Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 35
2
Tế
sinh
Trời nắng như đổ lửa, mặt đất hầm hập chẳng khác chảo dầu muốn nướng chín vạn vật giữa đất trời, khiến núi non đồng ruộng vốn xanh mươn mướt, sông hồ vốn gợn sóng lăn tăn, thị thành nông trang vốn tràn đầy sức sống đều biến thành từng mảng đất vàng vọt nhức mắt. Giữa khung cảnh tứ phía một màu ấy, một chiếc xe ngựa sang trọng êm ru mang hơi thở vùng Giang Nam xanh biếc dần tiến vào đất Hà Nam khô cằn nghìn dặm.
Xe ngựa chạy giữa con đường quan đạo mù mịt bụi vàng, sau xe có một đám dân đói áo quần rách rưới, chủ yếu gồm người già, phụ nữ và trẻ em, tranh nhau chìa tay về chiếc xe ngựa, luôn miệng van xin: “Xin bố thí, cho chúng tôi chút đồ ăn!”
“Tránh ra tránh ra! Chúng ta cũng không có đồ ăn đây!” Lão già đánh xe quất liên tiếp mấy roi đen đét, nhưng vẫn không thể ngăn nổi bầy người bị đói khát giày vò chỉ còn thoi thóp. Xe ngựa đành phải dừng lại, lão già nhìn dân đói bao vây xung quanh, lấy làm khó xử.
“Bên ngoài sao ồn ào thế?” Trong khoang xe kín bưng vọng ra tiếng thều thào ốm yếu. Lão già đánh xe vội đáp: “Công tử, là dân đói cản đường xin ăn.”
“Vậy chia một ít lương thực của chúng ta cho họ đi.”
“Nhưng mà lương thực của chúng ta cũng cạn sạch rồi.”
Trong khoang xe im lặng lúc lâu, lại thấy tiếng nói vừa nãy cất lên: “Minh Châu, đỡ ta xuống xe xem thử.”
Rèm xe được vén lên, một thư sinh trẻ tuổi dáng người gầy yếu, sắc mặt trắng bệch được một thiếu nữ mắt sáng răng trắng cẩn thận đỡ xuống. Hai người bận đồ quý phái, dung mạo tuấn tú, đứng giữa bầy dân đói áo quần tả tơi trông ra vô cùng nhức mắt.
Ánh nắng gay gắt khiến người ta không dám mở to mắt, thư sinh nheo mắt một lát cho thích ứng với ánh sáng, sau đó mới đưa cặp mắt lờ đờ vì bệnh nhìn xung quanh, gã lập tức sửng sốt khi thấy tình cảnh trước mặt. Một đám đông toàn phụ nữ, trẻ nhỏ, người già da bọc xương, quần áo rách rưới không đủ che thân đang quỳ khắp xung quanh xe ngựa, trong ánh mắt họ tràn ngập nỗi thèm khát đồ ăn. Y lại phóng mắt nhìn ra, bốn bề hoang vu không thấy chút sắc xanh, ngoài đất vàng chỉ có đá sỏi, màu xanh của nhân gian cơ hồ đã tan biến sạch chỉ trong một đêm.
“Chuyện… chuyện này là thế nào?” Thư sinh kinh ngạc hỏi. Lão già đánh xe bèn giải thích: “Công tử không biết đấy thôi, nơi này đã là địa phận Hà Nam. Từ đầu hạ năm nay, Hà Nam gặp phải cơn hạn hán lớn trăm năm hiếm thấy. Tuy triều đình có phát lương thực cứu tế, nhưng cũng chỉ như muối bỏ bể, thêm vào đó tham quan ô lại từng cấp rút ruột, lúc đến tay bách tính thật sự chẳng còn thấm vào đâu, cho nên Hà Nam mới thành ra thế này.”
Trong đám đông dân đói đột nhiên vang lên tiếng khóc xé lòng, một đứa bé vừa chết dưới bầu sữa khô kiệt của người mẹ. Ngoài tiếng gào khóc lẻ loi của người mẹ đáng thương, những người khác đều trơ ra không chút cảm xúc, khi cái chết trở thành chuyện thường thấy, chẳng còn ai mảy may quan tâm nữa.
Thư sinh bất chấp lão già và thiếu nữ can ngăn, tới bế lấy sinh mạng nhỏ khô quắt ấy, vẻ mặt áy náy đầy tự trách. Gã rũ sạch vẻ uể oải thờ ơ vừa rồi, quay đầu nói với lão già: “Tiêu bá, mau nghĩ cách cứu họ đi.”
Lão già khó xử thở dài: “Lương khô của chúng ta đã chia hết cho dân đói dọc đường rồi, quả thực là hết cách.”
“Nhưng chúng ta cũng đâu thể ngoảnh mặt làm ngơ chứ?” Thư sinh nói đoạn mắt nhìn sang hai con tuấn mã kéo xe, không đành lòng vuốt bờm ngựa, sau đó quay ngoắt đi, chua xót nói với Tiêu bá: “Giết ngựa! Tốt xấu gì cũng phải để mọi người ăn no một bữa.”
Tiêu bá thở dài: “Chỉ hai con ngựa này cũng không cứu nổi mấy người.”
Thư sinh thoáng trầm ngâm, nghiêm nghị nói: “Để một con ngựa lại cho những nạn dân này. Chúng ta lập tức trở về Giang Nam, dốc toàn lực mua lương thực chuyển tới vùng bị thiên tai, cứu được người nào hay người ấy.”
Thấy thư sinh vội vã bước lên xe ngựa, lão già và thiếu nữ đưa ánh mắt hân hoan nhìn nhau. Họ đã trông thấy sinh khí và sức sống tàn lụi từ lâu lóe lên trong ánh mắt thư sinh. Thiên Môn công tử Tương thông minh cơ trí, tràn đầy nhiệt huyết với cuộc sống đã trở lại rồi!
Sau khi Thư Á Nam cáo biệt, bỏ lại Vân Tương ở Hàng Châu, Vân Tương tức đến thổ huyết ngất đi. Gã không thể nào tin tất cả những gì xảy ra giữa mình và Thư Á Nam lại là một trò lừa ngoạn mục được nàng kỳ công sắp đặt. Gã hận nàng lừa gạt tình cảm của gã, nhưng càng hận bản thân không thể quên người con gái đặc biệt, kiên cường bất khuất, thông minh tuyệt đỉnh ấy.
Đại thù đã báo, tình nhân lại chia tay, Vân Tương chỉ cảm thấy cuộc sống chớp mắt mất đi mục tiêu và hứng thú, thậm chí sinh mạng cũng trở thành vô nghĩa. Hằng ngày, gã sống như một cái xác biết đi, bệnh tật trên người chỉ là nguyên nhân thứ yếu, phần nhiều là vì tâm bệnh giày vò.
Minh Châu nhìn theo gã lòng đầy lo lắng, nhưng mặc cho nàng nghĩ đủ mọi cách cũng không thể khiến Vân Tương khôi phục thần thái ngày xưa. Tiêu bá dường như hiểu Vân Tương hơn, trong lúc trăm kế đều bất thành, lão thuyết phục Minh Châu đưa ra một quyết định táo bạo, đó là đưa Vân Tương đi Hà Nam, mảnh đất đang bị hạn hán để gã thấy được khổ nạn của người trong thiên hạ.
Xe ngựa chở ba người từ Giang Nam yên bình tới vùng đất địa ngục Hà Nam, khi Vân Tương nhìn thấy những nạn dân đang giãy đạp ở ranh giới giữa sự sống và cái chết, bản tính trỗi dậy khiến gã tạm thời quên đi bất hạnh và khổ đau của cá nhân. Thấy gã đã hồi phục sinh khí, Minh Châu dĩ nhiên vui mừng phát điên, chỉ hận không thể vỗ tay ăn mừng với Tiêu bá!
“Không mau lên xe đi, hai người còn ở đó cười ngơ ngẩn cái gì?” Trong xe vang lên giọng nói sốt ruột của Vân Tương. Minh Châu xấu hổ thè lưỡi nhìn Tiêu bá rồi vội lớn tiếng đáp: “Đến đây đến đây, chúng ta lập tức đi ngay!” Nói đoạn, nàng nhảy lên xe ngựa, động tác nhanh nhẹn hơn vừa rồi rất nhiều.
Tiêu bá hứng khởi tháo một con ngựa cho nạn dân, sau đó quay đầu xe, vung roi quất ngựa. Chiếc xe cuốn tung cát bụi vàng, phi thẳng về phía Đông…
Bóng tinh kỳ phấp phới tung bay ngoài hẻm núi, chầm chậm tiến vào sơn cốc, ngoài tiếng ngựa hí vang còn có tiếng cười đùa khả ố của các hán tử trong quân. Sâu trong sơn cốc có mấy chục hắc y nhân án binh bất động như những con sói dữ phục sẵn, chờ đợi con mồi tới gần.
Khấu Nguyên Kiệt ở giữa đám hắc y, dán người xuống đất nhìn qua khe đá, nhận ra chữ trên tinh kỳ, y quay sang hỏi lão già áo trắng bên cạnh: “Hạng trưởng lão, đây hình như là quan binh áp tải lương thảo cứu tai, chúng ta không nhận lầm chứ?”
Lão già áo trắng cười đáp: “Không sai, kẻ chúng ta phục kích chính là chúng.” Thấy Khấu Nguyên Kiệt tỏ vẻ khó hiểu, lão nhẫn nại giải thích: “Thiếu chủ không biết đấy thôi, môn chủ đã hạ nghiêm lệnh, quyết không để một hạt lương thực nào vào Hà Nam.”
“Tại sao như vậy?” Khấu Nguyên Kiệt ngạc nhiên hỏi. Lão già cười khà khà: “Hà Nam hạn hán nghiêm trọng, môn chủ đã quyết định chọn đây là nơi đầu tiên để truyền giáo, nhưng hiện giờ dân chúng chịu khổ chưa đủ nặng nề, vẫn còn ôm hy vọng với triều đình. Chúng ta muốn có chỗ đứng ở đây thì bắt buộc phải khiến bách tính thêm khổ nạn, chỉ khi họ hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng, bản giáo mới có thể mượn hành động cứu tế mở đàn truyền giáo trong dân, thu hút càng nhiều người gia nhập. Khi con người ta ăn no mặc ấm thì có dâng sơn hào hải vị họ đều không thiết, nhưng khi bị đói đến thoi thóp, cho họ một bát cháo loãng cũng khiến họ mang ơn, đây chính là chỗ cao minh của môn chủ.”
Khấu Nguyên Kiệt hiểu chuyện gật đầu, toan rút kiếm thì bị lão già áo trắng giữ chuôi lại, đưa cho y một cây gậy, cười nói: “Không thể dùng kiếm, xin thiếu chủ hãy dùng cái này.”
“Tại sao vậy?” Khấu Nguyên Kiệt cảm thấy lạ bèn hỏi, lão già lại cười đáp: “Chúng ta vẫn chưa thể để lộ thân phận, phải để đám quan binh ấy bị nhận dạng là chết trong tay nạn dân.”
Khấu Nguyên Kiệt nhìn lại, thấy vũ khí trong tay các hán tử khác đều là đầu cuốc, gậy gộc, đá… Lúc này một toán quan binh áp tải xe ngựa đã tiến vào vùng mai phục, lão già áo trắng huýt sáo rồi dẫn đầu, nhảy phốc ra như con sói đầu đàn xông lên phía trước. Mười mấy hắc y nhân ứng tiếng hét vang, rào rào nhảy khỏi chỗ ẩn nấp, như bầy sói lao về con mồi bị bao vây.
Toán quan binh không chuẩn bị tâm lý gặp phải đợt tập kích bất ngờ lập tức rối loạn, nhao nhao bỏ ngựa quay đầu bỏ chạy, nhưng lại bị các hắc y nhân phía sau chặn đứng, lọt thỏm giữa vòng vây. Quan binh không có lòng quyết chiến, chống chọi chốc lát liền quỳ xuống đầu hàng, lão già áo trắng giơ tay ra lệnh cho thuộc hạ: “Giết không tha!”
“Ngươi làm gì vậy? Họ đã đầu hàng rồi!” Khấu Nguyên Kiệt vội ngăn cản. Lão già áo trắng nhỏ giọng giải thích: “Thiếu chủ, chúng ta tạm thời không thể để lộ thân phận, vì vậy không thể để kẻ nào còn sống. Chúng ta phải đổ vụ cướp này lên đầu nạn dân, như vậy mới có thể khiến triều đình giúp chúng ta ép nạn dân tạo phản.”
Dứt lời, lão già vẫy tay ra hiệu cho thuộc hạ, đám hắc y nhân kẻ vung gậy người bổ bàn cuốc, chốc lát đã đánh chết tươi mấy chục quan binh. Xong việc, lão già chỉ huy thuộc hạ cướp xe ngựa chở lương thảo đi, đồng thời đắc chí cười bảo Khấu Nguyên Kiệt: “Số lương thảo này sẽ là vốn để chúng ta lôi kéo lòng người, phải cất giữ cẩn thận về sau còn dùng.”
Thấy vẻ mặt Khấu Nguyên Kiệt sững sờ, không biểu lộ chút vui mừng, lão già mỉm cười cung kính nói: “Thiếu chủ lòng dạ lương thiện, không quen nhìn những cảnh chém giết máu tanh này, thuộc hạ có thể hiểu được. Nhưng muốn tranh bá thiên hạ thì phải bắt đầu từ giết người, đây là tư tưởng nhất quán của môn chủ.”
Tranh bá thiên hạ thì phải bắt đầu từ giết người! Khấu Nguyên Kiệt lẩm nhẩm trong lòng, đột nhiên cảm thấy câu nói hiển nhiên lúc này nặng trĩu như chì, khiến người ta ngạt thở.
“Thu quân!” Lão già quát lớn, mấy chục hắc y nhân biến mất khỏi sơn cốc, lặng lẽ như cơn gió, hệt lúc tới. Trong sơn cốc chỉ còn xác người la liệt và vết máu khô cùng lũ quạ đen ngửi thấy mùi tanh tìm lại…
Trời nóng như đổ lửa, mặt đất vàng khô cằn cỗi, một đội xe ngựa khí thế hùng hậu chạy dọc theo con đường quan đạo ngoằn ngoèo không thấy điểm cuối. Vân Tương ngồi trên tuấn mã dẫn đầu đoàn xe, đang giơ tay che trán phóng mắt nhìn ra xa. Hiện tại tuy sắc mặt y vẫn còn nét nhợt nhạt, nhưng tinh thần đã khôi phục như xưa.
Minh Châu mặc áo trắng ngồi trên ngựa trắng theo sát bên cạnh Vân Tương, phấn khởi như chú chim nhỏ mới biết bay. Tuy nàng lo Vân Tương lao lực quá độ, nhưng thấy gã đã lấy lại tinh thần, trở lại là Thiên Môn công tử Tương trước kia, thì cũng không đành cản hứng thú của gã. Chỉ cần gã phấn chấn trở lại, nàng sẽ vui hơn bất cứ ai.
“Công tử, phía trước chính là địa phận của Hà Nam rồi, chúng ta có cần nghỉ một lát hãy đi tiếp không?” Tiêu bá thúc ngựa đi lên, lão đang đeo tấm mặt nạ da người được làm rất tinh xảo nên trông chẳng khác nào một lão quản gia bình thường.
“Cứu người như cứu hỏa, không thể chậm trễ một khắc, cứ tiếp tục đi.” Vân Tương thu lại ánh mắt xa xăm, giơ tay ra hiệu cho đoàn xe ngựa tăng tốc.
Trong sơn cốc nằm giữa hai ngọn núi, hai bên đường quan đạo có hơn trăm hán tử hắc y nằm phục như bầy sói, im hơi lặng tiếng. Tuy Vân Tương vừa rồi đã nhìn qua, nhưng sao có thể nhìn thấy mai phục sau đá núi.
“Kỳ lạ, đây không giống như lương thảo cứu tế do quan binh bảo vệ, ai lại áp lương đi Hà Nam vào lúc này?” Hạng trưởng lão lấy làm lạ, lẩm bẩm. Bên cạnh lão, Khấu Nguyên Kiệt cũng đang tập trung theo dõi con mồi từng bước tiến gần, nhận thấy những kẻ áp lương chỉ là hán tử trong trang phục tiêu sư, nhân số cũng ít ỏi. Đột nhiên, y phát hiện bóng dáng kẻ dẫn đầu cực kỳ quen thuộc, nhìn kỹ hơn, y lập tức nhận ra gã chính là Vân Tương, kẻ từng chơi xỏ mình. Mắt Khấu Nguyên Kiệt chợt lóe tinh quang, tay phải bất giác nắm chặt chuôi kiếm bên thắt lưng.
Hạng trưởng lão bên cạnh y thấy vậy lòng mừng thầm, mấy ngày nay mỗi khi hành động thiếu chủ đều tỏ vẻ chán chường không vui, hoàn toàn khác với thái độ ngông cuồng lúc ở quan ngoại, quả thực khiến lão lấy làm khó hiểu. Hôm nay hiếm hoi lại thấy thiếu chủ có dã tâm giết người, lão vội cười nịnh: “Hiếm khi thấy thiếu chủ có hứng thú, thuộc hạ hôm nay để thiếu chủ đánh trận đầu được chứ?”
Khấu Nguyên Kiệt nhìn chằm chằm vào Vân Tương đang tới gần, khẽ gật đầu, trầm giọng nói: “Tên thư sinh đi đầu là của ta, không ai được giành với ta!”
Hạng trưởng lão vội dặn thuộc hạ xung quanh: “Truyền xuống, tên thư sinh dẫn đầu để cho thiếu chủ, ai trái lệnh chém!”
Mệnh lệnh nhanh chóng được truyền tới từng hắc y nhân. Khấu Nguyên Kiệt nhìn kẻ thù đang tới gần, chỉ cảm thấy sát khí lâu ngày nguội lạnh nay lại sôi sục trong lồng ngực, y chậm rãi rút bảo kiếm, hoàn toàn không nhớ tới lệnh cấm dùng đao kiếm.
Đoàn xe dần chạy vào sơn cốc, cũng chạy vào giữa vòng vây, nhưng do quy mô quá lớn, dù toán đầu đã tiến hẳn vào sơn cốc nhưng bên ngoài vẫn còn mấy chục xe xếp hàng chờ. Hạng trưởng lão nhìn đoàn xe dài, nhỏ giọng nói với Khấu Nguyên Kiệt: “Thiếu chủ, xe ngựa lần này nhiều quá, chúng ta có nên khoan động thủ, đợi điều động thêm huynh đệ tới rồi nuốt sạch một mẻ?”
Vừa dứt lời, Khấu Nguyên Kiệt đã nhảy xổ ra, vung kiếm hô lớn: “Động thủ!”
Hắc y nhân nghe tiếng nhảy ra như bầy sói chồm tới đoàn xe ngựa. Khấu Nguyên Kiệt xách kiếm xông lên trước, lao thẳng về phía Vân Tương. Trong mắt y chỉ có Vân Tương, y phải bắt sống gã hành hạ khổ sở để báo thù xưa.
Vân Tương đột nhiên phải đối mặt với giáo chúng Ma Môn như bầy sói ập tới, nhưng vẻ mặt không chút hoảng hốt. Gã ung dung giơ tay phải, xe ngựa phía sau lập tức rút vải che, lộ ra từng bộ cung nỏ nặng nề đen nhánh, toàn bộ chĩa vào giáo chúng Ma Môn. Khấu Nguyên Kiệt thấy vậy kinh hãi, vội kìm người lại, hô lớn: “Lùi về!” Nhưng cả toán hắc y nhân nhất thời sao có thể dừng lại? Kẻ trước dừng đột ngột, lại bị đồng bọn phía sau tràn tới ép lên trước, khiến họ lồ lộ trước tầm cung nỏ.
Vân Tương hạ tay dứt khoát, từng bộ nỏ rung lên dữ dội, rào rào bắn ra những mũi tên sắc lẹm mang hơi thở tử thần, mưa tên lao tới giáo chúng Ma Môn đang chần chừ, âm thanh khô khốc của đầu mũi tên cắm thẳng vào da thịt, tiếng xác người đổ rạp cùng tiếng kêu thảm thiết giãy chết, giống như lời nguyền rủa đến từ địa ngục lạnh lẽo khiến người ta phải rùng mình.
Đây là loại nỏ liên châu Gia Cát bắn bằng lẫy lò xo, một lần bắn mười hai mũi tên, mỗi xe ngựa đều lắp bốn bộ nỏ liên châu trước sau trái phải do hai cung thủ ẩn mình trong xe điều khiển. Trận mưa tên đầu vừa vãi ra, giáo chúng Ma Môn đã chết quá nửa, nửa còn lại cũng bị trận công kích thình lình này làm cho sợ vỡ mật.
Khấu Nguyên Kiệt cầm bảo kiếm trong tay, đánh bật mưa tên lao tới, nhưng giáo chúng bên cạnh đã ngã xuống hết. Hai mắt y đỏ quạu nhìn Vân Tương cách đó mấy trượng, toan bất chấp tính mạng tiếp tục xông lên thì bị Hạng trưởng lão theo sát lao tới giữ chặt lại. Trưởng lão Ma Môn sợ y bị thương, gấp gáp nói: “Thiếu chủ mau rút lui! Chúng ta trúng mai phục rồi!”
Khấu Nguyên Kiệt giằng người khỏi tay Hạng trưởng lão, chĩa thẳng kiếm chỉ vào Vân Tương quát: “Ta không báo thù ngày hôm nay thì thề không làm người!”
Vân Tương cũng đã nhận ra thiếu chủ Ma Môn trước mặt, gã nhìn thẳng vào ánh mắt khát máu long lên sòng sọc của đối phương, không hề sợ hãi, chỉ lạnh lùng nói: “Phàm kẻ nào muốn cướp đoạt lương thảo cứu đói, giết không tha!” Đoạn gã lại giơ tay phải, cung thủ trên xe lập tức lắp tên.
Hạng trưởng lão thấy vậy kinh hãi, vội kéo Khấu Nguyên Kiệt đi. Khấu Nguyên Kiệt không cam tâm, quay đầu trừng mắt hằn học nhìn Vân Tương rồi mới cùng Hạng trưởng lão tẩu thoát.
Tiêu bá nhảy xuống ngựa, bước tới nhìn kỹ những hán tử hắc y nằm chết la liệt, lão quay đầu nhìn Vân Tương, giọng nói đầy lo lắng: “Là người của Ma Môn, xem ra chúng đã bắt đầu hành động, xâm nhập vào Trung Nguyên rồi.”
Khi trông thấy Khấu Nguyên Kiệt, Vân Tương đã biết những huyết án cướp lương thảo xảy ra gần đây chắc chắn là hành động của Ma Môn. Cũng chính những huyết án này đã khiến gã sinh lòng cảnh giác, không tiếc vung tiền mua loạt nỏ liên châu Gia Cát, đồng thời thuê thêm mấy chục cung thủ mai phục trong xe. Đoàn xe ngựa đông đúc như vậy, thực ra mấy chục xe đi đầu và chốt cuối đều là chiến xa được trang bị cung nỏ, chỉ có ở giữa mới là xe áp lương. Để thu xếp đoàn xe lớn này, Vân Tương cơ hồ đã khuynh gia bại sản, nhưng nghĩ tới tình trạng thiên tai ở Hà Nam, gã chẳng còn bụng dạ nào để tâm chuyện đó.
“Công tử, tuy chúng ta đã bình an chuyển lương thảo đến địa phận Hà Nam, nhưng cứu chẩn thế nào cũng là vấn đề khó.” Tiêu bá thúc ngựa tới bên cạnh Vân Tương, lo lắng nhắc gã. Số lương thảo này một khi chuyển tới trước mặt nạn dân, ắt sẽ gây ra cảnh cướp bóc, tranh giành, phần nhiều rơi vào tay những kẻ khỏe mạnh, chỉ khổ phận già lão, phụ nữ và trẻ nhỏ yếu ớt. Bởi vậy, nhất thiết phải có một tổ chức chuyên phụ trách cứu tai mới có thể bảo đảm phân chia công bằng. Giao cho quan phủ tất nhiên có thể rảnh tay, nhưng Vân Tương không tin quan phủ. Gã trầm ngâm một lát, sau đó quả quyết nói: “Xây dựng phân đường của Tế Sinh Đường tại những châu huyện chịu thiên tai nặng nhất, sau đó chọn những người già đức cao vọng trọng ở các nơi lo liệu, chúng ta phụ trách giám sát, như vậy may ra mới bảo đảm được số lương thực này có thể cứu sống nhiều dân chúng hơn.”
Tiêu bá lại ưu tư nhắc: “Làm như vậy e rằng sẽ khiến triều đình úy kỵ võ đoán, nói công tử đang mua chuộc lòng người, ý đồ bất chính. Ồn ào quá không chừng Tế Sinh Đường còn bị triều đình ngăn cấm.”
“Không lo được nhiều như thế đâu, cứu người quan trọng.” Vân Tương dừng ngựa rồi nói: “Nếu không Tế Sinh Đường đừng lấy danh nghĩa của ta, ta và Tế Sinh Đường từ nay vạch rõ ranh giới, ngoài việc ngầm tương trợ, ta sẽ không liên quan tới Tế Sinh Đường.”
Tiêu bá nghĩ ngợi rồi đành chịu: “Cũng chỉ có thể như vậy thôi, nhưng công tử làm việc thiện lớn như vậy mà không cần chút thanh danh nào, lão hủ thấy có chút không đành thay.”
Vân Tương bật cười khà khà: “Tôn chỉ xây dựng Tế Sinh Đường năm đó của Tĩnh Không sư phụ cũng chỉ là ‘người già được chăm nom, trẻ con được che chở, bần hàn được cậy nhờ, khó khăn được tương trợ, người cô quả, góa bụa, kẻ bệnh tật đều có nơi nương tựa’. Trong đó hình như không có mục nào cầu danh cả. Người thiên hạ không biết Vân Tương ta không sao, chỉ cần ta biết bản thân đã làm gì là đủ rồi.”
“Muội cũng biết!” Minh Châu nhìn vẻ rạng rỡ phấn chấn ở Vân Tương, ánh mắt đầy kính ngưỡng, miệng ríu rít: “Người khác nhìn nhận huynh thế nào muội không cần biết, huynh trong mắt muội chính là anh hùng vĩ đại nhất thiên hạ!”
Vân Tương cảm động gật đầu nhìn Minh Châu, tuy nói rằng gã không có lòng cầu danh, nhưng chuyện bản thân khuynh gia bại sản, tìm đủ trăm phương ngàn kế cứu giúp nạn dân nếu không ai biết tới, ít nhiều cũng cảm thấy ngậm ngùi. Hiện giờ có Minh Châu và Tiêu bá biết là đủ rồi. Nếu như Á Nam cũng biết… Vừa nghĩ tới Thư Á Nam, Vân Tương lại thấy nhói đau trong lòng, tâm trạng vui vẻ ban đầu lập tức bay biến, vẻ hiu quạnh cô đơn lần nữa bao trùm nét mặt.
Minh Châu lập tức phát hiện vẻ khác lạ của Vân Tương, vừa muốn hỏi lại không dám hỏi, chỉ biết âm thầm lo lắng. Nhưng nàng cũng nhanh trí lái sang ngay chuyện khác: “Tốt nhất chúng ta mau giải quyết chuyện này cho xong, muội đang thấy nhớ Giai Giai đây.”
Giai Giai là con trai của Triệu Hân Di và Nam Cung Phóng, sau khi Triệu Hân Di qua đời, Vân Tương đã giữ đứa bé ở lại, xem nó như con ruột mình, hết lòng yêu thương chăm sóc. Lần này đi Hà Nam là vùng thiên tai nên gã không đưa Giai Giai theo cùng mà để lại trong sơn thôn ẩn cư ở Giang Nam cho nhũ mẫu chăm nom. Nghe Minh Châu nhắc tới Giai Giai, quả nhiên Vân Tương tạm thời quên đi nỗi đau trong lòng, cười bảo Minh Châu: “Hay là muội về trước đi, chuyện có ta và Tiêu bá lo được rồi.”
“Còn lâu!” Minh Châu bĩu môi: “Lẽ nào chỉ có huynh được hành thiện, không cho muội tích đức?” Nói đoạn, nàng quất roi ngựa lỉnh mất, chỉ sợ Vân Tương nhìn ra ý đồ thật sự trong lòng nàng.
“Ta phải giết tên khốn kiếp ấy, ta nhất định phải giết chết hắn!” Khấu Nguyên Kiệt đã chạy tới vùng an toàn, nhìn về hướng đoàn xe ngựa rời khỏi, giận dữ rống lên. Y vùng khỏi Hạng trưởng lão đang giữ chặt lấy mình, nghiêm giọng nói: “Mau điều động huynh đệ trong giáo, chúng ta phải báo thù cho các huynh đệ đã chết!”
Hạng trưởng lão là một trong thất đại trưởng lão của Ma Môn, dĩ nhiên không chỉ có vỏn vẹn chừng ấy thuộc hạ, song Ma Môn mới vào Trung Nguyên, nhân thủ đang thiếu hụt, tuy ai nấy đều là tinh binh, nhưng thép tốt phải dùng mài gươm. Một thoáng chốc đã tổn thất hơn trăm huynh đệ, quả thực không biết nên ăn nói với môn chủ thế nào. Lòng lão chỉ đang nghĩ cách giảm bớt trách nhiệm của mình, đâu còn tâm tư đi mạo hiểm? Khấu Nguyên Kiệt thúc giục không ngừng, lão đành nhẫn nại giải thích: “Thiếu chủ không biết đấy thôi, trong tay thuộc hạ tuy còn nhân mã, nhưng chúng ta mới vào Trung Nguyên, mỗi một huynh đệ lúc này đều là của cải vô cùng quý giá, không thể tùy tiện lãng phí. Số tiêu sư bảo vệ đoàn xe kia tuy ít, nhưng kẻ nào cũng trầm tĩnh vững vàng, hiển nhiên không phải hạng xoàng. Chúng ta lại đi mạo hiểm tiếp, dù có thể thắng thì tổn thất cũng chắc chắn nặng nề.”
“Nếu nhân thủ của ngươi không đủ, ta có thể xin thêm cha ta!” Khấu Nguyên Kiệt vẫn không bỏ qua.
Hạng trưởng lão cười khổ lắc đầu: “Hiện giờ môn chủ đang dốc lòng cho việc kết liên minh với Ngõa Thích và người Oa, không thể mang nhân mã có hạn đổ hết vào một chiến trường không liên quan với đại cuộc. Thù ngày hôm nay chúng ta dĩ nhiên sẽ báo, nhưng không phải lúc này.”
“Vậy ông nói vào lúc nào?” Khấu Nguyên Kiệt tức tối hỏi.
Hạng trưởng lão trầm ngâm một lát, rồi mỉm cười chắc chắn: “Né chỗ nhọn, đánh chỗ yếu, đây là tôn chỉ binh gia. Tốt nhất ta hãy đợi chúng đưa lương thảo đến nơi, sau đó để các huynh đệ giả dạng làm nạn dân, cổ động bách tính cướp lương, nhân lúc rối loạn thì ra tay trừ khử tên thư sinh nghèo đã hại chết huynh đệ chúng ta, như vậy mới có thể sử dụng ít nhân thủ mà vẫn đạt được mục đích.”
Khấu Nguyên Kiệt đắn đo suy nghĩ rồi gật đầu đáp: “Quả là diệu kế, ông lập tức bắt tay hành động đi. Nhưng phải nhớ kỹ, đối thủ của chúng ta không phải thư sinh nghèo, mà là Thiên Môn công tử Tương gần đây danh tiếng nổi khắp giang hồ!”
Nghe tới tên Thiên Môn công tử, Hạng trưởng lão cũng không khỏi rúng động. Tuy lão mới vào Trung Nguyên chưa lâu, nhưng đã từng nghe đại danh và sự tích về Thiên Môn công tử Tương. Có thể phân tài cao thấp với một đối thủ như vậy khiến lão vừa mong mỏi chờ đợi vừa phấn khích.
Công tử Tương! Ta phải đạp lên xác ngươi để dương danh thiên hạ! Hạng trưởng lão âm thầm lập ra mục tiêu cao vời.
Giữa lúc Hà Nam gặp hạn hán, đất khô cằn kéo dài nghìn dặm, ở kinh thành vẫn phồn hoa huyên náo như thường, một đại hỷ sự cũng đang được cử hành như đã định. Tin tức tứ vương tử Ngõa Thích muốn hòa hảo với triều đình đồng thời cưới một quận chúa đã lan truyền khắp nơi. Trong triều ngoài nội đều mừng vui trước thắng lợi ngoại giao lần này. Ngõa Thích đang dần lớn mạnh, nếu có thể trở thành lân bang hữu hảo hay thậm chí phiên thuộc, dĩ nhiên là một chuyện vui của nước nhà.
Đoàn đón dâu của Ngõa Thích trước khi lên đường về nước còn diễu hành vài dặm đường lớn. Đi đầu đoàn chính là vương tử Lãng Đa hào sảng anh tuấn, khuôn mặt rạng rỡ không giấu nổi niềm vui trong lòng. Sau lưng y là đội ngự lâm quân y giáp sáng loáng cầm búa rìu đứng thành hàng hộ tống một chiếc xe ngựa lớn sang trọng, chậm rãi lăn bánh trên hành trình về phía Tây.
Thư Á Nam ngồi trong xe nhìn qua khe hở rèm cửa, đờ đẫn quan sát mọi thứ trên đường, người dân qua lại huyên náo, tường bao cung cấm uy nghiêm sừng sững, người đi bộ dừng chân bên đường, tiếng nói cười từ Nam ra Bắc… Những cảnh vật và âm thanh quen thuộc lúc này trở nên quá đỗi thân thiết, khiến sự lưu luyến càng lúc càng trỗi dậy mạnh mẽ trong nàng.
“Bánh ngọt… Dương Châu đây…” Phía xa thấp thoáng có tiếng rao đặc giọng Dương Châu. Thư Á Nam không còn kiêng dè thêm được nữa, đột nhiên vén rèm cửa, nhấc chân váy dày nặng nhảy xuống ngựa. Mũ phượng trên đầu gây vướng víu, nàng gỡ phắt xuống quăng vào xe, sau đó nhấc váy chạy thẳng về hướng có tiếng rao như chốn không người.
Ngự lâm quân đưa dâu lập tức luống cuống, không biết nên ứng phó sao với tình huống đột ngột phát sinh này, còn dân chúng đang ùa ra hai bên đường chen chúc hò reo xem nàng quận chúa của mối hòa thân lại tự giác nhường đường cho nàng. Thư Á Nam đuổi theo tiếng rao tới một ngõ nhỏ, bắt kịp được người bán bánh đi rao dọc đường, nàng nói bằng giọng Dương Châu gốc: “Lão bản, cho ta một lồng bánh ngọt!”
Người bán rong còn đang kinh ngạc nhìn bộ dạng của Thư Á Nam, đã lại hoảng hồn vì bị ngự lâm quân đuổi tới. Nghe Thư Á Nam nói, y vội vàng đưa lồng bánh cho nàng, thấy Thư Á Nam lóng ngóng tìm tiền trên người, y liền xua tay nói: “Không cần tìm nữa, lồng bánh này ta tặng cho cô nương.”
Khắp người phủ vàng đeo bạc mà không móc ra nổi một đồng tiền, Thư Á Nam bèn gỡ chiếc trâm phượng xuống, chẳng nói chẳng rằng nhét vào tay người bán rong, sau đó mới bưng bánh trở về.
Lãng Đa cũng đã đuổi tới, thấy vậy bèn nhẹ giọng trách: “Quận chúa, nàng muốn mua đồ chỉ cần nói một tiếng, tại hạ lập tức sai người đi mua, cần gì phải tự làm để người khác hiểu lầm.”
Quận chúa? Thư Á Nam bỗng muốn bật cười. Để cho nàng một thân phận tương xứng với vương tử Lãng Đa, một vương gia đã nhận nàng làm nghĩa nữ, triều đình cũng phong tặng nàng tước hiệu quận chúa. Dù Thư Á Nam chưa từng gặp vị nghĩa phụ kia, cũng chẳng nhận được đồng bổng lộc nào từ triều đình. Thiên đạo, tất cả chẳng qua đều là thiên đạo, có điều nếu xuất phát từ triều đình thì phải đổi tên thành “chính trị”.
Nhìn bàn tay của Lãng Đa ân cần đưa tới, Thư Á Nam không từ chối, bám vào tay y nhảy lên xe, sau đó hạ bức trướng nặng nề xuống, cách biệt mình với bên ngoài. Nàng bưng lồng bánh nóng hổi, cắn một miếng thèm thuồng, mùi vị quen thuộc xộc thẳng vào tâm can. Nghĩ rằng đây là lồng bánh Dương Châu cuối cùng kiếp này mình có thể ăn, nàng bất giác rơi lệ, không nỡ ăn thêm miếng nào. Thư Á Nam gói ghém lại lồng bánh, nàng sẽ giữ lồng bánh Dương Châu cuối cùng này làm kỷ niệm mãi mãi của quê nhà.
Xe ngựa lại lốc cốc lên đường, ra khỏi cửa thành Tây đi về đất Bắc. Thư Á Nam nhìn về phía Nam qua khe hở bên bức trướng, hy vọng có thể nhìn thấy chim nhạn bay về Nam, để nó mang nỗi nhớ cuối cùng tới người nàng cảm thấy có lỗi nhất nơi phương xa. Nghĩ tới gã nam tử gầy yếu mà kiên cường ấy, nàng bất giác sờ tay lên cổ, phát hiện nơi ấy trống trơn. Từ khi Thư Á Nam gỡ “trái tim” kia xuống, nàng đã từ chối đeo tất cả các món trang sức khác lên cổ.
Sờ lên cổ trống trơn, Thư Á Nam bỗng thấy lòng như dao cắt, gục đầu trong xe, cắn chặt chăn bông câm nín khóc. Nàng bắt đầu hối hận đã mang kỷ vật duy nhất của gã tặng cho người khác.
Cơn đau tim đột ngột khiến Vân Tương bất giác ôm chặt lồng ngực. Từ lúc gã bị Thư Á Nam làm cho tức giận thổ huyết, nơi ấy đã gieo một mầm đau thương, chốc chốc lại có cơn đau nhói bất ngờ ập tới. Mỗi lần đau, gã lại nao lòng nhớ tới nữ tử khiến mình yêu hận khó phân ấy.
“Công tử lại đau ngực sao?” Tiêu bá quan tâm hỏi. Vân Tương gật đầu, đoạn xua tay nói: “Không sao đâu, đã qua rồi. Mọi chuyện tiến triển thế nào?”
“Theo lời dặn của công tử, Tế Sinh Đường đã mở mười tám phân đường tại các châu huyện bị thiên tai nặng nhất. Lão nô đã chia lương thực xuống, Tế Sinh Đường ở phủ Khai Phong quy mô lớn nhất, mỗi ngày nạn dân được cứu tế lên đến vạn người.” Tiêu bá kể lể, đột nhiên căm phẫn bất bình: “Mẹ nó, chúng ta đã làm việc thiện còn phải tặng lễ vật cho quan phủ, nếu không thể nào chúng cũng gây phiền toái, đúng là tức chết được.”
“Bỏ đi, coi như là khoản tiêu hao hợp lý. Không có quan phủ tạo điều kiện, chuyện này cũng sẽ không thuận lợi như vậy. Hơn nữa sau này chúng ta còn nhiều chỗ phải cậy nhờ vào quan phủ, không thể làm căng mối quan hệ này.” Vân Tương nói tới đây thì ngừng, nhìn tấm biển Tế Sinh Đường mới treo trước mặt, gã lo lắng hỏi: “Chuyện ta giao phó chuẩn bị thế nào rồi?”
Tiêu bá gật đầu: “Công tử yên tâm, lão nô đã lo liệu ổn thỏa.”
Dòng người xếp hàng nhận lương thực đột nhiên nhốn nháo, một hán tử hô lớn: “Mẹ nó chứ, Tế Sinh Đường có nhiều lương thực mà mỗi ngày chỉ cho chúng ta húp tẹo cháo loãng, đây rõ ràng là chỉ muốn lấy danh làm việc thiện, có phải làm việc thiện thật đâu? Chi bằng cướp mẹ nó đi!”
Tiếng hô vừa vang lên, lập tức có thêm nhiều kẻ phụ họa. Người người tranh nhau nhao lên trước khiến trật tự nhất thời rối loạn. Trong đám hỗn loạn có mấy hán tử quần áo lam lũ áp sát Vân Tương, ánh mắt lấp loáng tinh quang. Kẻ dẫn đầu xông tới hiển nhiên chính là Khấu Nguyên Kiệt và Hạng trưởng lão của Ma Môn giả dạng thành nạn dân.
Vân Tương dường như đã sớm liệu được biến cố bất ngờ này, gã nhìn sang Tiêu bá ở bên, lão lập tức đưa tay bí mật ra hiệu. Nạn dân xung quanh đột nhiên đồng loạt rút vũ khí, chớp mắt đã khống chế mười mấy giáo đồ Ma Môn giả dạng nạn dân, những nạn dân bị dụ theo lời kích động lập tức im hơi lặng tiếng, không dám ho he.
Khấu Nguyên Kiệt và Hạng trưởng lão bị vô số cung nỏ vây vào giữa, không dám manh động. Khấu Nguyên Kiệt không cam lòng, hằn học nhìn Vân Tương, quát hỏi: “Tại sao? Tại sao ngươi biết kế hoạch của chúng ta?”
Vân Tương cười nhạt đáp: “Vì ta đã cứu trợ vô số nạn dân, có phải nạn dân hay không nhìn thoáng cái là biết, bất luận ngươi giả trang cẩn thận cỡ nào cũng vô ích. Từ lúc ngươi sai người rêu rao tin đồn trong nạn dân, ta đã đoán được kế hoạch tiếp theo của các ngươi, vì vậy đã sớm liên lạc với hộ vệ quân của phủ Khai Phong giăng lưới ở đây chờ đón.”
Một “nạn dân” cường tráng sải bước tới trước bậc thềm đá, lớn tiếng nói: “Ta là thủ bị Chung Đại Thọ của phủ Khai Phong, hiện truyền khẩu dụ của tri phủ Khai Phong: Bất cứ kẻ nào dám cướp lương thực cứu tế, đều xử theo tội phản nghịch!” Dứt lời, y vẫy tay, đám thuộc hạ lập tức lớn tiếng quát Khấu Nguyên Kiệt và Hạng trưởng lão: “Quỳ xuống đầu hàng!”
Hai kẻ đứng đấu lưng, im lặng đối mặt với quan binh. Vân Tương thấy vậy bèn tới bên cạnh Chung Đại Thọ, nhỏ giọng nói vài câu, Chung Đại Thọ lộ vẻ khó xử, nhưng Vân Tương hết lời nài nỉ, cuối cùng y vẫy tay hạ lệnh cho thuộc hạ lui ra, nhường đường cho Khấu Nguyên Kiệt và Hạng trưởng lão.
“Tại sao lại thả ta đi?” Khấu Nguyên Kiệt nhìn Vân Tương đầy khó hiểu, không biết kẻ quỷ kế đa đoan này lại đang giở trò gì. Vân Tương trầm giọng nói: “Nếu ngươi chỉ nhằm vào ta để báo thù xưa, ta sẽ không tính toán với ngươi, nhưng nếu ngươi muốn cướp lương thực cứu tế, ta sẽ không do dự giết ngươi!” Vân Tương chỉ vào những nạn dân xung quanh: “Ngươi mở to mắt nhìn họ đi, nhìn bộ dạng hiện giờ của họ, lẽ nào ngươi nhẫn tâm đoạt mất chút lương thực cứu mạng cuối cùng của họ?”
Khấu Nguyên Kiệt cúi gằm đầu, y không dám nhìn những đồng loại da bọc xương chẳng khác nào xác khô kia, y sợ những ánh mắt thù hận ấy sẽ đâm nát cơ thể mình. Lần đầu tiên y cảm thấy đã thật sự thất bại trước mặt Vân Tương, bại một cách dứt khoát và triệt để, đến nỗi y hoàn toàn mất cả tự tin báo thù.
“Ngươi đi đi!” Vân Tương thở dài, không nhìn thêm Khấu Nguyên Kiệt: “Nếu ngươi muốn tìm ta trả thù, ta sẽ vui vẻ tiếp nhận. Nhưng nếu muốn cướp lương thực cứu tế, thì xin hãy nghĩ tới những đồng loại đang thoi thóp hơi tàn trước mắt, sau đó ngước nhìn trời xanh trên cao, đặt tay lên trái tim mình, nghĩ kỹ rồi hãy động thủ cũng chưa muộn.”
Khấu Nguyên Kiệt không biết bản thân rời đi bằng cách nào, ra khỏi thành ra sao. Khi tới ngoại ô thành Khai Phong cát vàng mù mịt, y bất giác ngẩng đầu nhìn trời cao, chỉ thấy bầu trời trong xanh, cao rộng thâm sâu khiến y bất giác sinh lòng kính sợ. Nhìn khung trời mênh mang ấy, lòng y thầm hỏi: “Mẹ, đây chính là thiên tâm mẹ nói sao?”
Xe ngựa hoa lệ đã sớm bị bụi đất dọc đường nhuốm bẩn. Thư Á Nam cuối cùng không chịu nổi, đang chuẩn bị xuống xe cưỡi ngựa, đột nhiên nghe tiếng Lãng Đa vui vẻ gọi ngoài xe: “Thư cô nương, chúng ta tới nơi rồi!”
Tuy thân phận hiện tại của nàng là quận chúa, nhưng Lãng Đa vẫn thích gọi Thư cô nương, do y thích nàng kỳ nữ giang hồ đã gặp ở sòng bạc Hồng Vận hơn. Y biết thân phận quận chúa của Thư Á Nam là thế nào, nhưng không hề bận tâm. Tước hiệu quận chúa chỉ là để ứng phó với phụ hãn, bởi một nữ tử không có lai lịch xuất thân sẽ không có tư cách trở thành vương tử phi.
Gần một tháng ròng đi đường dài, Thư Á Nam đã quá chán ghét hành trình rong ruổi, nghe nói cuối cùng cũng tới nơi, lòng nàng không khỏi vui mừng. Thư Á Nam vén màn trướng nhìn ra ngoài, chỉ thấy một vùng thảo nguyên mênh mông vô tận, tản mác là những gò đá tròn vạnh như những cây nấm khổng lồ nở rộ trên thảo nguyên Bắc Mạc xanh tươi.
Mấy chục hán tử lực lưỡng thúc ngựa tới đón, gió thảo nguyên thổi bay bím tóc họ và bờm tuấn mã khiến họ trông càng khí khái hào sảng. Lãng Đa và mấy tùy tùng cũng giục ngựa lên oang oang gọi nhau, phấn khích như trẻ nhỏ. Thư Á Nam ngắm nhìn họ biểu diễn tài cưỡi ngựa điêu luyện trên thảo nguyên, lòng nảy sinh vài phần hảo cảm, nhưng nàng lập tức cảnh cáo bản thân: “Đây là kẻ địch của Đại Minh, ta nghìn dặm trường tới đây là để lật đổ quốc gia này.”
Nàng đã thay trang phục lộng lẫy trên người sang một bộ thường phục. Thư Á Nam nhẹ nhõm nhảy xuống xe, vừa chạm đất đột nhiên cảm thấy buồn nôn, mùi ợ chua trào lên cổ họng, nàng lập tức chạy tránh sang bên, mặc kệ ánh mắt kinh ngạc của hai nữ nô, khom người sau xe ngựa nôn mãi không dứt. Lãng Đa từ xa trông thấy vội thúc ngựa phi tới, không đợi tuấn mã đứng yên y đã nhảy xuống đỡ Thư Á Nam, ân cần hỏi han: “Quận chúa, có phải đi đường mệt quá đổ bệnh không?”
“Ta không sao, nghỉ chút là khỏe!” Thư Á Nam đẩy tay Lãng Đa, vẻ mặt ngây dại.
Lãng Đa liền cao giọng dặn dò mấy nữ nhân Ngõa Thích vừa bước tới: “Mau đỡ quận chúa vào trướng nghỉ ngơi, không được chậm trễ.” Dứt lời, y quay sang Thư Á Nam, dịu dàng nói: “Ta đi gặp phụ hãn trước, sắc mặt nàng giờ đang tái nhợt, tinh thần mệt mỏi, hẵng cứ nghỉ ngơi một ngày, đợi hồi phục nguyên khí, ta sẽ đưa nàng tới gặp phụ hãn, để phụ hãn chủ trì hôn lễ cho chúng ta.”
Thư Á Nam ngây người không đáp, mặc cho mấy nữ nhân Ngõa Thích đưa nàng vào trướng. Sau khi vào trướng, nàng lại thấy khó ở, làm cách nào cũng không thể dừng nôn mửa. Mấy nữ nhân Ngõa Thích nhìn nàng đầy vẻ ám muội, rúc rích cười trộm mãi không thôi. Thư Á Nam bực quá bèn đuổi hết bọn họ ra ngoài. Khi trong trướng không còn ai, nàng mới tĩnh tâm bấm ngón tay tính ngày nguyệt tín của mình, cảm giác kinh hoàng bất ngờ ập tới, sau đó là vui mừng phát điên: “Ta có con rồi! Ta có con của Vân Tương rồi!”
Thư Á Nam thận trọng xoa vùng bụng vẫn phẳng lì, nàng kích động trào lệ, bất giác cúi đầu lẩm bẩm với sinh linh bé nhỏ đường đột xuất hiện: “Vân Tương! Tiểu Vân Tương! Ta là mẹ con đây, con biết ta không?”
Nàng kích động đi đi lại lại trong trướng, không biết phải thể hiện niềm phấn khích và vui sướng thế nào, căn trướng rộng rãi trở nên quá ngột ngạt với nàng. Thư Á Nam vén rèm trướng toan ra ngoài thì trông thấy mấy nữ nhân Ngõa Thích đang phụng hầu ngoài trướng cùng mấy hán tử Ngõa Thích hộ vệ đằng xa, lòng nàng thoáng chốc như rơi vào hố băng, chân đang đà cất bước đành rụt trở về.
Trốn vào bên trong trướng không người, Thư Á Nam không kìm được nằm gục xuống, lòng thầm ai oán: “Tiểu Vân Tương ơi Tiểu Vân Tương, con sớm không tới muộn không tới, lại tới vào đúng lúc này, con muốn mẹ làm sao cho phải đây?”
Một thứ tình cảm mãnh liệt chưa từng thấy dần chiếm cứ toàn bộ tâm trí và trái tim nàng. Thư Á Nam bỗng nhiên bật dậy, như con thú nguy khốn rơi vào hiểm cảnh, trăn trở tới lui trong trướng, mắt lấp láy tia lửa rực cháy.
“Không được! Ta phải đi! Ta phải đưa con ra khỏi nơi này! Mẹ quyết không thể để con chịu ấm ức.” Thư Á Nam thầm thề với sinh mạng nhỏ bé trong bụng, “Giang sơn xã tắc, quốc gia thiên hạ gì đó đối với mẹ đều không quan trọng bằng con. Mẹ sẽ đưa con đi tìm cha con, con không thể sinh ra không có cha, càng không thể nhận giặc làm cha! Cha con là Thiên Môn công tử Tương thông minh tuyệt đỉnh, anh hùng cái thế, trên đời này không ai có thể thay thế.”
Chủ ý đã quyết, Thư Á Nam lập tức bắt tay chuẩn bị. Nàng thấy trong trướng đã chuẩn bị y phục đủ màu bèn chọn một bộ váy áo của nữ nhân Ngõa Thích không quá nổi bật, vội vã tròng vào người. Sau đó nàng nhấc lấy một thanh tiểu đao treo trên trướng, nhẹ nhàng rạch lỗ nhỏ chừng một thước trên miếng da bò sau trướng, nhìn bên ngoài không có ai trông giữ, Thư Á Nam lập tức luồn ra.