rất nhiều, hiểu biết về khoa học và cuộc sống cũng sâu sắc hơn em, tôi không hề nuối tiếc ba mươi năm nghiên cứu, càng không cảm thấy đau khổ, đúng như em nói, tôi đã dành hết sức mình thì tại sao lại nghĩ không thông cho được?”
Vậy thì là gì? Tôi nghĩ tới những năm tháng ông sống một mình sau khi vợ mất…
Ông có vẻ nhìn ra suy nghĩ của tôi: “Cái chết của Trịnh Mẫn đã giáng một đòn chí tử lên tôi. Tôi nghĩ em cũng hiểu rằng những người như chúng ta, một khi tâm tư bị thứ gì đó chiếm đóng toàn bộ trong một thời gian dài rồi trở thành một phần trong cuộc sống, thì những việc khác trong cuộc sống sẽ chỉ chiếm vị trí thứ hai mà thôi.”
“Vậy còn có thể là gì nữa ạ?” Tôi không giải thích nổi.
Trương Bân cười gượng, lắc đầu: “Thật khó để mở miệng.” Ông rít một hơi thuốc dài. Tôi vẫn chưa hiểu gì cả, còn có việc nào khó nói ở đây nữa ư? Vì tôi và ông có mục tiêu chung, có chung suy nghĩ, nên tôi bất chợt nhận ra.
“Thầy từng nói rằng hơn ba mươi năm nay thầy vẫn không ngừng tìm kiếm sét hòn đúng không ạ?” Tôi hỏi.
Ông thở ra một làn khói dài: “Đúng vậy, sau khi Trịnh Mẫn chết, sức khỏe tôi ngày càng đi xuống, tật ở chân cũng trầm trọng hơn, ngày càng ít ra ngoài, nhưng vẫn không ngừng tìm kiếm, ít nhất chưa từng bỏ qua trận giông bão nào ở khu vực xung quanh.”
“Vậy là…” Tôi dừng lại, trong chốc lát, tôi cảm nhận được toàn bộ nỗi đau của ông.
“Đúng vậy, em đoán đúng rồi đấy, hơn ba mươi năm nay, tôi chưa từng thấy sét hòn.”
So với các hiện tượng tự nhiên bí ẩn khác, sét hòn không phải là quá hiếm, theo điều tra cho thấy, cứ 100 người thì có 1 người khẳng định đã nhìn thấy nó. Nhưng sự xuất hiện của nó không theo bất kỳ quy luật nào, rất ngẫu nhiên và tình cờ, hơn ba mươi năm miệt mài tìm kiếm trong giông bão nhưng chưa thấy thì đúng là chỉ có thể trách số phận quá nghiệt ngã.
Trương Bân kể tiếp: “Hồi còn nhỏ, tôi đã từng đọc một cuốn tiểu thuyết của Nga, kể về một ông chủ của một trang viên trù phú, có thủ vui duy nhất trong cuộc sống là rượu ngon. Một lần nọ, ông mua được một chai rượu ngon vớt từ con thuyền bị đắm cổ xưa của một lữ khách. Trong chai sót lại chút rượu, và sau khi ông ta uống nốt chỗ rượu đó thì thân tâm đều chìm đắm say mê. Lữ khách nói với ông rằng anh ta chỉ vớt được hai chai rượu như vậy trong con thuyền đắm đó, chai còn lại không biết đã trôi dạt tới phương nào. Ông chủ trang viên ban đầu không quan tâm, nhưng dư vị của chai rượu đó khiến ông thao thức ngày đêm, thậm chí ông còn bán cả trang trại và toàn bộ tài sản, chu du khắp đất trời để tìm kiếm chai rượu còn lại. Ông trải qua trăm ngàn đắng cay, đi khắp thế giới, từ ngày trẻ tới khi về già, cuối cùng cũng tìm thấy. Lúc này, ông chỉ còn là tay khất cái bệnh tật, ông uống cạn chai rượu rồi chết trong hạnh phúc.”
“Ông ấy thật may mắn,” tôi nói.
“Ở một khía cạnh nào đó, Trịnh Mẫn cũng là người may mắn.”
Tôi gật đầu, chìm đắm trong suy nghĩ.
Một lúc sau, Trương Bân nói: “Thế nào, đối với sự đau khổ mà tôi vừa nói, em vẫn còn giữ thái độ xa lánh đó sao?”
Tôi đứng dậy, đi đến cửa sổ trông ra khuôn viên bên ngoài tối om: “Không, thầy Trương, em không thể đứng xa ra được, cảm giác đó của thầy đối với em không phải đau khổ, mà là sợ hãi! Nếu thầy muốn em nhìn thấy con đường chúng ta đi có bao nhiêu nguy hiểm thì thầy đã làm được rồi.”
Đúng vậy, ông ấy đã làm được. Tôi có thể chịu đựng được tâm sức cả đời không vì thành tựu gì cả, tôi có thể chịu đựng để vứt bỏ tất cả, cô độc cả đời, thậm chí tôi có thể hy sinh cả tính mạng nếu cần, nhưng tôi không thể chịu nổi việc cả đời này không thể gặp lại nó! Chính lần đầu nhìn thấy nó đã định nghĩa lại cuộc đời tôi, chúng tôi không thể chịu đựng nổi nếu không gặp lại nó! Điều này có thể sẽ khiến người khác khó hiểu nhưng bạn có thể tưởng tượng rằng thủy thủ có thể chịu được việc cả đời không nhìn thấy biển không? Dân leo núi có thể chịu được việc cả đời không nhìn thấy núi tuyết không? Phi công có thể chịu được việc cả đời không thấy bầu trời xanh không?
“Có lẽ,” Trương Bân đứng dậy và nói. “Em có thể khiến chúng ta gặp lại nó lần nữa.”
Tôi mông lung nhìn ra ngoài cửa sổ: “Thầy Trương, em không biết nữa.”
“Nhưng đây là hy vọng cuối cùng trong đời tôi rồi. Tôi nên đi thôi, bức ảnh đó em sao lại xong chưa?”
Tôi sực tỉnh: “Vâng, xong rồi ạ, lẽ ra em đã trả lại sớm cho thầy, nhưng khi tháo ra em đã làm gãy khung nên em muốn mua một cái khung mới lắp vào, nhưng mấy ngày nay em không có thời gian để ra ngoài.”
“Không cần đâu, khung cũ là được rồi.” Ông cầm lấy bức ảnh, đoạn nói: “Mấy hôm nay, tôi luôn cảm thấy trong nhà thiếu đi thứ gì đó.”
Tôi quay lại trước cửa sổ, nhìn bóng dáng thầy hướng dẫn của mình biến mất vào màn đêm, đôi chân của ông khập khiễng hơn bình thường, mỗi bước đi đều rất khó khăn.