Sinh Ra Để Chạy - Chương 07
* * *
13
Kẻ nào quý trọng thân thể mình hơn cả việc chiếm lấy thiên hạ thì có thể giao cho việc cai trị thiên hạ được.
- Lão Tử, Đạo đức kinh
Bác sĩ Joe Vigil, 65 tuổi, đang một mình trực chiến. Ông áp bàn tay quanh cốc cà phê khi chờ đợi luồng sáng đèn pin đầu tiên chiếu xuyên qua rừng về phía mình.
Không còn huấn luyện viên cao cấp thế giới nào khác ở quanh Leadville, bởi lẽ, chẳng vị huấn luyện viên cao cấp nào hiểu nổi điều gì đang diễn ra trong cái nhà thương điên lộ thiên khổng lồ trên rặng núi Rocky này. Những kẻ thích hành xác, lũ khốn đồi bại hoặc bất cứ cái tên nào khác mà họ tự nhận – những người này thì liên quan gì đến chạy bộ chân chính hay chạy thi Olympic? Hầu hết các huấn luyện viên chính quy đều xếp hạng môn chạy bộ siêu dài trong khoảng nằm đâu đó giữa ăn thi và khổ dâm giải trí.
Tuyệt thật! Vigil nghĩ trong lúc đang giậm chân liên tục để chống chọi cái rét. Các người cứ đi ngủ đi, và để cái lũ ngợm này cho tôi. Bởi ông biết chắc rằng lũ người kỳ dị này sắp làm nên một điều gì đó thật khác biệt.
Bí quyết thành công của Vigil nằm ngay trong cái tên (Vigil: Canh gác buổi đêm): không huấn luyện viên nào thận trọng hơn ông trong việc dò tìm những chi tiết nhỏ nhặt quan trọng. Ông vẫn luôn như vậy trong suốt đời mình, kể từ khi còn là một cậu nhóc Latin nhỏ thó loi nhoi chơi bóng bầu dục trong một giải bóng trung học chẳng có nổi mấy người gốc Latin, chứ đừng nói đến những người thấp bé. Joey Vigil không thể đọ cơ bắp với những tảng thịt bên đối phương, vì vậy, ông dùng khoa học để đánh bại họ. Ông nghiên cứu các mẹo đòn bẩy, thúc tới, và tính toán thời gian, tìm cách đặt bàn chân sao cho có thể vọt lên từ tư thế xuống tấn như một cái đe có lò xo nén. Khi tốt nghiệp đại học, cậu nhỏ gốc Latin ấy đã là một hậu vệ hàng đầu trong giải All-Conference. Sau đó, ông chuyển sang điền kinh và sử dụng cái mũi thính như chó săn để trở thành bộ óc vĩ đại nhất trong lịch sử chạy đường dài của nước Mỹ.
Bên cạnh bằng tiến sĩ y khoa và hai bằng thạc sĩ, Vigil còn theo đuổi nghệ thuật thất truyền của môn chạy đường dài, vào sâu tới tận vùng xa xôi hẻo lánh của nước Nga, lên những ngọn núi cao ở Peru, vượt xa khỏi vùng cao nguyên Rift Valley của Kenya. Ông muốn biết tại sao các vận động viên nước rút của Nga lại bị cấm không được chạy bước nào trước khi có thể nhảy xuống từ cái thang cao sáu mét với chân trần, và làm cách nào những đứa trẻ chăn dê sáu tuổi ở Machu Picchu leo được lên đỉnh Andes với một thực đơn chết đói chỉ có sữa chua và thảo dược, và tại sao các vận động viên chạy bộ Nhật Bản được Suzuki và Koide huấn luyện có thể biến chuyển ảo diệu từ đi bộ chậm sang chạy marathon nhanh. Ông đã săn tìm những bậc thầy nhiều tuổi và moi móc từ bộ óc của họ, tìm cách lôi ra những bí mật trước khi biến mất xuống mồ sâu. Đầu ông chẳng khác nào Thư viện Quốc hội về tri thức chạy bộ, mà nhiều trong số đó đã hoàn toàn biến mất trên đời.
Những nghiên cứu của ông đã mang lại thành quả tuyệt vời. Ở trường ông, Đại học Adams State tại Alamosa, Colorado, Vigil đã đứng ra phụ trách chương trình chạy việt dã đang thoi thóp và biến nó thành một nỗi kinh hoàng trong giới chạy bộ. Những tay đua việt dã của trường Adams State đã giành được 26 danh hiệu quốc gia trong 33 năm, trong đó có một cuộc phô diễn sức mạnh phi thường ở giải vô địch toàn quốc: năm 1992, những vận động viên chạy bộ của Vigil đã giành năm vị trí đứng đầu trong Giải vô địch NCAA Division II, một thành tích chưa từng xuất hiện. Vigil cũng đã huấn luyện Pat Porter, giúp anh tám lần giành danh hiệu tại USA Cross Country (nhiều gấp đôi người giành huy chương vàng Olympic Frank Shorter, gấp bốn lần so người giành huy chương bạc Olympic Meb Keflezighi), và ông đạt kỷ lục 14 lần nhận danh hiệu Huấn luyện viên Trường đại học Cấp quốc gia của năm. Năm 1988, Vigil được bầu làm huấn luyện viên cho đội tuyển chạy đường dài Hoa Kỳ đi thi đấu tại Olympic Seoul.
Và điều đó giải thích tại sao, lúc này, Joe Vigil già nua lại là huấn luyện viên duy nhất ở Mỹ đứng run rẩy trong khu rừng lạnh giá vào lúc bốn giờ sáng, chờ đợi được nhìn thấy một cô giáo dạy môn khoa học và bảy người đàn ông mặc váy. Vậy đấy, đối với chạy bộ siêu dài, chẳng điều gì là có vẻ có lý, và khi Vigil không thể giải thích được, thì ông hiểu rằng ông đang bỏ sót điều gì đó hết sức quan trọng.
Chẳng hạn, hãy xem xét so sánh này: tại sao hầu hết tất cả các nữ vận động viên tham gia Leadville đều về đích và chỉ có chưa đến một nửa số vận động viên nam hoàn thành được giải đua này? Mỗi năm, hơn 90% nữ vận động viên chạy bộ mang được mặt thắt lưng hoàn thành giải về nhà, trong khi 50% đám nam giới lại phải tìm cách vin đủ lý do. Ngay cả Ken Chlouber cũng không thể giải thích được tỷ lệ hoàn thành cuộc đua cao ngất trời của nữ giới, nhưng anh ta cũng tận dụng rất giỏi điều này: “Tất cả những người dẫn tốc độ của tôi đều là nữ.” Chlouber nói. “Và họ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.”
Hãy thử một vấn đề khác: nếu bỏ người Tarahumara trong cuộc đua năm ngoái, thì bạn có gì?
Câu trả lời: một người phụ nữ lao qua dải băng vạch đích.
Trong số những ồn ào về người Tarahumara, một trong số ít điểm mà Vigil quan tâm là Christine Gibbons suýt nữa về đích thứ ba. Nếu chiếc xe của Rick Fisher không hỏng quạt tản nhiệt ở Arizona, thì một người phụ nữ chỉ thiếu 31 giây để giành chức vô địch chung cuộc.
Tại sao điều đó có thể xảy ra? Chưa từng có người phụ nữ nào đứng trong tốp 50 người chạy một dặm nhanh nhất thế giới (kỷ lục thế giới cho chạy một dặm của nữ, 4 phút 12 giây, đã bị nam giới đánh đổ từ cách đây một thế kỷ, và bây giờ thì thường xuyên bị đánh đổ bởi các cậu trai trung học). Một phụ nữ có thể len vào vị trí 20 người đứng đầu trong một giải marathon (năm 2003, kỷ lục thế giới của Paula Radcliffe 2 giờ 15 phút 25 giây vẫn chậm hơn 10 phút so với kỷ lục thế giới của nam giới 2 giờ 04 phút 55 giây do Paul Tergat xác lập). Nhưng trong các cuộc đua siêu dài, phụ nữ lại giành được nhiều giải cao. Tại sao, Vigil thắc mắc, mà khoảng cách giữa các nhà vô địch nam và nữ lại nhỏ đi khi cuộc đua kéo dài thêm – đáng nhẽ phải ngược lại mới đúng?
Chạy siêu dài dường như nằm trong một vũ trụ khác, nơi mọi định luật trên Trái đất đều bị vô hiệu hóa: nữ giới mạnh hơn nam giới; người già mạnh hơn người trẻ; những gã sống thời đồ đá đi dép xăng đan lại mạnh hơn hết thảy. Và cự ly chạy tổng cộng nữa chứ! Sức ép đè lên chân họ vượt qua mọi kỷ lục. Chạy 100 dặm mỗi tuần đáng nhẽ phải là đường đi thẳng vào bệnh viện chấn thương chỉnh hình, nhưng những người chạy bộ siêu dài kỳ quặc này lại thực hiện cự ly đó trong một ngày. Vài người trong số họ còn chạy gấp đôi số đó mỗi tuần khi tập luyện và vẫn chẳng bị đau. Liệu có phải môn chạy siêu dài có tính tự chọn lọc, Vigil băn khoăn, có phải môn này chỉ thu hút những người chạy bộ với cơ thể không thể bị phá vỡ? Hay những người chạy bộ siêu dài đã tìm ra bí quyết để chạy được số dặm không tưởng?
Vì vậy, Joe Vigil đã phải lê thân mình ra khỏi giường, ném vào xe một bình giữ nhiệt chứa cà phê, và lái xe xuyên màn đêm để đến xem những thiên tài về cơ thể học này trình diễn. Ông nghi ngờ rằng, những người chạy bộ siêu dài cừ khôi nhất thế giới đang sắp sửa tìm ra được những bí mật mà người Tarahumara chưa từng quên lãng. Giả thuyết của Vigil đã đưa ông đến với một quyết định rất quan trọng, một điều có thể khiến cuộc sống của ông đảo lộn, và ông hy vọng, có thể thay đổi cuộc sống của hàng triệu người khác nữa. Ông cần phải nhìn thấy người Tarahumara để xác nhận một điều. Đó không phải là tốc độ của họ; ông còn hiểu rõ chân cẳng của họ hơn chính bản thân họ. Điều mà Vigil thèm khát, là nhìn được vào trong đầu của họ.
Bất thình lình, ông hít sâu một hơi. Có thứ gì đó vừa lướt ra khỏi những rặng cây. Thứ đó trông giống như những con ma… hay nhà ảo thuật, hiện ra từ một làn khói.
Ngay từ khi tiếng súng khai cuộc vang lên, Đội Tarahumara đã khiến tất cả bất ngờ. Thay vì đeo bám ở cuối đoàn như hai năm vừa qua, họ lao lên theo đội hình, nhảy lên vỉa hè Sixth Street để len qua đám đông và nắm các vị trí dẫn đầu.
Họ chạy nhanh – Có vẻ quá nhanh! Don Kardong, vận động viên marathon Olympic 1976 và là tay bút kỳ cựu cho tờ Runner’s World, thầm nghĩ khi quan sát từ bên lề. Năm ngoái, Victoriano đã thể hiện sự khôn ngoan khi kiềm chế bằng cách chậm rãi vượt lên từ vị trí cuối cùng lên vị trí thứ nhất, tăng tốc dần dần khi đến gần vạch đích. Đó là cách để chạy cự ly 100 dặm.
Nhưng Manuel Luna đã bỏ ra cả năm trời để nhớ lại cách chạy đua của những người không thuộc bộ tộc này, và anh đã thực hiện tốt nhiệm vụ phổ biến lại cho đồng đội. Anh ta nói với họ rằng, đường chạy mở rộng dưới ánh đèn và rồi bất ngờ thắt cổ chai vào một lối mòn độc đạo tối tăm khi tiến vào rừng. Nếu không ở trong nhóm chạy trước, bạn sẽ kẹt lại sau một bức tường người vì các tay đua sẽ dừng lại và loay hoay với đèn pin, sau đó sẽ kẹt hàng một trên lối mòn. Tốt nhất là tăng tốc sớm để tránh chỗ kẹt, Luna khuyên đồng đội, rồi hạ tốc độ xuống sau.
Bất chấp tốc độ nguy hiểm đó, Johnny Sandoval đến từ thị trấn Gypsum, Colorado gần đó, bám chặt Martimano Cervantes và Juan Herrera. Mặc mọi người phát điên lên vì Ann và đám người Tarahumara, anh ta nghĩ, mình sẽ lẻn lên giành chiến thắng. Sau khi về thứ chín trong giải năm ngoái với thời gian 21 giờ 45 phút, Sandoval đã có một năm luyện tập tuyệt vời. Anh đã lặng lẽ đến Leadville suốt mùa hè, chạy từng chặng của cuộc đua nhiều lần cho tới khi thuộc lòng hết các lối rẽ ngoặt, từng cái rãnh, và các điểm băng qua suối. Chạy trong 19 giờ thì có thể chiến thắng, Sandoval tính toán, và đã sẵn sàng để thực hiện điều này.
Ann Trason dự định sẽ dẫn đầu, nhưng tốc độ tám phút một dặm ngay khi vừa xuất phát thì quả là điên rồ. Vì vậy, cô hài lòng khi giữ những ánh đèn nhấp nhô của Đội Tarahumara trong tầm mắt khi họ tiến vào khu rừng quanh hồ Turquoise, tự tin rằng cô sẽ dần bắt kịp họ không lâu sau đó. Đường mòn phía trước tối tăm, đầy đá và rễ cây chằng chịt, và điều này phù hợp với một trong những thế mạnh dị thường của Ann: cô yêu các buổi chạy đêm vô cùng. Ngay từ hồi đại học, nửa đêm chính là khoảng thời gian yêu thích để cô cầm một chiếc đèn pin, rủ thêm một người bạn và chạy quanh khuôn viên tĩnh lặng, khi cả thế giới thu lại trong ánh sáng lấp lóa của ngọn đèn bé nhỏ. Nếu ai đó có thể rút thời gian bằng cách chạy như mù trên một con đường mòn hiểm hóc, thì đó chính là Ann.
Khi tới trạm tiếp tế đầu tiên, Sandoval và những người Tarahumara đã bứt lên với khoảng cách hơn nửa dặm. Sandoval ghi danh tại trạm, xem thời gian – khoảng 1 giờ 55 phút cho 13,5 dặm – và lao ngay trở lại đường mòn. Tuy nhiên, những người Tarahumara, lại rẽ vào bãi đỗ xe và chạy về phía chiếc xe thùng của Rick Fisher. Họ cởi tung mấy đôi giày Rockport màu vàng như thể trong đó đầy kiến lửa. Rick và Kitty, đúng theo kế hoạch, đang đứng đó với các đôi huaraches của họ. Trình diễn sản phẩm như vậy là đủ rồi.
Những người Tarahumara quỳ xuống, cuốn dây da vòng quanh phần mắt cá, rồi vòng cao lên bắp chân, điều chỉnh độ chặt lỏng như thể lên dây đàn ghi ta. Đó là cả một nghệ thuật, tinh chỉnh vừa vặn một miếng cao su dưới lòng bàn chân chỉ với một sợi dây da sao cho nó không xộc xệch hay lỏng lẻo trong suốt 87 dặm đường mòn đầy sỏi đá. Rồi họ bật dậy và chạy đi, bám sát gót Johnny Sandoval. Khi Ann Trason tới trạm tiếp tế, Martimano Cervantes và Juan Herrera đã khuất khỏi tầm mắt.
Tốc độ này thì bệnh thật! Sandoval nghĩ, khi ngoái lại nhìn. Có ai nói cho mấy gã này biết rằng ở đây trời vừa mưa liền hai tuần qua không? Sandoval biết rằng họ đang hướng thẳng tới một vùng sình nhớp nháp quanh các bãi lầy Twin Lakes và dọc xuống nửa sau đầy bùn của Hope Pass. Dòng sông Arkansas đang gầm vang sẽ là một vấn đề rắc rối; họ sẽ phải nhích lên, tay nọ chồng tay kia, dọc theo một sợi dây an toàn để vượt qua, rồi bò lên đỉnh Hope Pass ở độ cao 600 m. Sau đó chạy vòng lại và lặp lại đường đua một lần nữa để quay về đích.
Được rồi, thế này là tự sát! Sandoval quyết định khi anh vượt qua mức 23,5 dặm trong 3 giờ 20 phút. Mình sẽ giữ sức và hạ gục mấy gã này khi họ xuống sức. Anh ta để Martimano Cervantes và Juan Herrera chạy trước – và gần như ngay lập tức, bị Ann Trason vượt qua. Cô ta chui ra từ chỗ quái quỷ nào vậy? Ann phải biết rõ chứ; đây là tốc độ đi tới diệt vong.
Tới điểm đánh dấu 30 dặm ở khu cắm trại Half Moon, Martimano và Juan đã sẵn sàng ăn sáng. Kitty Williams đặt vào tay họ những cái bánh burrito nhân đậu mỏng dính. Họ lại vui vẻ vừa chạy vừa ăn và nhanh chóng bị mảng rừng già quanh núi Elbert nuốt chửng.
Ann chạy tới đó chỉ sau vài phút, bực mình và quát tháo. “Carl đâu? Anh ta ở chỗ quái nào vậy?” Lúc đó đã là 8 giờ 20 phút sáng và cô đã sẵn sàng giảm bớt cân nặng bằng cách bỏ lại đèn đeo trán cùng áo khoác. Nhưng mặc dù cô chạy chậm hơn nhiều so với tốc độ kỷ lục, chồng cô vẫn chưa tới được trạm tiếp tế.
Kệ xác anh ta; Ann giữ lại đống đồ chạy đêm, và biến mất theo lối mòn của những người Tarahumara vô hình.
Ở dặm thứ 40, đám đông đứng vòng quanh căn nhà trạm cứu hỏa bằng gỗ cổ kính trong ngôi làng Twin Lakes với các túp lều nhỏ, nhìn ngó đồng hồ. Những tay đua dẫn đầu chắc sẽ không xuất hiện sau khoảng…
“Cô ấy kìa!”
Ann vừa lên đến đỉnh đồi. Năm trước, Victoriano phải mất 7 giờ và 12 phút để tới được đây; Ann thì chưa cần tới sáu tiếng. “Chưa từng có phụ nữ nào dẫn đầu đoàn đua ở vị trí này của giải.” Scott Tinley nói với vẻ nghi hoặc, anh là người hai lần vô địch cuộc thi ba môn phối hợp Ironman, lúc đó đang làm bình luận viên truyền hình cho chương trình Wide World of Sports của đài ABC. “Chúng ta đang chứng kiến cuộc trình diễn khó tin của lòng can đảm trong thể thao hiện đại.”
Chưa đầy một phút sau, Martimano và Juan tiến ra khỏi rặng cây và lao xuống đồi theo cô gái. Tony Post của hãng giày Rockport bị choáng ngợp bởi cảnh đó, ông chẳng màng đến khoảnh khắc đội của ông không những đang thua mà còn quăng đi đôi giày do chính ông trả tiền từ lúc nào. “Thật sửng sốt!” Post nói, ông từng là một vận động viên marathon có thứ hạng quốc gia, với kỷ lục khoảng hơn 2 giờ 20 phút. “Chúng tôi kinh ngạc, nhìn người phụ nữ này vươn lên nắm vị trí kiểm soát.”
Thật may, chồng của Ann lần này đã có mặt đúng giờ. Anh đưa cho Ann một quả chuối, rồi dẫn cô vào trong trạm cứu hỏa để thực hiện kiểm tra y tế. Tất cả các tay đua giải Leadville phải kiểm tra mạch và cân nặng ở điểm mốc 40 dặm, vì cân nặng sụt giảm quá nhanh là dấu hiệu sớm của tình trạng mất nước nghiêm trọng. Chỉ khi bác sĩ Perna cho phép, họ mới được gieo mình vào cái cối xay thịt phía trước: ở đó, lừng lững bên kia bãi lầy, là cuộc leo gần 800 m lên đỉnh Hope Pass.
Ann tranh thủ ăn chuối trong khi một cô y tá tên là Cindy Corbin điều chỉnh cái cân. Chỉ một lát sau, Martimano bước lên chiếc cân bên cạnh Ann.
“¿Cómo está, Mamá?” Kitty Williams hỏi Martimano, đặt tay lên lưng anh để khích lệ. Anh cảm thấy thế nào sau gần sáu giờ liên tục chạy trên đồi cao ngất, với tốc độ nhanh không tưởng?
“Hãy hỏi xem anh ta cảm thấy thế nào khi bị phụ nữ đánh bại.” Ann nói vọng sang. Vài tiếng cười e dè cất lên trong phòng, nhưng Ann thì không; cô gườm gườm nhìn Martimano như thể cô là võ sĩ đai đen còn anh ta là chồng gạch. Kitty nhìn lại với ánh mắt đe dọa, nhưng Ann lờ đi và tiếp tục khóa cặp mắt vào Martimano. Martimano quay sang nhìn Kitty với vẻ ngơ ngác, nhưng Kitty quyết định không dịch lại. Trong suốt nhiều năm chạy bộ siêu dài và chạy dẫn tốc độ cho cha mình, đây là lần đầu tiên Kitty từng nghe thấy một tay đua chế nhạo một tay đua khác.
Không giống như hầu hết mọi người trong phòng lúc đó nghe thấy, một đoạn băng miêu tả sự kiện này sau đó cho thấy điều Ann nói thực ra là: “Hãy hỏi xem anh ta cảm thấy thế nào khi thi đấu với một phụ nữ.” Nhưng dù cho lời lẽ chính xác của cô có thể còn phải tranh cãi, nhưng thái độ của cô thì không thể nhầm lẫn: Ann không chỉ chiến thắng bằng cách nỗ lực chạy, cô chiến thắng bằng nỗ lực ganh đua. Cuộc đọ sức này sẽ trở thành trận đấu sinh tử.
Khi Martimano xuống khỏi chiếc cân, Ann len qua và vội lao ra cửa. Cô cài chiếc túi bụng – vừa chứa thêm gel carbohydrate, găng tay, và một chiếc áo mưa, đề phòng gặp phải mưa tuyết hoặc những đợt gió lạnh cóng trên đỉnh rặng cây – và bắt đầu chạy xuôi xuống con đường hướng về ngọn núi tuyết phủ. Cô chạy ra quá nhanh, Martimano và Juan vẫn còn đang cắn mấy lát cam trong khi Ann đã đi tới chỗ ngoặt và khuất khỏi tầm mắt.
Chuyện gì xảy ra với cô vậy? Câu nói móc mỉa, rồi việc ra đi trong vội vã – Ann còn chẳng có thời gian thay áo, tất khô, hay nhồi thêm calo xuống cổ họng. Và hơn nữa là tại sao cô lại vượt lên dẫn đầu? Dặm thứ 40 mới chỉ là hiệp đầu trong một cuộc chiến rất dài. Khi vọt lên dẫn đầu, bạn sẽ dễ bị hạ; bạn từ bỏ hết mọi yếu tố bất ngờ, và trở thành tù nhân của tốc độ của chính mình. Ngay cả những đứa trẻ học cấp hai thi chạy cự ly một dặm cũng hiểu rằng chiến thuật thông minh nhất là ngồi trên vai của người dẫn đầu, chỉ chạy nhanh hết sức khi bắt buộc phải làm, sau đó tăng tốc và vượt lên ở vòng cuối cùng.
Một ví dụ kinh điển: Steve Prefontaine. Pre tăng tốc quá nhanh hai lần trong cùng một cuộc đua ở kỳ Olympic năm 1972; cả hai lần, anh ta đều bị bắt kịp. Ở vòng cuối, Pre chẳng còn lại gì và để tuột mất huy chương khi về đích thứ tư. Trận bại lịch sử đó đã cho ta một bài học: không ai từ bỏ vị trí truy đuổi nếu như không bị buộc phải làm như vậy. Trừ khi bạn là kẻ ngốc, hoặc một kẻ liều mạng – hoặc bạn là Garry Kasparov.
Trong giải Vô địch Cờ vua Thế giới năm 1990, Kasparov mắc một lỗi tai hại và mất luôn quân hậu ngay ở đầu ván cờ quyết định. Các kiện tướng cờ vua khắp thế giới rên lên đau đớn; tay chơi trên bàn cờ nay trở thành mồi ngon để bị triệt hạ (một người quan sát kém lịch thiệp của tờ Thời báo New York nhạo báng). Nhưng, đó không phải là lỗi; Kasparov đã cố tình hy sinh quân cờ mạnh nhất của mình để có được lợi thế tâm lý mạnh hơn nhiều. Anh cực kỳ lợi hại khi bị dồn đến chân tường, bị ép phải tung ra những đòn hiểm ác, và trở nên ngẫu hứng để tìm lối thoát. Anatoly Karpov, đối thủ xứng tầm của anh, đã quá bảo thủ khi dồn ép Kasparov ngay từ đầu ván đấu, và Kasparov đã tự tạo áp lực lên bản thân mình bằng canh bạc với quân hậu – và giành chiến thắng.
Đó là điều mà Ann đang làm. Thay vì săn đuổi những người Tarahumara, cô đã lựa chọn chiến lược đầy rủi ro, nhưng cũng tràn đầy hứng khởi, đó là để người Tarahumara phải săn đuổi mình. Xét cho cùng thì, ai thèm muốn chiến thắng hơn: con vật ăn thịt hay con mồi? Con sư tử có thể thất bại và trở lại cuộc săn vào một ngày khác, nhưng con linh dương thì chỉ được sai sót đúng một lần. Để đánh bại những người Tarahumara, Ann biết rằng cô cần nhiều hơn là sức mạnh ý chí: cô cần nỗi sợ. Khi vượt lên dẫn đầu, bất kỳ tiếng răng rắc của cành cây nào phía sau lưng cũng sẽ khua cô nhanh hơn về vạch đích.
“Đứng vào vị trí dẫn đầu đồng nghĩa với việc hành động thật dữ dằn và phải thật tự tin.” Roger Bannister đã có lần ghi chép. “Nhưng nỗi sợ cũng đóng vai trò trong đó… phải tuyệt đối không được lơi lỏng, và phải để sự thận trọng tan đi theo gió.”
Ann có đủ sự dữ dằn và tự tin. Giờ đây, cô đã quẳng đi hết thận trọng và để nỗi sợ trỗi lên cầm cương. Lần đầu tiên, chạy bộ siêu dài được chứng kiến canh bạc với quân hậu.
* * *
14
Cô ấy thật điên rồ! Cô ấy… thật đáng sợ.
Huấn luyện viên Vigil là một người luôn bị ám ảnh bởi các dữ liệu khô khan, nhưng khi chứng kiến Ann lao đi trên rặng Rocky với kế hoạch liều mạng của mình, ông lại thấy yêu cái thực tế rằng chạy bộ siêu dài chẳng có khoa học gì hết, không có sách vở, không có hướng dẫn tập luyện, và chẳng có kiến thức phổ thông. Chính cái kiểu tự sáng tạo hoàn toàn tự do mới đem lại những bước đột phá, và Vigil hiểu điều này (Columbus, ban nhạc The Beatles, hay Bill Gates chắc cũng hân hoan tán thành). Ann Trason cùng đồng bọn như những nhà khoa học điên khùng quậy phá với đống chai lọ trong phòng thí nghiệm dưới lòng đất, lờ đi tất thảy trong môn thể thao này và được tự ý thách thức tất cả các nguyên tắc đã từng biết về giày dép, thức ăn, cơ sinh học, cường độ tập luyện… tất cả mọi thứ.
Và bất kỳ đột phá nào họ tìm ra cũng đều có lý. Với những người chạy bộ siêu dài, Vigil luôn cảm thấy nhẹ nhõm như đang làm việc với mẫu vật thí nghiệm thuần khiết nhất. Ông không bị lừa bịp bởi những trò biểu diễn siêu năng lực tầm phào, như sức bền bỉ “thần kỳ” của các tay đua xe đạp giải Tour de France, hay sức mạnh phi thường của một tay chày đầu quả dưa bất thình lình đánh toàn những cú home-run ăn điểm, hay tốc độ bùng nổ của những nữ vận động viên chạy nước rút giành được năm huy chương vàng trong một kỳ Olympic trước khi vào tù vì gian lận sử dụng steroid. “Ngay cả nụ cười tươi sáng nhất,” một người quan sát nói về nỗi nhục nhã ê chề của nữ hoàng điền kinh Marion Jones, “cũng có thể đang che giấu một lời nói dối.”
Vậy, ta có thể tin vào ai? Dễ thôi, nụ cười của những gã khùng chạy trong rừng.
Những người chạy bộ siêu dài chẳng có lý do gì để gian lận, vì họ chẳng đạt được lợi lộc gì: không danh tiếng, chẳng giàu sang, không huy chương chiến thắng. Chẳng ai biết họ là ai, hay quan tâm xem ai chiến thắng trong cuộc du ngoạn kỳ lạ trong rừng của họ. Họ còn chẳng giành được giải thưởng bằng tiền; tất cả những gì bạn giành được khi chiến thắng trong một cuộc chạy đua siêu dài là cái mặt thắt lưng giống y như của người về đích thứ bét. Vì thế, là một nhà khoa học, Vigil có thể tin tưởng vào những dữ liệu từ một cuộc đua siêu marathon; và với tư cách một người hâm mộ, ông có thể tận hưởng cuộc trình diễn mà không hề có chút coi thường hay nghi hoặc. Ann Trason không có EPO (hormone dùng để doping máu) trong máu, không có máu mua trộm giấu trong tủ lạnh, và chẳng có các ống tiêm steroid đồng hóa mua từ Đông Âu trong tài khoản FedEx.
Vigil biết rằng nếu ông có thể hiểu được Ann Trason, ông sẽ biết một người cừ khôi có thể làm nên điều gì. Nhưng nếu có thể hiểu được người Tarahumara, ông sẽ biết tất cả mọi người có thể làm gì.
Ann hít từng hơi thở sâu và run bắn. Lượt chạy thúc lên đỉnh Hope Pass quả thật đau đớn, nhưng cô liên tục tự nhắc nhở mình rằng từ lần Carl chửi mắng cô, chưa ai từng đánh bại cô trong một cuộc leo dốc nữa. Khoảng hai năm trước, cô và Carl đang chạy trong một ngày mưa, Ann bắt đầu cằn nhằn về ngọn đồi trơn trượt, tưởng chừng như kéo dài mãi phía trước. Carl mệt mỏi vì phải nghe phàn nàn nên đã rủa xả cô bằng từ ngữ thậm tệ nhất mà anh có thể nghĩ ra.
“Đồ hèn!” Ann sau này kể lại. “Đồ hèn! Ngay từ khi đó, tôi quyết định sẽ tập luyện để trở thành người leo dốc giỏi hơn anh ta.” Và không chỉ giỏi hơn Carl, mà phải là hơn bất kỳ ai khác; Ann đã biến mình thành một con sơn dương leo dốc khoẻ tới mức các con dốc trở thành nơi yêu thích của cô để tung ra đòn quyết định và bứt phá trong các cuộc đua.
Nhưng giờ đây, khi tiến gần tới đỉnh Hope Pass, cô liếc lại phía sau và thấy Martimano và Juan đang từ từ rút ngắn khoảng cách, lướt đi nhẹ nhàng trong những tấm áo choàng phấp phới quanh mình.
“Chúa ơi!” Ann hổn hển. Cô đang cúi gập người về phía trước tới mức gần như có thể lôi mình lên dốc bằng tay. “Tôi không hiểu tại sao họ làm được như vậy.”
Xa hơn chút nữa phía dưới núi, Manuel Luna và phần còn lại của Đội Tarahumara cũng đang đuổi theo. Họ bị tản ra trong những dặm đầu tiên bởi tốc độ nhanh đến giật mình, nhưng lúc này – như một đám chất nguyên sinh của người ngoài hành tinh tụ lại và mạnh hơn mỗi khi bạn đập tan chúng ra thành từng mảnh – họ lại đang khóa chặt lại thành đội hình sau lưng Manuel Luna.
“Chúa ơi!” Ann thốt lên lần nữa.
Cuối cùng, cô cũng lên tới đỉnh. Quang cảnh thật hùng vĩ; nếu Ann quay người lại, cô có thể nhìn thấy toàn bộ 45 dặm đầy cây dại trải dài từ chỗ cô đứng tới tận Leadville. Nhưng cô thậm chí còn chẳng dừng lại để uống lấy một ngụm nước. Cô đang có trong tay con át chủ bài, và cô phải dùng tới nó ngay bây giờ. Cô bị chóng mặt vì không khí loãng và hai gân kheo đang gào thét, nhưng Ann dấn bước thẳng qua đỉnh và bắt đầu rảo chân xuống dốc.
Đây là một biệt tài của cô: dùng địa hình để hồi phục khi đang di chuyển. Sau lượt đổ dốc đứng đầu tiên, đợt xuống dốc ở mặt lưng núi nhanh chóng chuyển thành quãng ngoặt quay đầu bằng phẳng hơn, và Ann có thể ngả người ra, lỏng bớt chân, và thả mình để trọng lực làm việc. Một thoáng sau, cô đã bắt đầu cảm thấy những chỗ giật giật ở bắp chân dịu bớt và sức mạnh dần trở lại với phần đùi. Khi tới đáy con dốc, đầu cô đã lại ngẩng cao và tia sáng lấp lánh lại xuất hiện trong cặp mắt báo.
Đã đến lúc bật động cơ phản lực. Ann rẽ khỏi lối mòn lầy lội và tiến lên mặt đường cứng rắn, đôi chân cô guồng nhanh và lỏng khỏi hông khi cô tăng tốc vào ba dặm cuối trước khi tới điểm quay đầu.
Trong khi đó, Juan và Martimano lại bị phân tâm một chút. Ngay khi vừa qua khỏi rặng cây phía trên, họ giật mình nhìn thấy một đàn quái vật kỳ dị, lông lá – trong đó có cả súc vật. “XÚP ĐÂY, CÁC ANH!” Một giọng khàn khàn từ đâu đó trong đàn quái thú hướng về phía những người Tarahumara đang ngơ ngác. Những người Tarahumara vừa trạm chán lần đầu với một bộ lạc man dại khác: nhóm Hopeless Crew.
12 năm trước, Ken Chlouber đã vận động đủ láng giềng để lập ra hơn nửa tá trạm tiếp tế, nhưng từ chối không đưa ai lên đỉnh Hope Pass; ngay cả gã thợ mỏ gai góc vốn vui thích với tỷ lệ nhập viện cao của giải đua này cũng cho rằng việc làm đó là bất nhân. Một người tình nguyện trên Hope Pass sẽ buộc phải đưa đủ đồ tiếp tế lên núi để cho đoàn người chạy bộ bệ rạc lần lượt kéo nhau lên ăn, uống, sơ cứu, và phải cắm trại hai đêm trên đỉnh một ngọn núi tuyết với những cơn gió mạnh thổi ào ào. Không thể nào; nếu Ken đưa bất kỳ ai lên đó, anh ta sẽ phải trả cả núi tiền nếu người đó không bao giờ đi xuống.
May thay, một nhóm nông dân chăn lạc đà không bướu ở Leadville nhún vai và nói, ầy, có quái gì đâu. Nghe như một buổi tiệc tùng vậy. Họ chất lên lưng lũ lạc đà đủ thức ăn và rượu để sống sót hết cuối tuần, và cắm cọc dựng lều ở độ cao gần 3.900 m. Từ đó trở đi, nhóm Hopeless Crew phát triển thêm và trở thành một đội tám mươi mấy con người mạnh mẽ gồm cả chủ lạc đà và bạn bè của họ. Trong hai ngày, họ chống chọi với những trận gió dữ đội và những ngón tay bị bỏng lạnh để cung cấp đồ cứu thương và xúp nóng, đưa những tay đua bị chấn thương xuống bằng lạc đà, và họ vẫn tiệc tùng trong suốt thời gian đó như một bộ tộc người tuyết dễ thương. “Hope Pass là một nơi khủng khiếp kể cả trong một ngày đẹp trời.” Ken nói. “Nếu không có lũ lạc đà đó, chúng tôi hẳn đã mất rất nhiều người.”
Juan và Martimano rụt rè đập tay đáp trả khi họ chạy qua đám Hopeless Crew đã khàn cả giọng. Họ dừng lại để uống nước, khu trại của đám dân du mục vẫn trong tầm mắt (và cả mấy cốc mì rất ngon mà ai đó dúi vào tay họ nữa), rồi nhanh chân chạy xuống mặt sau quả núi. Ann đã hoàn toàn ra khỏi tầm mắt.
Ann tới mốc 50 dặm vào lúc 12 giờ 05 trưa, nhanh hơn gần hai giờ so với thời gian của Victoriano năm ngoái. Carl đưa thêm cho cô đồ uống thể thao và gel carbohydrate Cytomax, rồi đeo cái túi bụng của mình lên và thắt nút dây giày. Theo luật của giải Leadville, một “cửu vạn” có thể chạy cùng với một tay đua trong 50 dặm sau, đồng nghĩa với việc Ann sẽ có đội hỗ trợ ngay bên mình từ đây cho đến tận vạch đích.
Người dẫn tốc độ tốt có thể trợ giúp rất nhiều trong cuộc đua siêu dài, và Ann có được một trong những người giỏi nhất: Carl không chỉ đủ nhanh để hối thúc cô, mà còn đủ dày dạn kinh nghiệm để kiểm soát trong trường hợp đầu óc của Ann mất tỉnh táo. Sau khoảng 20 giờ chạy bộ liên tục, một tay đua siêu dài có thể bị tê liệt đầu óc đến mức không thay nổi pin cho đèn đeo trán, hoặc nhầm lẫn các chỗ đánh dấu đường mòn, và thậm chí, như trong trường hợp không may của một tay đua giải Badwater năm 2005, nhầm lẫn rằng cơn nhu động ruột sắp xảy ra, trong khi nó lại đang thực sự diễn ra rồi.
Và đó vẫn là các tay đua còn tỉnh táo. Đối với những người còn lại, ảo giác không có gì xa lạ; một người chạy bộ siêu dài đã từng liên tục hò hét và nhảy tránh vào rừng cây mỗi khi nhìn thấy một ánh đèn pin, vì cho rằng đó là một đoàn tàu đang chạy tới. Một người khác lại vui vẻ với người đồng hành là một cô nàng nóng bỏng mặc bộ bikini màu bạc, trượt trên giày patin song hành với anh ta nhiều dặm liền dọc theo Thung lũng Chết cho tới khi cô ta tan vào màn hư ảo của cái nóng. Người ta nói rằng trong năm đó tại giải Badwater, có sáu trong số 20 tay đua gặp phải ảo giác, bao gồm cả một người nhìn thấy các xác chết đang phân huỷ trên đường và “quái vật chuột biến đổi gien” bò trên đường nhựa. Một người dẫn tốc độ hoảng hồn sau khi cô thấy tay đua của mình chăm chú nhìn vào khoảng trống và nói với không khí rằng: “Tôi biết bạn không phải là thật.”
Vì vậy, một người dẫn tốc độ bền bỉ có thể cứu vãn cuộc đua của bạn; một người dẫn tốc độ tỉnh táo có thể giữ tính mạng cho bạn. Tiếc thay cho Martimano, lúc đó, hy vọng lớn nhất của anh là gã tóc bù xù kỳ quặc mà anh gặp trong thị trấn sẽ xuất hiện – và thực sự có thể chạy được.
Đêm trước ngày đua, Rick Fisher đã dẫn Đội Tarahumara đi ăn mì spaghetti tại sảnh VFW của thị trấn Leadville, hy vọng có thể tuyển mộ được vài người dẫn tốc độ. Đây không phải điều dễ dàng; dẫn tốc độ rất khó và chẳng được ai để tâm, thông thường chỉ có người thân trong gia đình, những gã ngu ngốc, và bạn cực kỳ thân thiết mới bị dụ dỗ làm việc này. Nhận làm người dẫn tốc độ đồng nghĩa với việc đứng run rẩy giữa nơi hẻo lánh hàng giờ liền cho tới khi tay đua của bạn xuất hiện, sau đó xuất phát lúc hoàng hôn và tham gia một cuộc chạy xuyên đêm qua các ngọn núi heo hút. Bạn sẽ đổ máu trên ống chân, nôn oẹ xuống giày, và thậm chí chẳng nhận được một chiếc áo giải mặc dù hoàn thành hai cuộc marathon liên tục trong một đêm. Các yêu cầu của công việc này bao gồm cả việc phải thức canh trong khi tay đua của bạn tranh thủ chợp mắt giữa đống bùn lầy; chọc thủng một vết rộp giữa khe mông của cô ta bằng móng tay bạn; nhường áo khoác ngay cả khi bạn đang đánh đàn răng, bởi vì môi của cô ta tím ngắt.
Trong bữa tối với món spaghetti, Martimano liên tục đánh mắt với một người dân bản địa tóc dài và chẳng hiểu sao, gã này cười phá lên. Martimano cũng cười; anh thấy gã tóc xù kia hay ho và ngộ nghĩnh. “Tôi chạy cùng nhé, người anh em!” Tóc Xù nói. “Anh có hiểu không đấy? Tú và yo. Anh mà cần cửu vạn, thì có tôi đây.”
“Ôi, ôi, gượm đã!” Fisher chen ngang. “Anh chắc là mình chạy đủ nhanh để theo những người này chứ?”
“Anh có mang lại ân huệ gì cho tôi đâu!” Tóc Xù nhún vai. “Anh còn có ai đang xếp hàng nhận làm việc này nữa chắc?”
“Ờ!” Fisher nói. “Đành vậy.”
Và đúng như đã hứa, Tóc Xù đang hú hét và vẫy tay ở trạm tiếp tế vào buổi chiều hôm sau, khi Juan và Martimano chạy tới điểm quay đầu ở mốc 50 dặm. Họ uống một hơi dài nước mát, lấy một ít pinole và bánh burritos nhân đậu mỏng từ Kitty Williams. Rick Fisher cũng đã kiếm được một người dẫn tốc độ khác, một người chạy siêu dài thuộc loại cừ khôi đến từ San Diego, cũng đã từng học theo cách thức của người Tarahumara từ lâu. Bốn người chạy bộ trao đổi những cái bắt tay kiểu Tarahumara – khẽ chạm các đầu ngón tay – và quay lại hướng về Hope Pass. Ann đã khuất khỏi tầm mắt.
“Thắng yên vào nào!” Tóc Xù nói. “Hãy cùng đi bắt mụ bruja.”
Juan và Martimano hầu như chẳng hiểu anh ta nói gì, nhưng nắm được đúng ý: Tóc Xù đang gọi Ann là một mụ phù thuỷ. Họ nhìn kỹ lại xem anh ta có nói thật hay không, rồi quyết định rằng anh ta đang đùa cợt, và bắt đầu cười to. Gã này đúng là một cú hích tốt.
“Phải đấy, cô ta là bruja, nhưng vậy cũng hay.” Tóc Xù nói tiếp. “Chúng ta có các mojo mạnh hơn. Các anh có hiểu từ đó không, mojo? Không à? Chẳng sao! Chúng ta sẽ săn bruja đó như một con hươu. Như một con venado. Đúng vậy, venado. Hiểu chứ? Ta sẽ săn đuổi bruja như một con venado. Poco a poco – dần từng tí một.”
Nhưng bruja không chùn bước. Tới thời điểm lên đỉnh Hope Pass lần thứ hai, Ann đã nới rộng khoảng cách từ bốn phút lên tận bảy phút. “Tôi đang hướng lên Hope Pass, và cô ta bay vọt qua tôi từ hướng ngược lại – vèo!” Một tay đua trong giải Leadville tên là Glen Vaassen sau này kể lại với tạp chí Runner’s World. “Cô ta đang ngon trớn.”
Cô ta lần ngược lại xuống tới đáy của điểm ngoặt và lao xuống đi xuyên qua dòng sông Arkansas, cố gắng chống đỡ để không bị quét xuống hạ lưu trước con nước cao tận ngang hông. Lúc đó là 2 giờ 31 phút chiều, khi cô và Carl trở lại trạm cứu hoả Twin Lakes ở mốc 60 dặm. Ann đăng ký tên, kiểm tra y tế, và lê ngược lên con dốc đất cao ba mét để tới được đầu đường mòn. Khi Tóc Xù và những người Tarahumara đến nơi, Ann đã đi khỏi đó được 12 phút.
Tình cờ, Ken Chlouber cũng vừa đi đến trạm tiếp tế Twin Lakes và chuẩn bị ra ngoài khi Juan và Martimano bắt đầu đoạn đường quay trở về. Tất cả mọi người trong trạm cứu hỏa đều náo loạn về tốc độ kỷ lục của Ann và việc cô càng ngày càng bỏ xa ở vị trí dẫn đầu, nhưng khi Ken quan sát Juan và Martimano rời khỏi trạm cứu hoả, anh bỗng ngẩn ra vì một chuyện khác: khi hai người này leo lên con dốc đất, họ vừa leo vừa cười.
“Tất cả mọi người đều đi bộ lên con dốc đó.” Chlouber nghĩ, khi Juan và Martimano khuấy tung bụi đất trên con dốc như đám trẻ con đùa nghịch trong đống lá. “Tất cả mọi người đều như vậy. Và chắc chắn là chẳng ai lại vừa chạy lên dốc vừa cười như thế.”