Sinh Ra Để Chạy - Chương 12

* * *

23

Chúng tôi tới Creel sau khi Mặt trời đã lặn khá lâu, chiếc xe buýt rền rĩ suốt quãng đường rùng mình thật mạnh khi dừng lại, má phanh rít lên như đánh tiếng thở phào. Ngoài cửa sổ, chiếc mũ rơm cũ kỹ ma quái của Caballo nhấp nhô tiến lại trong bóng tối.

Thật không thể tin được rằng chuyến đi xuyên qua sa mạc Chihuahua lại suôn sẻ đến vậy. Thường thì khả năng vượt biên giới và bắt được bốn lượt xe buýt liên tục mà không chiếc nào bị hỏng dọc đường hay bị trễ tới nửa ngày là ngang với xác suất thắng máy đánh bạc ở Tijuana. Trên bất kỳ chuyến đi nào xuyên qua Chihuahua, chắc chắn có ai đó sẽ phải an ủi bạn bằng câu châm ngôn vùng này: “Chẳng có gì diễn ra đúng theo kế hoạch, nhưng rồi mọi thứ đều sẽ ổn cả.” Nhưng kế hoạch của chúng tôi lần này, cho tới giờ vẫn tỏ ra là không có sai sót, không có bia rượu, và chẳng có băng đảng ma tuý.

Tất nhiên, đó là trước khi Caballo gặp Ted Chân Đất.

“CABALLO BLANCO! LÀ ANH, PHẢI KHÔNG?”

Trước khi kịp ra khỏi xe buýt, tôi đã nghe thấy giọng nói oang oang như súng nổ. “ANH LÀ Caballo! TUYỆT! Anh có thể gọi tôi là MONO! CON KHỈ! Là TÔI đó, con KHỈ. Đó là linh vật của tôi…”

Khi bước ra khỏi cửa xe, tôi thấy Caballo đang nhìn chằm chằm vào Ted Chân Đất với vẻ hoài nghi đáng sợ. Đám còn lại chúng tôi đã khám phá ra trên xe buýt, Ted Chân Đất nói suốt cả chuyến đi. Như Charlie Parker chơi kèn saxophone: anh ta có thể bắt đầu mà chẳng cần bắt nhịp, rồi tuôn ra thành dòng, có vẻ như liên tục hít vào bằng đường mũi, đồng thời duy trì được luồng âm thanh tuôn ra không ngừng nghỉ từ miệng. Trong 30 giây đầu tiên ở Creel, Caballo bị tống cho một lượng chuyện trò còn nhiều hơn mức anh nghe thấy suốt cả năm. Tôi có thoáng chút thương cảm, nhưng chỉ thoáng qua thôi. Bởi lẽ, chúng tôi đã phải nghe Băng phát Tài liệu tổng hợp của Ted Chân Đất trong suốt 15 giờ qua. Bây giờ đến lượt Caballo.

“… người Tarahumara là nguồn cảm hứng LỚN của tôi. Lần đầu tiên tôi đọc được rằng người Tarahumara có thể chạy được một giải đua 100 dặm bằng dép, nó như một sự giác ngộ, vừa gây sốc, vừa làm đảo lộn mọi thứ, khác với những gì mà tôi vẫn nghĩ là CẦN THIẾT đối với con người để chinh phục cự ly đó, tôi nhớ mình đã nghĩ: Chuyện QUÁI gì thế này? Thế QUÁI nào mà họ làm được? Đó là thứ đầu tiên, LỖ HỔNG ĐẦU TIÊN TRÊN BỨC TƯỜNG, thứ mà CÓ THỂ các công ty sản xuấy giày hiện đại không giải đáp được hết…”

Bạn chẳng cần phải nghe Ted Chân Đất nói mới mường tượng được trí não hỗn độn của anh ta; chỉ cần nhìn anh ta là đủ. Trang phục của anh ta là một sự kết hợp giữa Chiến binh Lạt ma Tây Tạng và cô nhóc trượt pa-tanh: quần thụng vải bò có dây buộc ở thắt lưng, áo may ô trắng bó sát, dép đi nhà tắm của Nhật Bản, miếng bùa hình đầu lâu bằng đồng trước ngực, và chiếc khăn màu đỏ buộc nút quanh cổ. Với cái đầu cạo trọc, thân hình rắn như bê tông, và cặp mắt màu tối lia ngang dọc khắp nơi, đáng chú ý không kém giọng nói, anh ta trông giống như Chú Fester4 trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

4 Nhân vật trong phim Addams Family (ND).

“Ờ. Được rồi, ông bạn!” Caballo lầm bầm, lách qua Ted để chào đám còn lại chúng tôi. Chúng tôi xách đống ba lô và theo chân Caballo đi dọc con phố chính duy nhất của Creel, tới chỗ trọ ở rìa thị trấn đã được anh sắp xếp trước. Tất thảy đã đói mềm và mệt rũ ra sau chuyến đi dài, run rẩy trong cái lạnh của vùng cao nguyên và chẳng mong đợi gì ngoài một chiếc giường ấm áp cùng một một bát frijoles nóng của Mamá – tất cả chúng tôi đều như vậy, trừ Ted, người tin rằng việc cần thiết trước nhất là tiếp tục câu chuyện cuộc đời mình mà anh ta đã bắt đầu kể cho Caballo từ giây đầu tiên gặp gỡ.

Caballo đã gần tới giới hạn chịu đựng, nhưng anh quyết định không ngắt lời. Anh có một số thông tin tồi tệ, chưa biết làm cách nào cho chúng tôi biết mà không khiến tất cả lập tức quay lại và leo lên chiếc xe buýt nọ.

“Cuộc đời tôi là một vụ nổ có kiểm soát.” Ted Chân Đất thích nói như vậy. Anh ta sống ở Burbank, trong một khu vực nhỏ có gì đó giống căn phòng của đứa trẻ nổi loạn trong phim Big của Tom Hanks. Trên mặt sân phủ kín xe thể thao Spyder nhiều màu như kẹo dẻo, ngựa gỗ, xe đạp có bánh xe cỡ lớn theo kiểu từ thời Victoria, xe Jeep cổ, áp phích quảng cáo rạp xiếc, bể bơi nước mặn, và bồn nước nóng được tuần tiễu bởi chú rùa sa mạc California, loài đang nằm trong diện bị đe dọa tuyệt chủng. Thay cho một ga-ra để ô tô, lại có hai chiếc lều rạp xiếc khổng lồ. Thường xuyên ra vào khu nhà một tầng là một lũ chó mèo các loại, một con ngỗng, một con vẹt cảnh, 36 chú bồ câu đưa thư, và một nhúm gà châu Á kỳ quặc với móng vuốt phủ đầy lông mịn.

“Tôi quên mấy câu đao to búa lớn của Heidegger rồi, nhưng có cái câu nào đó ý nói rằng tôi là hiện thân của chính nơi này.” Ted nói, mặc dù nơi đó chẳng hề thuộc về anh ta. Khu đất đó là của anh họ anh ta, Dan, một thiên tài cơ khí tự học, người đã một mình khởi tạo công việc kinh doanh hàng đầu thế giới trong lĩnh vực phục chế, sửa chữa vòng quay ngựa gỗ. “Dita Von Teese đã biểu diễn thoát y trên một trong những con ngựa của chúng tôi.” Ted nói. “Christina Aguilera đã mang theo một con trong chuyến lưu diễn của cô ấy.” Khi Dan đang phải trải qua vụ ly hôn tồi tệ vài năm trước đó, Ted nghĩ rằng điều mà anh mình cần là được gặp mình nhiều hơn, vì vậy, anh ta xuất hiện trước cửa nhà Dan cùng với vợ, con gái, cả gánh xiếc thú rồi không chịu rời đi nữa. “Dan dành cả ngày để chiến đấu với những món đồ cơ khí to lớn, lạnh lẽo, xấu xa và chui ra với những ngón tay nhỏ giọt dầu nhớt, như máu chảy từ móng vuốt của một con chim săn mồi.” Ted nói. “Đó là lý do tại sao chúng tôi không thể tách nhau được. Anh ấy sẽ phát điên nếu như không có tôi bên cạnh để tranh cãi.”

Ted cố gắng tỏ ra có ích bằng cách mở một gian hàng trực tuyến nhỏ chuyên bán đồ trang trí cho vòng quay ngựa gỗ, rồi quản lý gian hàng bằng một chiếc Mac từ phòng ngủ còn thừa của Dan. Công việc đó không kiếm được nhiều tiền, nhưng cho phép Ted có nhiều thời gian để tập luyện cho các chuyến đi 50 dặm trên chiếc xe đạp thời Victoria cao tới một mét tám và tập bổ trợ bằng cách đẩy vợ và con gái trên một chiếc xe kéo. Caballo đã hoàn toàn lầm tưởng về sự giàu có của Ted, chủ yếu là vì những bức thư điện tử của Ted thường ăm ắp những kế hoạch phù hợp với một nhà đầu tư Microsoft thuở sơ khai. Ví dụ như, trong khi cả đám chúng tôi đang đắn đo về giá vé máy bay hạng thường tới El Paso, thì Ted lại hỏi han về đường băng hạ cánh ở vùng hoang vu Mexico để dành cho máy bay riêng cỡ nhỏ. Chẳng phải là Ted có máy bay riêng; anh ta thậm chí còn chẳng thể coi là có ô tô. Anh ta đi lại trên một chiếc VW Beetle đời ’66 rền rĩ đang ngày càng xuống cấp, và chẳng thể lái nó đi xa khỏi nhà hơn 25 dặm. Nhưng đối với Ted, như vậy cũng chẳng sao: trên thực tế, việc đó nằm trong tính toán của anh ta. “Như vậy, tôi sẽ chẳng bao giờ phải đi đâu xa.” Anh ta giải thích. “Tôi tự chọn lối sống nghèo khó, và thấy như vậy là cực kỳ tự do.”

Thời sinh viên khi anh ta còn học tại Đại học California, Berkerley, Ted đã phải lòng cô bạn cùng lớp, Jenny Shimizu. Tối nọ, trong lúc đang ngồi chơi tại căn hộ của cô, anh ta gặp hai người bạn mới của Jenny: Chase Chen, một họa sĩ trẻ đến từ Trung Quốc, và em gái của Chase, là Joan. Cả hai anh em Chen đều không giỏi tiếng Anh, vì vậy, Ted tự phong mình làm đại sứ văn hóa riêng của họ. Tình bạn đó mang lại lợi ích lớn cho tất cả: Ted có được một nhóm khán giả thưởng thức dòng suy nghĩ mang hơi hướng nhạc giao hưởng của anh ta, và anh em nhà Chen được tiếp xúc với một dòng thác lũ từ vựng mới, còn Jenny thì được trốn thoát một lúc khỏi cuộc tán tỉnh của Ted. Chỉ sau vài năm, ba trong số bốn người này bắt đầu trở nên nổi tiếng ở tầm quốc tế: Joan Chen đã trở thành ngôi sao Hollywood và một trong “50 người đẹp nhất” do tạp chí People bình chọn. Chase trở thành họa sĩ vẽ chân dung được các nhà phê bình khen ngợi và gần như là họa sĩ gốc Á được trả công cao nhất trong thế hệ của anh ta. Jenny Shimizu trở thành người mẫu và một trong những người phụ nữ đồng tính nổi tiếng nhất hành tinh (“một tên tuổi trong giới đồng tính”, theo tạp chí Pink Paper) vì các mối quan hệ tình ái với Madonna và Angelina Jolie (một con đường sự nghiệp mà Ted không hề lường trước nổi, bất chấp đã nhìn thấy hình xăm trên bắp tay phải của Jenny: cô gái nóng bỏng cưỡi trên một chiếc mỏ lết hiệu Snap-on).

Về phần Ted thì…

Anh ta quả thực có lọt được vào danh sách một trong 30 người đứng đầu thế giới trong môn nhịn thở. “Tôi đã đạt tới ngưỡng 5 phút 15 giây.” Ted nói. “Cả một mùa hè, tôi đã tập luyện trong bể bơi.” Nhưng, chao ôi, cái môn nhịn thở đó chẳng khác gì một cô ả đỏng đảnh kém chung thủy, và chẳng bao lâu sau Ted bị hất cẳng khỏi bảng danh sách bởi những người khác còn chuyên tâm hơn với cái môn nghệ thuật hít-vào-ít-hơn-so-với-người-thường ấy. Bạn hẳn phải thấy thương cảm tột độ cho gã tội nghiệp này, kẻ đang sủi tăm những giấc mơ bong bóng vinh quang dưới đáy bể bơi của người anh họ, trong khi bạn bè gã đã hoặc đang vẽ nên những tuyệt tác, ngủ với siêu sao, hoặc được quay những thước phim cận cảnh bởi Bernado Bertolucci.

Và điều tệ nhất là gì? Nhịn thở chính là lúc mà Ted thực sự ở đỉnh cao nỗ lực. Vì một lẽ nào đó, chính điều này đã lôi cuốn Lisa, người phụ nữ sau này trở thành vợ anh ta. Họ là bạn cùng nhà trọ, nhưng vì Lisa làm bảo vệ ở một quán bar nhạc rock dòng heavy-metal và chỉ về nhà vào lúc ba giờ sáng, nên cô thường về nhà và chỉ thấy phiên bản Ted khô ráo ngồi im lặng ở bàn bếp, ăn cơm với đậu và chúi mũi vào triết học Pháp. Sức bền bỉ và trí thông minh của anh ta đã là huyền thoại đối với các bạn cùng nhà; Ted có thể vẽ vời suốt buổi sáng, trượt ván cả buổi chiều, và học thuộc động từ tiếng Nhật suốt đêm. Anh ta sẽ soạn sẵn cho Lisa một đĩa đậu nóng, và lúc đó, khi cái động cơ sung mãn cuối cùng cũng phải thấm mệt, anh ta sẽ ngừng biểu diễn và để cho cô nói chuyện. Thỉnh thoảng, anh ta lại chêm vào một câu nhận xét tinh tế, rồi khuyến khích cô nói tiếp. Hầu như chưa ai từng thấy Ted như vậy cả. Đó quả là một thiệt thòi lớn cho mọi người – và cho cả anh ta nữa.

Nhưng Chase Chen nhận ra được điều này. Con mắt nghệ thuật của anh đồng thời thấy được tính mãnh liệt câm lặng là kết quả của cơn bão mang tên Ted. Xét cho cùng thì, ngón nghề của Chase chính là “vũ điệu kịch tính giữa ánh nắng và bóng tối”, và chao ôi, Ted thì lúc nào mà chẳng đang biểu diễn một vũ điệu kịch tính. Điều khiến Chase bị cám dỗ không phải là hành động, mà là sự hào hứng trước đó; không phải là bước nhảy của nữ nghệ sĩ múa ba lê, mà là khoảnh khắc trước khi rời mặt đất, khi sức mạnh đang nén lại như lò xo và mọi điều đều là có thể. Anh đã nhìn thấy được điều đó trong các khoảnh khắc im lặng của Ted, nhìn thấy sức mạnh âm ỉ với khả năng không giới hạn, và đó là lúc Chase với tay lấy giá vẽ. Trong nhiều năm, Chase dùng Ted làm mẫu vẽ; và nhiều trong số những tác phẩm tuyệt vời nhất của Chase, chính là chân dung của Ted, Lisa và Ona, cô con gái đáng yêu, rạng rỡ của họ. Chase bị mê hoặc bởi hình ảnh thế giới phản chiếu từ Ted, tới mức anh đã xuất bản cả một cuốn sách chỉ toàn tranh chân dung của Ted và gia đình anh ta: Ted và Ona chui trong chiếc Beetle cũ kỹ… Ona vùi đầu vào một cuốn sách… Lisa ngoái đầu liếc nhìn Ona, sản phẩm sống động từ ánh nắng và bóng tối của cha cô bé.

Mặc dầu vậy, tới lúc gần 40 tuổi, sự nghiệp khiêu vũ kịch tính kéo dài bốn thập kỷ của Ted chẳng đưa anh ta tới đâu ngoài việc xuất hiện như vai phụ trong tuyệt tác của kẻ khác và tá túc ở phòng thừa trong biệt thự của người anh họ. Nhưng ngay khi anh ta tưởng như đã bước qua cây cầu nối giữa bên này là tiềm năng vĩ đại và bên kia là tài năng bị uổng phí, thì điều kỳ diệu đã xảy ra:

Anh ta bị đau lưng.

Vào năm 2003, Ted quyết định mừng sinh nhật thứ 40 bằng một sự kiện thử thách sức bền của chính mình, Ironman Nhầm Thời đại. Đó sẽ là một thử thách ba môn phối hợp kiểu Ironman gồm 2,4 dặm bơi biển, 112 dặm đạp xe, và 26,2 dặm chạy bộ – nhưng vì những lý do mà chỉ Ted mới hiểu, tất cả công cụ dùng trong sự kiện này sẽ phải có niên đại từ những năm 1890. Anh ta đã sẵn sàng cho hai phần ba quãng đường; anh ta đủ khỏe để thực hiện phần bơi trong bộ đồ len, và rất thành thạo trên chiếc xe đạp bánh cao ngất ngưởng của mình. Nhưng phần chạy – nó như muốn giết chết anh ta vậy.

“Mỗi lần chạy khoảng một tiếng đồng hồ, tôi phải chịu cơn đau thắt lưng dưới.” Ted nói. “Cảm giác đó thật chán nản. Tôi thậm chí chẳng thể tưởng tượng nổi việc chạy hết được một cuộc marathon.” Và điều tệ hại nhất còn chưa tới: nếu không thể chịu nổi sáu dặm trên đôi giày chạy bộ đệm nảy hiện đại, thì sẽ phải đối đầu với cơn đau lớn mức nào khi chơi kiểu dữ dằn theo phong cách thời Victoria. Giày chạy bộ mới chỉ xuất hiện cùng khoảng thời gian với tàu con thoi; còn trước đó, bố của bạn vẫn chạy bằng các đôi giày đế cao su dành cho phòng tập thể thao, còn ông nội bạn thì đi dép da. Suốt hàng triệu năm, loài người vẫn chạy mà không có hỗ trợ vòm gan bàn chân, không có kiểm soát tiếp đất lệch chân, hay những miếng đệm có gel lỏng dưới gót giày. Làm thế nào mà họ chạy được, Ted không thể hiểu nổi. Nhưng việc nào đi việc ấy; chỉ còn chưa tới sáu tháng nữa là đến sinh nhật của anh ta, vì vậy ưu tiên hàng đầu của Ted là tìm ra cách nào đó, bất kỳ cách nào, để chạy hết 26 dặm trên đôi chân của mình. Tới khi tìm ra cách rồi, anh ta sẽ lo chuyện chuyển đổi sang chạy bằng những chiếc dép da bò đáng sợ ấy sau.

“Một khi đã quyết định, thì tôi luôn tìm ra cách thực hiện.” Ted nói. “Vì vậy, tôi bắt đầu tìm hiểu.” Đầu tiên, anh ta đi kiểm tra tại một bác sĩ chuyên cơ xương khớp và một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, cả hai người này đều khẳng định anh ta hoàn toàn không sao hết. Họ nói, chạy bộ vốn đã là một môn thể thao nguy hiểm và một trong các hiểm họa chính là lực sốc va đập dội ngược theo chân lên cột sống. Nhưng các bác sĩ cũng mang lại tin mừng: nếu Ted nhất quyết muốn chạy, thì anh ta vẫn có thể được chữa bằng thẻ tín dụng. Các đôi giày chạy bộ hàng đầu cùng với các miếng xốp đệm gót chân, theo lời họ, sẽ giảm chấn động lên chân đến mức đủ để hoàn thành một cuộc marathon.

Ted đã tiêu tốn cả một gia tài, mà thực ra chẳng phải tiền của anh ta, vào những đôi giày đắt tiền nhất, để rồi lại bị dập tắt hy vọng khi phát hiện ra chúng chẳng ích gì. Nhưng thay vì đổ lỗi cho mấy vị bác sĩ nọ, anh ta lại đổ lỗi cho những đôi giày: anh ta cho rằng mình cần loại giày đệm êm hơn mức mà bộ phận nghiên cứu và phát triển công nghệ bơm khí của Nike mất 30 năm mới nghĩ ra nổi. Vì vậy, anh ta nghiến răng gửi 300 đô-la tới Thụy Sĩ để mua một đôi giày Kangoo Jumps, loại giày nảy nhất thế giới. Về bản chất, Kangoo giống như giày trượt cho sói Wile E. Coyote5: thay vào chỗ bánh xe của giày trượt là hệ thống giảm xóc bằng lò xo thép, giúp bạn nảy tưng tưng như đang đi trên Mặt trăng.

5 Nhân vật trong phim hoạt hình Looney Tunes (BTV)

Khi gói hàng tới nơi vào sáu tuần sau đó, Ted phấn khích đến run cả người. Anh ta thử vài bước nhún nhảy… tuyệt quá! Cảm giác như bước đi với môi của Mick Jagger gắn dưới đế giày vậy. Ôi, chắc đây chính là lời giải đáp. Ted nghĩ vậy khi anh ta bắt đầu nảy tưng tưng xuống phố. Nhưng khi tới góc phố, thì anh ta lại ôm lưng và bắt đầu chửi rủa. “Cảm giác mà tôi có sau một giờ chạy bằng giày thường thì với đôi ủng Kangoo này, lại gần như thấy ngay lập tức.” Ted nói. “Tất cả những gì tôi vẫn tưởng là mình cần bỗng dưng tan nát hết.”

Tức giận và chán nản, anh ta lôi tuột đôi giày đó ra khỏi chân. Anh ta chỉ muốn tống ngay đôi giày Kangoo ngu ngốc đó vào hộp và gửi chúng về Thụy Sĩ, kèm theo lời chỉ dẫn việc tống khứ những đôi khác sau này. Anh ta lững thững đi về bằng chân đất, bực bội và thất vọng đến mức phải gần hết quãng đường mới nhận thấy điều gì đó đang xảy ra: lưng anh ta không đau. Không hề đau chút nào!

Ê… Ted nghĩ. Hay là mình thử đi bộ nhanh hết cự ly marathon bằng chân đất. Chân đất thì hoàn toàn đạt yêu cầu là trang phục thể thao những năm 1890 rồi.

Vì vậy, mỗi ngày, Ted lại đi giày chạy bộ vào và đi bộ tới khu đập Hansen, một bán đảo đầy cây bụi và hồ nước mà anh ta gọi là “Chốn hoang vu cuối cùng của Los Angeles.” Khi tới đó, anh ta lại tháo giày ra và đi chân đất dọc theo các lối mòn. “Tôi ngỡ ngàng khi biết được cảm giác đó dễ chịu đến thế nào.” Anh ta nhớ lại. “Các đôi giày đã gây ra biết bao đau đớn, trong khi chỉ cần tháo chúng ra, bàn chân bạn sẽ giống như cá được thả xuống nước. Về sau tôi bỏ luôn giày ở nhà.”

Nhưng tại sao khi không có giày đệm, lưng anh ta lại thấy đỡ hơn chứ không tệ đi? Anh ta lên mạng để tìm kiếm lời giải đáp, và kết quả hiện ra như khi vén một đám lá trong rừng rậm và phát hiện một bộ tộc bí ẩn ở Amazon. Ted phát hiện ra cả một cộng đồng quốc tế toàn những người chạy bộ chân đất, có đầy đủ những kiến thức uyên bác cổ xưa, cùng những biệt danh kiểu bộ lạc và được dẫn dắt bởi một nhà hiền triết vĩ đại với bộ râu xồm, “Ken Bob Chân Trần” Saxton. Và thật may, bộ tộc này toàn những người thích viết lách.

Ted sục sạo đống tư liệu tích lũy trong nhiều năm của Ken Bob Chân Trần. Anh ta phát hiện ra rằng Leonardo da Vinci coi bàn chân con người, với hệ thống giảm chấn tự nhiên bao gồm một phần tư tổng số xương trong cả cơ thể, là “một tuyệt tác về thiết kế và là cả một công trình nghệ thuật.” Anh ta biết về Abebe Bikila – vận động viên marathon người Ethiopia đã chạy chân đất trên nền đường đá cuội ở Rome để giành chiến thắng tại nội dung marathon tại Olympic năm 1960 – và về bác sĩ Charlie Robbins, giọng nói đơn độc trong giới y khoa, người đã từng chạy bộ chân đất và tranh cãi rằng chạy marathon không có hại, nhưng chạy bằng giày thì, chẳng khác nào bị bắn bằng súng, chắc chắn sẽ đau.

Nhưng hơn tất cả, Ted sững sờ trước “Tuyên ngôn Ngón chân trần” của Ken Bob Chân Trần. Đọc nó, Ted thấy lạnh cả sống lưng, như thể nó nhằm vào chính anh ta vậy. “Nhiều người trong số các bạn có thể đang bị hành hạ bởi các chấn thương dai dẳng liên quan đến chạy bộ.” Ken Bob Chân Trần mở đầu:

Giày chặn cơn đau, chứ không ngăn được chấn động!

Chính cơn đau sẽ dạy ta cách chạy sao cho thoải mái!

Ngay từ lúc bắt đầu chạy chân đất, bạn sẽ thay đổi cách chạy của mình.

“Đó cứ như khoảnh khắc Eureka.” Ted nhớ lại. Đột nhiên, mọi việc trở nên rõ ràng. Vậy ra đó chính là lý do mà đôi giày Kangoo Jumps thối tha ấy làm lưng của anh ta đau đến vậy! Chính lớp đệm dưới bàn chân khiến anh ta sải những bước dài, luềnh khuyềnh làm phần lưng dưới bị vặn xoắn. Khi chuyển sang chạy chân đất, động tác chạy của anh ta ngay lập tức trở nên ngay ngắn; lưng anh ta dựng thẳng lên, và hai chân chạy gọn gàng thẳng dưới thân người.

“Thế mới hiểu tại sao chân chúng ta lại nhạy cảm đến vậy.” Ted trầm ngâm. “Chúng là các thiết bị tự điều chỉnh. Che đậy bàn chân bằng các đôi giày cũng giống như tắt chuông báo khói đi vậy.”

Ngay trong buổi chạy chân đất đầu tiên, Ted chạy năm dặm và... không cảm thấy gì. Không hề đau chút nào. Anh ta tăng thời gian chạy lên một giờ, rồi hai. Chỉ trong vài tháng, Ted đã biến đổi hoàn toàn từ một kẻ không thể chạy bộ, thường xuyên phải chịu đau đớn và sợ hãi, thành một vận động viên marathon chân đất, với tốc độ giúp anh ta làm được điều mà đến 99,9% người chạy bộ không làm nổi: đạt tiêu chuẩn tham dự giải Boston Marathon.

Say sưa với tài năng bất ngờ mới mẻ này, Ted tiếp tục thử thách bản thân xa hơn nữa. Anh ta tiếp tục chạy giải Mother Road 100 – giải đua 100 dặm trên đường nhựa thuộc quốc lộ 66 cũ – và tham gia giải Leona Divide 50 dặm, rồi sau đó là giải đua sức bền Angeles Crest 100 dặm xuyên qua dãy San Gabriel. Mỗi khi vấp phải đoạn đường nhiều sỏi đá, hay có mảnh thủy tinh, anh ta lại lôi ra đôi “găng chân” cao su có tên là Vibram FiveFingers và chạy tiếp. Chẳng bao lâu sau, anh ta không còn là người chạy bộ bình thường nữa mà trở thành một trong những người chạy bộ chân đất cừ khôi nhất nước Mỹ, có vai vế về kỹ thuật chạy bộ và giày dép thời kỳ cổ xưa. Có tờ báo đã đăng bài về sức khoẻ bàn chân với tiêu đề: LIỆU TED CHÂN ĐẤT SẼ LÀM GÌ?

Cuộc tiến hoá của Ted đã hoàn thành. Anh ta đã nổi lên từ đáy nước, học cách chạy bộ, và bắt được con mồi duy nhất mình khao khát – không phải của cải, mà là danh tiếng.

___________________

“Dừng lại!”

Caballo nói với tất cả chúng tôi, chứ không phải riêng mình Ted. Anh ta bất ngờ bắt chúng tôi dừng lại khi cả đám đang bước trên một cây cầu ván bắc qua rãnh nước.

“Tôi cần tất cả cất lời thề độc.” Anh ta nói. “Vì vậy, hãy đưa tay phải lên và lặp lại theo tôi.”

Eric liếc qua tôi. “Chuyện quái gì thế này?”

“Tôi chịu.”

“Các người phải thề ngay tại đây, trước khi chúng ta bước qua phía bên kia.” Caballo khăng khăng. “Đằng sau các người là lối ra. Còn đây là lối vào. Các người muốn vào, thì phải thề độc.”

Chúng tôi nhún vai, bỏ ba lô xuống và cùng đưa tay lên.

“Nếu tôi bị thương, bị lạc, hay mất mạng…” Caballo bắt đầu.

“Nếu tôi bị thương, bị lạc, hay mất mạng…” chúng tôi đồng thanh.

“… Thì đó là lỗi của riêng tôi mà thôi.”

“… Thì đó là lỗi của riêng tôi mà thôi!”

“Ừm… amen.”

“AMEN!”

Caballo dẫn chúng tôi tới căn nhà nhỏ, nơi anh và tôi đã cùng ăn trong ngày đầu gặp gỡ. Tất cả chen chúc vào phòng khách của Mamá trong khi con gái của bà kê sát hai chiếc bàn lại với nhau. Luis cùng cha mình mò qua bên kia phố và mang về hai túi to đựng đầy các lon bia. Jenn và Billy nhấp vài ngụm Tecate và bắt đầu hoạt bát trở lại. Chúng tôi cùng nâng và cụng ly với Caballo. Sau đó, anh ta quay sang tôi và bắt đầu vào việc. Đột nhiên, lời thề trên cây cầu nọ trở nên sáng tỏ.

“Anh có nhớ con trai của Manuel Luna không?”

“Marcelino?” Tất nhiên là tôi nhớ cậu bé Đuốc Sống chứ. Tôi vẫn thường tưởng tượng trong đầu cảnh thay mặt cậu ta ký hợp đồng với Nike từ khi nhìn thấy cậu ở trường của người Tarahumara. “Cậu ta cũng tới chứ?”

“Không!” Caballo nói. “Thằng bé chết rồi. Ai đó đã đánh đập nó tới chết. Chúng giết thằng bé ngay trên đường mòn. Nó bị đâm vào cổ và dưới nách, còn đầu thì bị đập nát.”

“Kẻ nào… điều gì đã xảy ra vậy?” Tôi lắp bắp.

“Dạo gần đây mấy vụ dính dáng đến ma túy xảy ra thường xuyên.” Caballo nói. “Có thể Marcelino đã nhìn thấy điều gì đó mà đáng nhẽ ra thằng bé không nên thấy. Có thể bọn chúng bắt thằng bé mang ma túy ra khỏi thung lũng, nhưng nó từ chối. Chẳng ai biết được. Manuel đang đau khổ lắm. Anh ta ghé qua nhà tôi khi đi trình báo với cảnh sát. Nhưng họ cũng sẽ chẳng làm gì đâu. Ở đây đâu có luật pháp gì.”

Tôi ngồi chết trân tại chỗ. Tôi còn nhớ bọn vận chuyển ma tuý trong Chiếc xe Chết chóc màu đỏ tươi mà chúng tôi gặp trên đường đến ngôi trường Tarahumara năm ngoái. Tôi bỗng tưởng tượng ra cảnh những người Tarahumara lén đến và lật chiếc xe đó rơi xuống vực vào buổi đêm, với lũ buôn ma túy cào cấu điên loạn vào đai an toàn, trong khi chiếc xe lăn lóc xuống triền núi và nổ tung thành một đụn lửa khổng lồ. Tôi thực ra chẳng biết liệu những kẻ trong Chiếc xe Chết chóc đó có liên quan gì hay không nữa. Lúc này tôi chỉ thấy muốn giết một ai đó.

Caballo vẫn tiếp tục nói. Anh ta đã thấm thía xong cái chết của Marcelino và lại quay trở về trạng thái bị ám ảnh bởi cuộc đua của mình. “Tôi biết rằng Manuel Luna sẽ không tới, nhưng tôi hy vọng Arnulfo sẽ có mặt. Và có thể có cả Silvino nữa.” Suốt mùa đông, Caballo đã nỗ lực xây dựng được một cơ cấu giải thưởng hấp dẫn; ngoài tiền túi, anh ta còn bất ngờ được Michael French liên hệ. Anh chàng người Texas này là vận động viên ba môn phối hợp, có của cải rủng rỉnh từ công ty riêng về công nghệ thông tin. French cảm thấy hứng thú sau khi đọc bài báo của tôi trên Runner’s World, và vì không tham dự được cuộc đua nên anh đã đề nghị ủng hộ bằng tiền mặt và ngô cho những người về đích đầu tiên trong cuộc đua.

“Gượm đã!” Tôi nói. “Anh vừa bảo Arnulfo sẽ tới à?”

“Ừ!” Caballo gật đầu.

Chắc anh ta đang nói đùa. Arnulfo? Anh ta thậm chí chẳng buồn trò chuyện với tôi, chứ đừng nói đến việc chạy cùng tôi. Nếu anh ta chẳng thèm chạy với một kẻ đến tận cửa nhà anh ta để thăm hỏi, thì vì lẽ gì lại vượt qua nhiều dãy núi để chạy cùng với một đám người lạ chưa từng gặp bao giờ? Và Silvino nữa chứ; tôi đã gặp Silvino lần gần nhất tôi tới đây. Chúng tôi tình cờ gặp anh ta ở Creel, ngay sau khi tôi đi chạy với Caballo. Anh ta lúc đó đang lái chiếc xe bán tải và mặc chiếc quần bò, chiến lợi phẩm trong cuộc đua ở California. Caballo móc đâu ra ý nghĩ rằng Silvino đoái hoài đến cuộc đua này cơ chứ? Thậm chí, có dâng bộn tiền, Silvino cũng chẳng muốn chạy thêm một giải marathon nữa. Tôi hiểu về người Tarahumara đủ nhiều, đặc biệt là về hai người này, để biết rằng không lý nào bộ tộc Quimare lại có ý định tham dự giải.

“Thể thao thời Victoria thực sự hấp dẫn!” Ted vẫn tiếp tục ba hoa mà hoàn toàn không hay biết rằng chuyện những người Tarahumara xuất hiện tại giải đua lại đột ngột trở nên rất bấp bênh. “Đó cứ như lần đầu người ta vượt qua được eo biển Manche vậy. Anh đã từng lái xe đạp bánh cao chưa? Thiết kế của nó tài tình lắm…”

Trời đất, thật là một thảm họa. Caballo đang vò đầu bứt tai; lúc đó đã quá nửa đêm, và chỉ riêng việc ở cạnh nhiều người đã đủ khiến anh ta đau đầu. Jenn và Billy đã có một đống lon Tecate trước mặt và ngủ thiếp đi trên bàn. Tôi thì đang ảo não, biết rằng Eric và Luis đã nhận ra tình thế căng thẳng. Riêng Scott thì không; anh ta chỉ ngồi ngả người ra sau, tỏ vẻ thích thú. Anh đã nghe toàn bộ câu chuyện và chẳng có vẻ gì là lo âu.

“Thôi, tôi phải đi ngủ đây!” Caballo nói. Anh dẫn chúng tôi tới một dãy nhà cũ kỹ nhưng gọn ghẽ ở rìa thị trấn. Các căn phòng trống huếch như buồng giam, nhưng lại sạch bong và ấm cúng nhờ các lò sưởi kiểu nồi trụ tròn, với những cành thông đang cháy kêu lách tách. Caballo lẩm bẩm gì đó rồi biến mất. Đám còn lại chúng tôi chia thành từng cặp. Eric và tôi chọn một căn phòng, Jenn và Billy hướng đến một phòng khác.

“Được rồi!” Ted vỗ tay và nói. “Ai ở cùng tôi đây?”

Im lặng.

“Thôi được!” Scott cất lời. “Nhưng anh phải để cho tôi ngủ đấy.”

Chúng tôi đóng cửa và vùi vào đống chăn len. Sự im lặng bao phủ Creel, và những gì Scott nghe thấy cuối cùng là giọng của Ted Chân Đất trong bóng tối.

“Nào, đầu ơi!” Ted lẩm bẩm. “Nghỉ thôi. Đến giờ im lặng rồi!”

* * *

24

Cộc cộc… cộc cộc…

Khi bình minh lên, cửa sổ hãy còn đọng sương giá, thì cửa phòng chúng tôi đã bị gõ dồn.

“Này!” Giọng ai đó thì thào. “Các anh dậy chưa đấy?”

Tôi vừa lò dò ra cửa, lạnh run, vừa băn khoăn không hiểu hai Nhóc Tiệc Tùng bày trò gì lần này. Nhưng ngoài cửa lại là Luis và Scott, hai người đang hà hơi ấm vào bàn tay khum khum. Lúc đó còn rất sớm, bầu trời vẫn còn nhuốm màu cà phê sữa. Sớm tới mức lũ gà trống còn chưa cất tiếng gáy.

“Có muốn tranh thủ chạy một tí không?” Scott hỏi. “Caballo nói là chúng ta sẽ lên đường lúc tám giờ, vì vậy phải chạy ngay bây giờ.”

“Ồ, ờ. Được thôi!” Tôi nói. “Lần trước Caballo dẫn tôi lên một lối mòn tuyệt lắm. Để xem tôi có thể tìm thấy anh ta và…”

Cửa sổ căn phòng kế bên bật mở. Jenn thò đầu ra ngoài. “Các anh định đi chạy bây giờ à? Tôi đi với! Billy!” Cô ngoái đầu lại gọi với qua vai. “Nhấc mông dậy đi, ông tướng!”

Tôi lấy đại một cái quần đùi và một chiếc áo gió. Eric ngáp dài và với đôi giày chạy. “Trời ạ, mấy người này đúng là bệnh thật.” Anh ta nói. “Caballo đâu nhỉ?”

“Không rõ. Để tôi đi tìm anh ta.”

Tôi bước xuống cuối dãy buồng liền kề nhau, đoán rằng Caballo chắc sẽ cố ở xa mọi người. Tôi gõ cửa buồng cuối cùng. Không có động tĩnh gì. Tuy nhiên, cái cửa có vẻ hơi nặng nên để cho chắc, tôi dùng cườm tay đấm mạnh lên cửa một lượt nữa.

“GÌ ĐẤY!!!” Giọng ai đó gầm lên. Rèm cửa mở bung và Caballo ló mặt ra. Mắt anh ta vẫn còn đỏ ngầu và sưng húp.

“Xin lỗi!” Tôi nói. “Anh bị cảm hay sao vậy?”

“Không phải!” Anh ta uể oải đáp. “Tôi chỉ đang cố ngủ thôi.” Mới chỉ bước vào chiến dịch được 12 giờ mà Caballo đã căng thẳng đến mức trằn trọc suốt đêm và đau đầu suy nghĩ. Chỉ riêng việc phải ở thị trấn Creel đã đủ khiến anh thấy khó chịu. Thực ra, đây là một thị trấn nhỏ, dễ chịu, nhưng lại đại diện cho hai thứ mà Caballo ghét nhất: sự lừa gạt và áp bức. Thị trấn này được đặt tên theo Enrique Creel, một kẻ cướp đất hèn hạ nhưng lại nổi tiếng tới mức Cuộc cách mạng Mexico buộc phải vinh danh hắn. Enrique không chỉ bày mưu cướp đất của hàng nghìn nông dân Chihuahua, mà còn đích thân lo liệu để đảm bảo rằng bất kỳ người nông dân nào chống cự sẽ phải ngồi tù, nhờ vai trò bí mật khác của hắn, là đứng đầu một mạng lưới gián điệp của nhà độc tài Mexico Porfirio Díaz.

Enrique đào tẩu về El Paso khi lực lượng nổi dậy của Pancho Villa kéo đến tìm (bỏ lại một người con trai mà sau này phải chuộc lại từ quân nổi dậy với giá một triệu đô-la). Thế nhưng, khi đất nước Mexico đã trải qua giai đoạn chỉnh đốn không thể tránh khỏi ấy và quay lại với tình trạng tham nhũng quen thuộc, Enrique đã trở lại với niềm vinh quang đầy toan tính. Như để ghi lại công lao của hắn, một căn bệnh trầm kha của vùng này, người ta lấy tên của Enrique Creel được đặt cho nơi khởi phát của đủ loại tệ nạn ảnh hưởng đến Copper Canyon: khai thác lộ thiên, chặt phá cây, trồng cần sa, và du lịch bằng xe khách cỡ lớn. Chỉ riêng việc phải có mặt ở đây đã khiến Caballo phát điên. Đối với anh, việc ở Creel giống như phải nghỉ trọ đêm trong một đồn điền nô lệ.

Mặc dầu vậy, vấn đề lớn hơn cả chính là anh không quen chịu trách nhiệm với bất kỳ ai, ngoại trừ kẻ đang xỏ chính đôi dép của mình. Giờ đây, khi thấy chúng tôi, anh càng nặng trĩu lo âu. Anh đã mất 10 năm để gây dựng lòng tin với người Tarahumara, và nó có thể tan tành chỉ trong 10 phút. Caballo hình dung cảnh Ted Chân Đất và Jenn léo nhéo vào những đôi tai khó lĩnh hội của người Tarahumara… Luis cùng với chiếc máy ảnh của cha anh ta chớp đèn chói lóa vào mắt họ… Eric và tôi làm phiền họ với cả đống câu hỏi. Đúng là một ác mộng.

“Thôi, tôi không đi chạy đâu!” Anh ta rên rỉ và đóng sập rèm cửa.

Chỉ lát sau, bảy người chúng tôi – Scott, Luis, Eric, Jenn, Billy, Ted Chân Đất, và tôi – đã tới con đường mòn trải lá thông mà Caballo đã đưa tôi đến trước đó. Chúng tôi chui ra khỏi vòm cây ngay khi Mặt trời ló ra trên những rặng đá dựng đứng khổng lồ, khiến tất cả phải nheo mắt nhìn cả thế giới chuyển sang màu vàng chói. Sương mù cùng những giọt nước long lanh len lỏi quanh chúng tôi.

“Đẹp tuyệt!” Luis nói.

“Tôi chưa từng thấy nơi nào như thế này.” Billy nói. “Caballo quả sáng suốt. Tôi muốn được ở đây, sống đơn giản thôi, và chạy suốt ngày trên đường mòn.”

“Anh ta tẩy não được cậu rồi!” Luis nói. “Giáo phái Ngựa Trắng.”

“Không phải anh ta đâu!” Billy phản đối. “Là tại nơi này đấy.”

“Ngựa Non của em.” Jenn giễu cợt. “Anh trông cũng giống Caballo đấy.”

Trong khi đám chúng tôi trêu đùa nhau, thì Scott lại chú ý quan sát Ted Chân Đất. Lối mòn chúng tôi vừa chạy uốn lượn xuyên qua một bãi đá, nhưng mặc dù chúng tôi phải nhảy lên nhảy xuống hết tảng này đến tảng khác, Ted vẫn không hề chậm lại chút nào.

“Này, anh đang đi cái gì dưới chân thế?” Jenn hỏi.

“Vibram Five Fingers.” Ted nói. “Thấy chúng tuyệt không? Tôi là vận động viên đầu tiên được dòng giày này tài trợ đấy!”

Quả vậy! Ted đã trở thành vận động viên chân đất chuyên nghiệp đầu tiên của nước Mỹ hiện đại. Giày FiveFingers được thiết kế để đi trên thuyền đua; với ý tưởng là tạo độ bám tốt trên bề mặt trơn nhẵn mà vẫn giúp người đi giày có cảm giác như đi chân không. Phải nhìn kỹ mới nhận ra chúng. Hai chiếc giày ôm khít bàn chân và từng ngón chân, nhìn như thể Ted nhúng lòng bàn chân vào mực màu xanh lục. Không lâu trước chuyến đi tới Copper Canyon, anh ta tình cờ thấy một bức ảnh giày FiveFingers trên mạng và ngay lập tức vớ lấy điện thoại. Bằng cách nào đó, anh ta đã vượt qua hết mớ bòng bong những nhân viên trực tổng đài và trợ lý để nói chuyện trực tiếp được với Giám đốc điều hành Vibram Hoa Kỳ, chẳng phải ai khác, chính là…

Tony Post! Chính là vị quan chức của Rockport đã tài trợ cho người Tarahumara ở Leadville!

Tony nghe Ted nói, nhưng vẫn cực kỳ nghi ngại. Không phải ông không thích ý tưởng dựa vào sức mạnh bàn chân, thay vì lớp đế êm và tính năng kiểm soát chuyển động. Đã có lần, Tony còn chạy giải Boston Marathon với một đôi giày da Rockport để chứng minh rằng sự thoải mái và kết cấu tốt là tất cả những gì bạn cần, chứ không phải mấy thứ chống sốc, chống đáp má ngoài, hỗ trợ bằng đệm gel hào nhoáng. Nhưng ít nhất, giày da Rockport còn đỡ vòm gan bàn chân và có phần đệm dưới đế; còn giày FiveFingers thì chẳng khác gì một miếng cao su với một cái khoá dán. Tuy vậy, Tony vẫn hứng thú và quyết định tự thử xem sao. “Tôi định thử chạy nhẹ nhàng khoảng một dặm.” Ông nói. “Cuối cùng, tôi chạy hẳn bảy dặm. Tôi chưa bao giờ nghĩ FiveFingers là giày chạy, nhưng sau lần đó, tôi chỉ coi nó là giày chạy.” Ngay khi về tới nhà, ông ta đã viết séc tài trợ chuyến đi cho Ted tham dự giải Boston Marathon.

Chúng tôi chạy sáu dặm trên bình nguyên đỉnh núi và đang quay trở lại Creel thì bỗng nhiên, từ đằng xa, một bóng đen mảnh khảnh ló ra từ rặng cây và di chuyển về phía chúng tôi.

“Phải Caballo không nhỉ?” Scott hỏi.

Jenn và Billy nhìn nhau, rồi tăng tốc phóng thẳng đến anh như hai con chó săn tuột dây xích. Ted Chân Đất và Luis đuổi theo họ. Scott ở lại với chúng tôi, nhưng bản năng ngựa đua khiến anh thấy ngứa ngáy. Anh liếc nhìn Eric và tôi với vẻ hối lỗi. “Các anh không phiền chứ, nếu tôi…?” Anh ta hỏi.

“Không hề gì!” Tôi nói. “Cứ đuổi theo họ đi.”

“Được.” Khi tiếng “-ược” rời khỏi miệng, anh đã cách chúng tôi khoảng năm mét, mái tóc bồng bềnh như dải dây buộc ghi đông xe đạp trẻ con.

“Khiếp thật!” Tôi lẩm bẩm. Nhìn Scott vọt đi, đột nhiên tôi nhớ đến Marcelino. Scott chắc sẽ khoái cậu nhóc đó lắm. Cả Jenn và Billy nữa. Hẳn là bọn họ sẽ muốn gần gũi ngay với cậu bé như đám trẻ sinh ba người Tarahumara. Tôi thậm chí còn tưởng tượng ra được cảm xúc của Manuel Luna. Không, không phải; tôi đã cố gắng để không mường tượng ra điều đó. Quỷ dữ đã theo chân người Tarahumara đến đây, tới tận cùng Trái đất, nơi chẳng còn đường trốn chạy. Ngay cả khi đang để tang đứa con trai tuyệt vời của mình, Manuel chắc cũng đang phải lo, không biết liệu rằng tiếp theo sẽ đến lượt đứa con nào.

“Anh có cần nghỉ một lát không?” Eric hỏi. “Anh cảm thấy sao?”

“Không cần đâu, tôi ổn mà. Chỉ đang suy nghĩ một chút thôi.”

Caballo đang đến gần; sau cuộc gặp gỡ, anh tiếp tục chạy về phía Eric và tôi, còn những người khác nghỉ lấy hơi và tạo dáng cho Luis chụp ảnh. Thật hay vì Caballo đã thay đổi ý định, và quyết định chạy; kể từ khi chúng tôi xuống khỏi chiếc xe buýt, đây là lần đầu tiên anh mỉm cười. Ánh mặt trời lấp lánh cùng với cảm giác dễ chịu quen thuộc khi thấy cơ thể ấm dần từ trong ra có vẻ đã làm dịu cơn lo lắng của anh. Và, bạn ạ, thật tuyệt khi được nhìn thấy anh ấy thể hiện! Chỉ cần nhìn anh, tôi đã cảm thấy lưng mình thẳng lên và guồng chân nhanh thêm, cứ như ai đó vừa bật nhạc bài Chariots of Fire (Những bánh xe rực lửa).

Nhưng có vẻ như chúng tôi cùng đang trầm trồ về nhau. “Nhìn anh kìa!” Caballo la lên. “Anh như con gấu đã lột xác.” Dạo trước, Caballo đã quyết định chọn linh vật cho tôi, trong khi anh là bạch mã, thì tôi lại là Oso – gấu xám ục ịch. Nhưng ít nhất thì anh đã bỏ bớt hàm ý châm chọc trong cái tên đó khi nhìn tôi lúc này, một năm sau cái lần tôi thở phì phò và nhăn nhó khốn khổ chạy theo sau lưng anh.

“Anh khác hẳn cái gã mà tôi lôi lên đây lần trước.” Caballo nói.

“Tất cả là nhờ người này.” Tôi trả lời, và chĩa ngón tay cái về phía Eric. Chín tháng Eric rèn giũa tôi theo phong cách của người Tarahumara đã mang lại kết quả kỳ diệu: Tôi đã giảm khoảng 12 cân và chạy dễ dàng trên con đường mòn mà trước đây đã từng khiến mình suýt chết. Và dẫu chạy bao nhiêu dặm – thậm chí lên tới 80 dặm một tuần – tôi vẫn cảm thấy nhẹ nhõm, thả lỏng và sẵn sàng chạy nhiều hơn. Và hơn hết, đây là lần đầu tiên sau một thập kỷ, tôi không còn chấn thương nào hết. “Anh ta đúng là có phép màu.”

“Chắc chắn rồi!” Caballo cười nhăn nhở. “Trước đây tôi đã nhìn thấy cái thứ mà anh ta phải cải tạo. Vậy, bí mật là gì?”

“Đó là một câu chuyện kỳ cục …” Tôi bắt đầu kể, nhưng khi chạy tới chỗ Scott và mấy người kia, họ đều đang nghe Ted Chân Đất huyên thuyên. “Tôi sẽ kể cho anh sau.” Tôi hứa với Caballo.

Ted Chân Đất đã tháo đôi FiveFingers và biểu diễn những bước chạy hoàn hảo bằng chân đất. “Chạy chân đất thực sự cuốn hút con mắt nghệ thuật của tôi.” Ted nói. “Đây là ý tưởng của nghệ thuật lắp ghép đơn giản – ít hơn lại là nhiều hơn, giải pháp tốt nhất lại là nhẹ nhàng nhất. Sao phải thêm vào khi bạn sinh ra đã có đủ thứ bạn cần?”

“Anh nên thêm gì đó vào dưới gan bàn chân khi chúng ta vượt qua các hẻm núi.” Caballo nói. “Anh có mang các loại giày khác chứ?”

“Chắc chắn vậy.” Ted nói. “Tôi có mang theo dép tông đây.”

Caballo cười mỉm, chờ Ted Chân Đất cười đáp lại để khẳng định rằng anh ta đang nói đùa. Nhưng không. Ted không nói đùa.

“Anh không mang giày á?” Caballo hỏi. “Anh định đi vào Barrancas chỉ với dép tông à?”

“Đừng lo gì cho tôi. Tôi đã leo dãy San Gabriel bằng chân đất. Mọi người nhìn tôi và đều nghĩ, ‘gã này điên chắc,’ và tôi sẽ nói rằng…”

“Đây không phải San Gay-Bree-All6!” Caballo nhổ bọt. “Gai xương rồng ở đây sắc lẹm. Chỉ cần dính một nhát vào chân là đi tong. Chưa cần vác theo anh trên những lối mòn ấy cũng đủ nguy hiểm rồi.”

6. Cách chơi chữ của từ đồng âm San Gabriel. Gay: gã đồng tính, Bree: ngọn đồi.

“Ôi ôi ôi, hai anh!” Scott vừa nói vừa chen vai vào và đẩy cả hai người này lùi xa nhau ra thêm một bước. “Caballo này, Ted chắc đã nghe câu ‘Ted, hãy đi giày vào!’ nhiều năm nay rồi. Nhưng nếu anh ta biết mình đang làm gì, thì chắc là anh ta nói thật đấy.”

“Nhưng anh ta biết cóc gì về vùng Barrancas.”

“Tôi biết rõ một điều.” Ted độp lại. “Rằng nếu ai đó gặp rắc rối ở đó, thì tôi đảm bảo với anh, người đó sẽ không phải là tôi!”

“Thật á?” Caballo gầm gừ. “Để xem nhé, anh bạn!” Anh quay lưng lại và đi xuống lối mòn.

“Ôi mẹ ơi!” Jenn nói. “Bây giờ ai mới là kẻ gây rắc rối hả, Ted?”

Chúng tôi đi theo Caballo về dãy phòng trọ, trong khi Ted Chân Đất vẫn oang oang tranh cãi với chúng tôi, với cái lưng của Caballo, và với thị trấn Creel đang rùng mình tỉnh giấc. Tôi liếc đồng hồ; tôi rất muốn bảo Ted Chân Đất ngậm miệng lại và mua một đôi giày thể thao rẻ tiền để làm vui lòng Caballo, nhưng không còn đủ thời gian. Mỗi ngày chỉ có duy nhất một chiếc xe buýt chịu lăn bánh 10 tiếng đồng hồ vào vùng hẻm núi, và sẽ xuất phát trước khi các cửa hiệu mở cửa.

Trở lại khu phòng trọ, chúng tôi nhét quần áo vào ba lô. Tôi cho những người còn lại biết chỗ kiếm bữa sáng, rồi tôi qua ngó buồng của Caballo. Anh ta không có trong đó. Cả ba lô cũng chẳng thấy đâu.

“Có thể anh ta đang ở đâu đó một mình để hạ hỏa.” Tôi tự nhủ. Có lẽ vậy. Nhưng tôi có một cảm giác đáng sợ là anh đã quyết định mặc xác chúng tôi và biến mất mãi mãi. Sau một đêm dài lo lắng không biết có phải mình đang mắc phải một lỗi trầm trọng hay không, tôi nghĩ anh đã có lời giải đáp.

Tôi giữ im lặng và hy vọng mọi sự không phải như vậy. Dù sao, chỉ khoảng 30 phút nữa, chúng tôi sẽ biết chiến dịch này đã đi tong, hay sống dở chết dở. Tôi khoác ba lô lên và đi bộ ngược lại chiếc cầu nhỏ bắc qua rãnh, nơi tất cả vừa thề thốt đêm qua. Tôi tìm thấy những người còn lại tại một nhà hàng nhỏ gần điểm bắt xe buýt, họ đang ăn đậu với món burrito thịt gà. Tôi xơi liền hai chiếc burrito rồi cất thêm vài chiếc vào ba lô để dành. Khi chúng tôi đi tới chiếc xe buýt, nó đã nổ máy và sẵn sàng chuyển bánh. Người tài xế đang quẳng nốt những chiếc túi cuối cùng lên nóc xe và ra hiệu cho chúng tôi.

“Espera!” Tôi nói. Chờ một chút. Vẫn không thấy Caballo đâu. Tôi thò đầu vào trong xe và rà các dãy ghế. Không có Caballo. Chết tiệt! Tôi ra ngoài thông báo tin này, nhưng tất cả đã biến mất. Tôi đi vòng ra đằng sau xe và thấy Scott đang trèo lên thang để lên nóc xe.

“Lên nào, Oso!” Caballo đang ở trên nóc xe, đỡ các túi đồ cho tài xế. Jenn và Billy ở ngay bên cạnh anh, nằm ngả ngốn trên một đống hành lý thật êm. “Anh chẳng bao giờ được đi kiểu này lần thứ hai đâu.”

Chẳng ngạc nhiên gì khi người Tarahumara nghĩ Caballo là một bóng ma. Chẳng thể đoán được anh định làm gì, hay xuất hiện ở đâu. “Quên đi!” Tôi nói. “Tôi nhìn thấy con đường này rồi. Tôi sẽ kiếm chỗ đánh giấc, đâu đó giữa hai gã béo nhất trong xe.”

Ted Chân Đất bám lấy cái thang ngay sau Scott.

“Ê!” Tôi nói. “Sao anh không ngồi trong xe cùng tôi?”

“Không, cảm ơn! Tôi sẽ ngồi trên nóc.”

“Này!” Tôi nói toẹt luôn. “Có lẽ anh nên để Caballo yên một lát. Đừng dồn ép anh ta quá, không là tiêu luôn cả cuộc đua này đấy.”

“Không, bọn tôi ổn!” Ted bảo. “Chỉ cần anh ta hiểu tôi thôi.”

Phải rồi. Đó chính là điều mà anh ta cần đấy. Người tài xế đã ngồi vào sau tay lái, Eric và tôi nhảy lên xe và chui vào hàng ghế dưới cùng. Chiếc xe buýt hụt hơi, máy tắt khựng, rồi gầm rú trở lại. Chỉ lát sau, chúng tôi đi xuyên qua khu rừng và hướng về thị trấn khai mỏ La Bufa cũ kỹ và từ đó sẽ đi đến tận cuối con đường, tới ngôi làng Batopilas ở đáy vùng hẻm núi. Sau đó, chúng tôi sẽ đi bộ.

“Tôi đang chờ nghe thấy một tiếng thét và nhìn thấy Ted Chân Đất bị quẳng khỏi nóc xe.” Eric bảo.

“Chẳng phải chuyện đùa đâu.” Những lời cuối cùng của Caballo trước khi bỏ đi vẫn văng vẳng bên tai tôi: Chờ xem, amigo!

Nhưng thì ra, Caballo đã quyết định rằng trước khi Ted Chân Đất kịp gây rắc rối, anh sẽ tự dạy cho gã này một bài học. Thật không may, đó là bài học khiến chúng tôi suýt mất mạng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3