Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 38
5
Giặc
Oa
Mấy trăm dặm đường đi dăm ngày là tới, khi Tề Tiểu Sơn trở về gian nhà thuê sau tiệm tạp hóa, chỉ thấy cửa nhà đóng chặt, im hơi lặng tiếng. Tề Tiểu Sơn vừa mở cửa thì thấy một mình thê tử đang sùi sụt nước mắt trong nhà, trông thấy y về cũng chẳng đoái hoài, xoay lưng khóc rấm rứt mãi không thôi.
“Nàng xem ta mang gì về này? Cha mẹ đâu?” Tề Tiểu Sơn phấn khích chìa khế đất khế nhà đã thắng lại được, định khoe công với thê tử thì chợt phát hiện nàng đang mặc áo tang, y lạnh người: “Sao… sao nàng lại mặc áo tang?”
Thê tử chợt quay ngoắt lại, nước mắt ứa trào: “Cha nghe nói chàng lại đi đánh bạc, trong lúc tức giận bệnh cũ tái phát, mấy hôm trước đã qua đời. Mẹ gặp chấn động quá lớn cũng đi theo cha rồi. Cha trước khi chết có nói không muốn nhìn thấy đứa con như chàng, vì vậy không cần đợi chàng trở về, phải để ông nhập thổ yên nghỉ ngay.” Nói rồi nàng giật lấy khế đất ném vào mặt Tề Tiểu Sơn: “Giờ chàng có đem núi vàng trở về thì cũng ích gì?”
Tề Tiểu Sơn mềm nhũn người quỵ xuống đất, lòng trống rỗng không còn biết gì nữa. Thê tử lại đưa một tờ giấy cho y, khóc ròng nói: “Thiếp còn ở lại đây chính là muốn đợi chàng ký giấy này. Niệm tình phu thê chúng ta, chàng hãy ký giấy để thiếp đi đi!”
Tề Tiểu Sơn ngơ ngẩn đón lấy tờ giấy, thì ra là thư từ hôn đã được viết sẵn, chỉ để trống lạc khoản đợi y ký lên. Trên thư loang vết nước mắt, y có thể tưởng tượng ra thê tử đau khổ nhường nào khi viết nó. Tề Tiểu Sơn vừa ân hận vừa hổ thẹn, không dám nói thêm lời níu giữ, ký vội tên mình lên lá thư rồi đưa cho thê tử, cay đắng hỏi: “Mộ cha mẹ ở đâu?”
Thê tử buồn bã đáp: “Cha mẹ không muốn gặp lại chàng, dù xuống cửu tuyền cũng không muốn bị chàng quấy nhiễu, vì vậy không cho thiếp chỉ chàng biết nơi chôn cất hai người. Cha mẹ đã yên nghỉ ở nơi rất xa rất xa, hơn nữa không để lại bất cứ bia mộ nào.”
Tề Tiểu Sơn không biết thê tử đã rời khỏi đó thế nào, cũng không biết thời gian trôi đi ra sao, y ngồi đờ đẫn trên nền đất, ánh mắt thẫn thờ muốn khóc mà không ra nước mắt. Không biết bao lâu sau, y đột ngột đứng phắt dậy, rống lớn rồi chạy điên cuồng, nhưng mặc cho y tìm khắp vùng non nước xung quanh cũng không phát hiện mộ phần hay bia tạc nào mới.
Tề Tiểu Sơn thất thần trở về Tề gia trang trống trải, nhìn tòa trang viên vừa thân quen vừa lạ lẫm, y lại ngây ra. Hiện giờ trong nhà đã không còn bất cứ người thân nào, dù thắng được cả thế giới cũng có ý nghĩa gì?
“Ôi! Tề thiếu gia về rồi?” Ở ngoài cổng, một kẻ chạy vặt thường hay lảng vảng gần đó thò đầu ngó nghiêng, thấy Tề Tiểu Sơn đứng trong sân, y giũ tay rẽ vào cười hì hì: “Nghe nói ngươi vừa thắng lớn ở sòng bạc Hồng Vận, Hàng Châu. Trận đấu ấy đã gây chấn động cả Giang Nam đấy, mau kể kỹ ta nghe để ta được mở mang tầm mắt.”
Hán tử thấy bộ dạng đờ đẫn của Tề Tiểu Sơn, bèn móc lấy cái bát sứ và mấy viên súc sắc từ trong ngực áo, cười nói: “Ngươi không muốn nói thì chơi với ta một lát, chúng ta chơi nhỏ thôi, mỗi ván một lượng bạc, thế nào?”
Hán tử này khi xưa thường hay chơi súc sắc với Tề Tiểu Sơn, cũng xem như bạn cờ bạc. Trông Tề Tiểu Sơn vẫn đứng yên không đáp, bèn kéo y ngồi xuống bàn: “Nào nào nào, có gì mà nghĩ không thông suốt thế? Súc sắc mà kêu, phiền não gì cũng hết.” Đoạn y ném súc sắc vào trong bát: “Một ba năm sáu, mười lăm điểm, đến lượt ngươi.”
Tề Tiểu Sơn vẫn cứng đờ như khúc gỗ, hán tử bèn cố nhét súc sắc vào tay y. Tề Tiểu Sơn cuối cùng đã có phản ứng, y cầm súc sắc ném bừa vào trong bát, ánh mắt lại nhìn vào hư không. Trải qua những cuộc thắng thua nhớ đời, y đã không còn bất cứ cảm giác nào với đánh bạc, chỉ giống như một cỗ máy gieo súc sắc, cũng không thèm nhìn tới một lần.
“Nhạt nhẽo, đúng là nhạt nhẽo! Không muốn chơi thì thôi.” Hán tử thấy mình thua, không muốn đền tiền oan bèn thu lại bát bỏ đi. Tề Tiểu Sơn trước sau vẫn như mất hồn, chẳng khác xác chết biết đi.
Một bóng dáng quen thuộc xuất hiện ngoài cổng, tà áo xanh biếc phiêu đãng như xưa. Đó chính là thư sinh đã dạy đổ thuật cho Tề Tiểu Sơn, gã đi thẳng tới trước mặt Tề Tiểu Sơn, điềm đạm hỏi: “Ngươi đã đòi lại được thứ mình muốn, còn gì chưa thỏa mãn ư?”
Nghe thấy giọng nói quen thuộc, Tề Tiểu Sơn cũng dần hồi phục tri giác, y nhìn thẳng vào thư sinh thần bí trước mặt, nghiến răng ken két nói: “Ma quỷ, ngươi là ma quỷ! Nếu có thể làm lại từ đầu, ta quyết không đồng ý bất cứ giao dịch nào với ngươi!”
Thư sinh cười nhạt: “Trải qua thắng thua nhớ đời, buồn có vui có, đánh bạc hiện giờ đã không còn chút kích thích gì với ngươi. Nhưng ta muốn đánh cược với ngươi một ván cuối, thứ đặt cược chính là một lời hứa, lời hứa cuối cùng của ngươi với người nhà.”
Thư sinh móc ra bộ bài cửu, Tề Tiểu Sơn nhảy dựng lên như thấy ma, hất văng bộ bài, rít giọng với thư sinh: “Ta giết tên ác quỷ nhà ngươi!” Nói rồi, y bóp chặt cổ họng của thư sinh. Đúng lúc này, bên trong cửa nhà chợt vang lên một tiếng quát quen thuộc: “Dừng tay!”
Nghe thấy giọng nói âm vang rắn rỏi này, Tề Tiểu Sơn bất giác ngây người. Y không dám quay đầu lại, chỉ sợ để vụt mất ảo giác cuối cùng.
Một lão già đầu tóc bạc trắng chống gậy bước tới, gõ mạnh vào đầu Tề Tiểu Sơn, mắng bằng giọng vừa thương vừa hận: “Đồ không ra gì, còn không buông Vân công tử ra?”
Cái cốc đầu đã khiến Tề Tiểu Sơn sực tỉnh hoàn toàn, y vội buông thư sinh quay đầu lại, sững sờ nhìn người cha vừa quen vừa lạ trước mặt, há hốc miệng không biết chuyện gì đang xảy ra. Y lại bị quải trượng đánh mạnh vào đùi, nghe tiếng cha mắng: “Còn không mau cảm tạ Vân công tử? Nhằm giúp con bỏ cờ bạc, Vân công tử đã hao tổn tâm trí sắp đặt mọi chuyện, đưa con trải qua những lần thắng lớn thua đau, vui sướng buồn khổ của những kẻ nghiện bạc. Nếu còn tiếp tục đánh bạc, biến cố mấy ngày nay con gặp phải sớm muộn cũng sẽ xảy ra!”
Tề Tiểu Sơn ngơ ngẩn nhìn người cha chết đi sống lại, lại nhìn thấy mẹ và thê tử đang cười tủm tỉm sau lưng cha, y sực hiểu ra tất cả. Tề Tiểu Sơn lòng vui sướng như điên, sau đó lại thấy sợ hãi, may mà tất cả chỉ là một vở kịch, may mà tất cả những gì y đã trải qua chưa thật sự xảy ra. Y bất giác quỳ sụp xuống trước mặt thư sinh đã sắp đặt vở kịch này, nghẹn ngào nói: “Đa tạ ơn cảm hóa của Vân công tử, tại hạ kiếp này mãi mãi không quên!”
Vân Tương đỡ y dậy, nói: “Cảm giác kích thích khi chơi bạc sao có thể so bì được với tình thân, có những thứ khi nắm trong tay ngươi sẽ không biết trân trọng, nhưng mất đi rồi thì hối hận cũng đã muộn.”
Tề Tiểu Sơn rưng rưng lệ, gật đầu đáp: “Ta không chơi bạc nữa, ta sẽ không bao giờ chơi bạc nữa! Ta sẽ trân trọng tất cả mọi thứ ta có hôm nay.”
Tề lão gia cầm một hồng bao tới trước mặt Vân Tương, khẩn thiết nói: “Đa tạ Vân công tử đã làm tất cả vì khuyển tử, năm nghìn lượng bạc lễ mọn này không đủ tỏ lòng thành với công tử, xin hãy nhận cho.”
Vân Tương không khước từ, thản nhiên nhận lấy hồng bao: “Tề lão gia, ta thay mặt nạn dân ở Hà Nam đa tạ ông!”
Vân Tương bước lên xe ngựa đợi sẵn ngoài cửa, chuẩn bị rời khỏi Tề gia trang thì thấy Tề Tiểu Sơn hồng hộc chạy tới, phấn khích hỏi: “Vân công tử, công tử thông minh tuyệt đỉnh, đổ kỹ lại siêu quần như vậy, có phải chính là Thiên Môn công tử Tương nổi danh khắp thiên hạ không?”
Vân Tương cười khẽ, hỏi ngược lại: “Công tử Tương rất có tiếng sao?”
Xe ngựa bỏ đi trong làn bụi, Tề Tiểu Sơn vẫn dõi mắt nhìn theo, ánh mắt từ cảm kích dần chuyển sang tôn sùng, lòng y dâng trào nhiệt huyết: “Huynh ấy chính là công tử Tương, chính là Thiên Môn công tử Tương danh chấn thiên hạ! Huynh đã bày ra một vở kịch giúp ta hoàn lương! Trời ơi, công tử Tương còn đích thân dạy ta đổ thuật! Nói như vậy thì ta cũng xem như là đệ tử Thiên Môn rồi!”
Tề lão gia bất ngờ cốc đầu đứa con trai đang ngơ ngẩn: “Còn không mau đi gọi hết nô bộc ta cho nghỉ phép quay về đi, xem xem trong nhà giờ thành đống gì rồi?”
Tề Tiểu Sơn quay đầu nhìn cha, nói bằng giọng nghiêm túc chưa từng thấy: “Cha, con muốn đi kinh thành!”
“Đi kinh thành làm gì?” Tề lão gia ngạc nhiên hỏi. Tề Tiểu Sơn hứng khởi đáp: “Lần này con đi Hàng Châu đã nhìn thấy công cáo của quan phủ, Hình bộ đang chiêu mộ thanh niên có chi làm bổ khoái. Hài nhi đã từng học võ cũng muốn đi thử sức. Con muốn làm bổ khoái giỏi nhất, trở thành thiên hạ đệ nhất bổ khoái giống như Liễu gia!”
Tề lão gia nhìn thẳng vào mắt con trai, lần đầu tiên bắt gặp chí hướng và hứng khởi chỉ có ở đám thanh niên trẻ tuổi. Ông vui mừng gật đầu: “Đi đi! Nam tử hán chí ở bốn phương! Cha tin con có ngày sẽ quang tông diệu tổ, dương danh thiên hạ!”
Ngồi trong xe ngựa đang đi chầm chậm, Vân Tương cẩn thận cất kỹ ngân phiếu năm nghìn lượng bạc. Gã toan nằm xuống nghỉ, chợt nghe Tiêu bá ngồi bên ngoài đánh ngựa cười bảo: “Công tử, năm nghìn lượng kiếm được lần này quả không nhẹ nhàng gì. Chúng ta đã điều động bao nhiêu đệ tử Thiên Môn, thậm chí còn bao trọn cả sòng bạc Hồng Vận, chi phí hoàn toàn vượt quá dự tính. Chúng ta vì năm nghìn lượng bạc ít ỏi này, nói cách khác, vì cái tên phá gia chi tử không nên người kia, có đáng không?”
“Đừng lúc nào cũng nghĩ kiếm tiền,” Vân Tương mắng. “Y bản chất không xấu, nếu đã gặp thì phải giúp người tới cùng.” Nói tới đây gã ngừng lại, như nghĩ ngợi gì rồi tiếp tục nói: “Nói đến kiếm tiền ta nảy ra một ý. Chúng ta có thể giống như lần này, dựa vào đầu óc và mưu trí giúp người khác giải quyết những vấn đề khó nhằn, đồng thời thu phí tương ứng. Hiện giờ chi phí duy trì Tế Sinh Đường quá lớn, nếu không mở rộng đường tiền tài sao có thể tiếp tục cáng đáng?”
Tiêu bá nghĩ ngợi rồi cũng gật gù: “Chủ ý của công tử rất hay, với sự thông minh tài trí của công tử, bất cứ vấn đề khó khăn nào cũng có thể giải quyết. Chỉ là, cụ thể chúng ta phải làm thế nào?”
Vân Tương trầm ngâm nói: “Lão có thể loan tin trên giang hồ, nói Thiên Môn công tử Tương công khai giải trừ khó khăn cho người trong thiên hạ, bất cứ ai chỉ cần đưa ra yêu cầu hợp lý và giá cả xứng đáng, công tử Tương đều bằng lòng phục vụ người đó.”
Tiêu bá cười nói: “Lời này mà truyền ra, trên giang hồ lại chẳng dậy cơn sóng lớn? Người muốn mua trí tuệ của công tử sợ sẽ chen nát cửa mất.”
Vân Tương cũng cười nói: “Vậy lão giúp ta giao hẹn trước, chúng ta không nhận những chuyện thương thiên hại lý, không nhận chuyện không nắm chắc, không nhận chuyện thù lao quá thấp. Đây là quy tắc Tam bất tiếp của bản công tử.”
“Lão hủ sẽ đi làm ngay!” Tiêu bá vung roi quất ngựa, xe ngựa lập tức tăng tốc lên đường.
Một tin tức giống như giọt nước rơi xuống chảo dầu sôi, lập tức dấy lên cơn sóng lớn trên giang hồ. Thiên Môn công tử Tương danh tiếng lẫy lừng sẽ công khai dùng trí tuệ của mình giải quyết khó khăn cho người trong thiên hạ, tin tức này như làn gió mau chóng truyền khắp Giang Nam. Có người nghi ngờ, có người chế giễu, có người đứng ngoài quan sát, nhưng cũng có kẻ tin vào danh tiếng của công tử Tương muốn thử một lần, bèn viết chuyện khó khăn của mình vào thiệp, gửi tới Vọng Nguyệt Lâu theo chỉ định.
Nửa tháng sau, Vân Tương và Minh Châu ở trong gian nhà ẩn cư, chơi đùa với đứa trẻ, chính là con trai của Nam Cung Phóng và Triệu Hân Di. Vân Tương nhớ tiểu danh của nó là Giai Giai, nên đặt tên nó là Triệu Giai. Sâu trong tiềm thức, gã luôn muốn chối bỏ quan hệ giữa đứa trẻ với Nam Cung Phóng, vì vậy mới để nó theo họ mẹ.
“Giai Giai đến đây, đến chỗ tỷ tỷ nào!” Minh Châu bế đứa bé xuống đất, để nó tự mình bò đi. Trông bộ dạng đáng yêu của đứa bé đang bò dưới đất, Vân Tương chợt nghĩ tới việc Tiêu Hân Di đặt tên con trai là Giai Giai, có phải vì vẫn nhung nhớ tú tài Lạc Văn Giai chịu oan khuất mất tích thuở nào? Nghĩ vậy gã lại thấy tim nhói đau, thiếu chút rơi lệ.
Minh Châu thấy gã nhìn đứa bé ngây ngẩn lặng đi, thì dịu dàng hỏi: “Công tử lại đang nhớ Triệu tỷ tỷ ư?”
Vân Tương cười gượng: “Không, ta chỉ đang nghĩ, tương lai đứa bé này lớn lên sẽ phải nói chuyện liên quan đến cha mẹ nó như thế nào.” Minh Châu trong mắt gã luôn là một thiên kim tiểu thư chưa từng trải, gã không đành kể những phiền não và đau khổ của mình cho nàng. Với Vân Tương, Minh Châu luôn là một tiểu muội cần quan tâm, thương yêu che chở, tuyệt nhiên không phải một người đồng hành chia sẻ gánh nặng cuộc sống.
Cánh cửa lạch cạch mở, Tiêu bá bụi bặm đầy người vác một túi lớn bước vào, chẳng kịp quệt mồ hôi đã nói với Vân Tương: “Công tử! Từ lúc tin công tử dùng trí tuệ giúp người trong thiên hạ giải trừ khó khăn được lan truyền, Vọng Nguyệt Lâu thiếu chút nữa bị người ta chen nát rồi. Thiệp viết cho công tử nhiều quá đi mất, lão nô cũng chẳng kịp xem kỹ, mang hết về cho công tử, tất cả ở đây.” Nói đoạn, lão đặt túi xuống đất, xem chừng cũng nặng tới hơn chục cân.
“Không ngờ ta có danh vọng thế.” Vân Tương cười rút mấy thiệp ra xem, mặt lộ vẻ phấn khích pha lẫn tò mò chẳng khác đứa trẻ đang khám phá món đồ chơi mới lạ. Minh Châu nhìn từng chồng thiệp, kêu lên giọng cường điệu: “Nhiều thế à? Chắc không phải Trương gia mất chó, Lý gia mất mèo cũng bắt Thiên Môn công tử Tương giúp họ đi tìm chứ?”
Vân Tương xem qua mấy tấm thiệp, vẻ mặt dần trở nên nghiêm trọng. Minh Châu thấy vậy biết ý bế đứa bé ra ngoài tắm nắng. Nàng biết Vân đại ca lúc này cần chuyên tâm và yên tĩnh. Tiêu bá cũng lặng lẽ đóng cửa lui ra, nói chuyện thế sự bên ngoài cùng Minh Châu. Không biết bao lâu sau, Vân Tương mở cửa bước ra, mặt rắn đanh nói với Tiêu bá: “Tiêu bá, lão chuyển lời tới những người đợi tin, cứ nói tất cả thiệp liên quan đến giặc Oa, công tử Tương ta đều nhận.”
“Giặc Oa?” Tiêu bá giật bắn mình: “Công tử… công tử định đối phó với giặc Oa?”
Vân Tương gật đầu chắc nịch: “Đây là việc đầu tiên công tử Tương ta tiếp nhận, hơn nửa số thiệp ở đây đều liên quan đến giặc Oa, nếu ta không nhận sao có thể xứng đáng với niềm tin và kỳ vọng của mọi người dành cho mình?”
Tiêu bá trợn tròn mắt: “Công tử không có một binh một tốt, cũng chẳng có thuyền lớn, cự pháo, sao mà đối phó với đám giặc Oa đông như kiến cỏ ấy được? Phải biết rằng năm nào triều đình cũng hao tổn vô số ngân lượng, tổn hại bao nhiêu binh tướng mà vẫn không diệt được tận gốc lũ giặc Oa ấy đấy.”
Vân Tương trầm ngâm đáp: “Hành sự tại nhân! Tuy hiện giờ ta vẫn chưa biết làm thế nào mới đối phó được giặc Oa, nhưng thấy những tấm thiệp viết bằng máu và nước mắt này, Vân Tương ta nguyện đem chút thanh danh cỏn con, thậm chí tính mạng của mình ra đặt cược, quyết một trận sinh tử với giặc Oa.”
Minh Châu ngẩn ngơ nhìn Vân Tương sục sôi chí khí, ánh mắt lóe lên tia sáng khác lạ. Nàng biết sự gian xảo và hung tàn của giặc Oa, nhưng cũng biết, nam tử gầy gò trước mặt quyết sẽ không lùi bước trước bất cứ hành động bạo tàn nào. Minh Châu chỉ biết thầm cầu khẩn, mong trời xanh thương xót che chở cho vị dũng sĩ chân chính này!
Tin Thiên Môn công tử Tương nhận tất cả thiệp liên quan đến giặc Oa, đồng thời một mình tuyên chiến lũ giặc cướp này, giống như tiếng sấm nổ vang trời, chỉ trong mấy ngày đã truyền khắp đại giang nam bắc! Mọi người bàn tán xôn xao, đặc biệt là dân ở các tỉnh ven biển Giang, Triết, Mẫn thường phải chịu cảnh giặc Oa quấy nhiễu lại càng kháo nhau tợn. Có người hoài nghi, kẻ chế giễu, lại có người đoán rằng công tử Tương đang diễu võ dương oai, lôi kéo lòng người hòng dương danh thiên hạ. Chỉ có những bách tính duyên hải chịu đủ khổ nạn vì giặc Oa mới xem Vân Tương như hy vọng cuối cùng.
Tuy đã tiếp nhận, nhưng Vân Tương hiện vẫn chưa biết làm cách nào đối phó với giặc Oa tung hoành trên biển, hành tung bất định. Gã một mặt ẩn danh đi xem xét những thị thành duyên hải nơi giặc Oa thường xuyên bén mảng, mặt khác vùi đầu đọc những binh pháp chiến lược do cổ nhân để lại, đến lúc này gã mới nhận ra, Vân gia từng dạy gã vô số đạo thuật Thiên Môn, nhưng riêng có binh pháp lại không dạy. Khó hơn là, trong tay gã không có lấy một binh một tốt, cũng không có chiến thuyền, lương thực, đừng nói là bình định giặc Oa, ngay muốn quyết chiến với chúng cũng chẳng khác nào người mơ nói mớ.
“Xem ra đúng là mình không biết trời cao đất dày.” Vân Tương thầm than, gã lặng im nhìn ra mặt biển mênh mang rộng lớn. Minh Châu thấy gã nhíu chặt chân mày, biết rằng gã gặp chuyện khó, bèn nhẹ nhàng động viên: “Công tử đã trải qua bao nhiêu khó khăn trở ngại, chưa từng lùi bước trước bất cứ thử thách nào, muội tin lần này cũng không ngoại lệ!”
Vân Tương không muốn để Minh Châu lo lắng, bèn cười gượng gật đầu với nàng: “Muội yên tâm, ta không phải người bỏ cuộc dễ dàng như vậy.”
Vân Tương lặng lẽ trở vào trong xe, tiện tay rút lấy một quyển sách. Để hành trình không quá cô độc, trong khoang xe của gã luôn đầy ắp các loại sách. Gã đang cầm Luận ngữ, cơ hồ đã đọc thuộc làu quyển này, nhưng nhiều lúc nhàn rỗi gã vẫn mở ra xem, một câu quen thuộc chợt lọt vào tầm mắt: “Quân tử giỏi tận dụng theo việc.”
Nhìn câu nói của thánh nhân đã quen đến độ gần như bị lãng quên, khóe miệng Vân Tương hiện ra nụ cười mơ hồ. Gã đã biết làm thế nào.
Ánh đao như điện đúng vút qua cánh hoa còn đọng sương sớm, cánh hoa nhẹ rung như vừa bị làn gió khẽ tạt. Một con ruồi đầu xanh đậu trên cánh hoa hoảng hốt bay vù đi, bất ngờ nứt làm hai trong không trung rồi rơi thẳng vào lùm cỏ.
Tổng binh hai tỉnh Giang Triết, Du Trọng Sơn chậm rãi dùng khăn lau đi vết bẩn trên lưỡi đao, sau đó điều khí tra đao vào vỏ. Hằng ngày vào đúng giờ này, y đều nghe gà gáy dậy múa kiếm, luyện một lượt đao pháp gia truyền, thật khó tin một kẻ thân hình vạm vỡ khôi vũ, mặt mũi thô kệch như y lại có thể dụng đao khéo léo đến vậy.
Phó tướng thân cận Trương Vũ Nhiên đứng dưới hành lang, thấy y thu đao lại bèn khom người bẩm báo: “Tổng binh đại nhân, ngoài doanh trại có người cầu kiến.”
“Kẻ nào?” Du Trọng Sơn quệt mồ hôi trên trán, khuôn mặt vuông vắn lộ vẻ không vui, thờ ơ hỏi. Y là đại quan thống lĩnh binh mã hai tỉnh Giang Triết, những kẻ ưa luồn cúi muốn kết giao tạo quan hệ với y nhiều không đếm xuể và cũng đáng ghét như ruồi nhặng. Y đã chán ngấy sự phiền phức này, chỉ mong chặt từng người bọn họ làm đôi như con ruồi lúc nãy nếu có thể. Đáng tiếc, người không phải ruồi nhặng, vì vậy y hạ nghiêm lệnh với thuộc hạ, không gặp bất cứ ai không liên quan. Trương Vũ Nhiên theo y nhiều năm, hiển nhiên rất hiểu tính khí của y.
“Gã tự xưng là công tử Tương,” Trương Vũ Nhiên liền đáp.
“Công tử Tương?” Du Trọng Sơn sững người: “Chính là tên công tử Tương ngông cuồng tuyên bố dùng sức chính mình diệt trừ họa giặc Oa?”
“Đúng vậy!” Trương Vũ Nhiên cười nói: “Vì vậy thuộc hạ không dám tự quyết, mới mạo muội đến bẩm báo với đại nhân.”
Du Trọng Sơn cười sặc: “Một tên lưu manh lừa đảo, lừa ngu dân thôn dã thì được, còn dám tự mình tới đây? Ngươi còn ngây ra đấy làm gì, trói thẳng mang tới phủ Hàng Châu đánh một trận, để ta xem gã còn dám huyễn hoặc lòng người, gạt tiền kẻ khác nữa không.”
Trương Vũ Nhiên thoáng chần chừ, lí nhí nói: “Gã muốn tiểu nhân chuyển lời tới đại nhân, không biết tiểu nhân có nên nói không?”
“Lời gì? Nói! Úp úp mở mở làm gì?” Du Trọng Sơn xuất thân trong thế gia theo nghiệp quân, từ nhỏ đã được cha nghiêm khắc huấn luyện, nói năng hành sự nhanh gọn dứt khoát, ghét nhất nhìn thấy thuộc hạ úp mở như thư sinh hủ nho. Trương Vũ Nhiên theo y nhiều năm, hiểu rõ tính y bèn đánh liều nói: “Gã nói là đến hỏi tội đại nhân, nếu đại nhân không gặp gã thì tức là chột dạ sợ tội!”
Du Trọng Sơn mười bảy tuổi đã được lựa chọn trong đám con cháu nhà tướng đi tòng quân, từ một quân nhân hạng bét từng bước thăng lên làm tổng binh thống lĩnh binh mã hai tỉnh, tự vấn lòng trong hơn hai mươi năm theo, nghiệp quân, trước giờ nhân cách ngay thẳng, làm quan liêm khiết, chiến công hiển hách, y luôn tự hào về những điều đó. Hiện lại có người dám tới tận cửa hỏi tội, y bật cười khà khà: “Vậy được! Ta sẽ gặp gã một lần, nếu gã không chỉ ra được tội trạng của lão tử, lão tử sẽ hỏi gã thêm tội vu oan!”
Trương Vũ Nhiên lao đi như bay. Du Trọng Sơn hùng hổ vào quân trướng, chễm chệ ngồi xuống trước bàn, vừa hay nghe có tiếng bước chân bên ngoài, một thư sinh bận áo xanh biếc như lá liễu được Trương Vũ Nhiên dẫn vào. Gã như không nhìn thấy hai hàng binh sĩ dữ tợn gườm gườm hai bên đại trướng, thản nhiên thi lễ với Du Trọng Sơn: “Tiểu sinh Vân Tương bái kiến tổng binh đại nhân!”
Du Trọng Sơn khinh khỉnh quan sát gã một lát, cười lạnh nói: “Ngươi chính là Thiên Môn công tử Tương gì gì đó? Nghe nói ngươi đã gây ra không ít chuyện trên giang hồ, gạt người kha khá, giờ lại dám đến gặp bản quan. Không sợ bản quan bắt trói, tống ngươi cho nha môn tri phủ hỏi tội?”
Vân Tương cười ha hả: “Lưu manh giang hồ tự có bổ khoái truy nã, nếu tướng quân dùng oai hùm bắt chuột nhắt, chỉ sợ sẽ bị người trong thiên hạ chê cười rằng: bắt sói thì vô năng chỉ nhăm nhăm bắt chuột.”
Du Trọng Sơn cười gằn đáp: “Nói vậy, ngươi tự nhận mình là lưu manh giang hồ rồi? Đã thế bản quan cũng không cần biết những chuyện trộm gà bắt chó ngươi đã làm trên giang hồ, chỉ muốn hỏi ngươi, bản quan có tội gì? Nếu ngươi không nói được rõ ràng, gậy phạt trong quân trướng của bản quan e rằng không nhẹ hơn gậy trong nha môn đâu.”
Vân Tương nhìn thẳng vào cặp mắt dữ tợn của Du Trọng Sơn, thản nhiên nói: “Tướng quân không có sức chống được giặc Oa, là tội thứ nhất!”
“Thối tha!” Du Trọng Sơn bừng bừng nổi giận, phẫn nộ đập bàn: “Bản quan từ lúc nhận chức tổng binh Giang Triết đến giờ đã nhiều lần đánh tan những trận tập kích của giặc Oa, giết mấy vạn kẻ địch, khiến giặc Oa không dám quấy nhiễu bờ cõi ta, quân Du gia còn được bách tính tung hô là quân hổ! Ngươi dám nói ta không có sức chống lại giặc Oa?”
Mắt Vân Tương lóe sáng, gã đối đáp sắc bén với Du Trọng Sơn: “Xin hỏi tướng quân, nhánh quân Đông Hương mạnh nhất của giặc Oa, quân số hơn vạn tên, mấy năm nay hô mưa gọi gió trên biển, nhiều lần quấy phá các tình thành duyên hải của ta, tướng quân đã có kế sách gì diệt địch?”
Du Trọng Sơn nghẹn lời, sau lập tức đáp: “Chỉ cần Đông Hương Bình Dã Lang dám quấy nhiễu cương vực Giang Triết, bản quan chắc chắn sẽ tiêu diệt y!”
Vân Tương cười lớn: “Giặc Oa ngày nào còn không trừ thì ngày đó còn quấy nhiễu, đạo lý này ai ai cũng biết. Tướng quân đã giữ chức nhiều năm, chỉ trấn thủ cương vực mình quản lý, cũng dám nói là có công chống giặc Oa?” Gã nói đến đây, vung tay vào hư không, như thu tận mấy nghìn dặm biển vào trong tay áo: “Hai tỉnh Giang Triết giàu nhất thiên hạ, tướng quân có tinh binh có lương thực, không biết dựa vào ưu thế này tiến lên, chỉ biết xua sói sang nhà hàng xóm, để giặc Oa mấy độ thâm nhập vào vùng trung tâm các tỉnh Mẫn, Việt*, đó là tội thứ hai!”
Du Trọng Sơn lập tức phản bác: “Quân lính từng nơi đều có chức trách riêng, người khác không giữ được cương vực liên quan gì tới ta?”
“Xin hỏi tướng quân, bách tính các tỉnh Mẫn, Việt có phải con dân của Đại Minh không? Tướng quân là tướng lĩnh trấn thủ biên thùy, có trách nhiệm với sự an nguy của họ không? “ Thấy Du Trọng Sơn nhất thời câm nín, Vân Tương thở dài than: “Là tổng binh hai tỉnh Giang Triết, tướng quân có thể bảo vệ an nguy cho dân chúng một vùng, xem như có công. Nhưng là tướng lĩnh dạn dày kinh nghiệm từng nhiều năm tác chiến với giặc Oa, tướng quân chỉ biết lo cho cửa trước nhà mình, không màng đến an nguy láng giềng, là có tội!”
Du Trọng Sơn trợn mắt nhìn thư sinh một lúc lâu, cuối cùng buồn bã nói: “Giặc Oa quấy nhiễu biên cương, bản quan lòng như lửa đốt, nhưng thân vẫn nặng chức trách, có những chuyện dù ta muốn lo cũng không thể lo được. Các tỉnh lân cận gặp nạn ta có thể xuất binh cứu viện, nhưng hành trình quá xa thì cũng không thể cứu kịp. Không phải bản quan lòng dạ hẹp hòi chỉ biết nghĩ cho hai tình Giang Triết, mà quả thực lực bất tòng tâm.”
Vân Tương thở dài: “Đại Minh có mấy nghìn dặm đường biển, dù có thêm mấy nhánh hổ quân như quân Du gia cũng không thể bảo vệ hết vạn lý hải vực. Nếu ai cũng cố thủ giống tướng quân thì vĩnh viễn không tiêu trừ được nạn giặc Oa.”
Du Trọng Sơn khẽ gật đầu: “Chủ động xuất kích, lấy công làm thủ đúng là yếu quyết trong binh gia. Nhưng thủy quân ta vừa hành động, giặc Oa đã chạy xa nghìn dặm, nếu tiến vào địa phận tỉnh lân cận, dù bản quan có binh hay tướng giỏi cũng không thể sử dụng!”
Vân Tương gật đầu nói: “Chống giặc Oa không thể để các tỉnh phân trị, nên tổ chức thành một nhánh thiết quân cơ động như thanh kiếm sắc chủ động xuất kích. Một khi phát hiện tung tích của giặc Oa sẽ không bị trói buộc địa phận quản lý, có thể xông pha nghìn dặm, đánh một đòn tất sát, thậm chí dẫn quân đánh thẳng vào sào huyệt của giặc Oa, bắt giặc bắt vua trước tiên. Tướng quân có chức trách chống lại giặc Oa, nên lập tức dâng tấu triều đình, xin thánh chỉ xây dựng một đội quân cơ động tinh nhuệ chuyên truy quét giặc, có thể gọi là Tiễu Oa Doanh.”
“Tiễu Oa Doanh?” Du Trọng Sơn gật đầu ngẫm nghĩ: “Công tử nói phải, nhưng dù có Tiễu Oa Doanh, muốn đoán trước địa điểm tập kích của giặc Oa để đánh phủ đầu chúng một đòn đau cũng khó như lên trời.”
Vân Tương cười nhạt đáp: “Tướng quân chỉ cần huấn luyện quân tinh nhuệ, dâng tấu lên triều đình xin thành lập Tiễu Oa Doanh. Còn về chuyện diệt trừ giặc Oa thế nào, bản công tử tự có diệu kế.”
Du Trọng Sơn nhìn Vân Tương, bán tín bán nghi hỏi: “Công tử chẳng qua chỉ là một kẻ giang hồ, biết gì về dùng binh?”
Vân Tương cười nói: “Binh bất yếm trá, kẻ dụng binh đều cần đến thủ đoạn, điều này chẳng khác gì với thiên đạo. Trong mắt ta, giặc Oa giống như nhà cái trò đặt cửa, chúng đặt vào nghìn dặm đường biển của Đại Minh ta, để chúng ta đoán. Đoán trúng thì đầu chúng rơi, đoán sai thì dân ta phải khổ. Nếu chỉ chơi thành thật thì khả năng đoán trúng rất thấp, nhưng nếu dụng thiên thuật thì cơ hội đoán trúng sẽ tăng cao.”
“Có lý có lý!” Du Trọng Sơn gật gù, ánh mắt nhìn Vân Tương đã trái ngược hẳn với lúc trước: “Nếu triều đình đồng ý thành lập Tiễu Oa Doanh, ta chắc chắn sẽ tiến cử công tử làm tham quân.”
Du Trọng Sơn những tưởng Vân Tương sẽ cảm tạ rối rít, lẽ thường người có tài đều khát khao có đất dụng võ. Chẳng ngờ gã lại lắc đầu nói: “Ta chưa từng mượn tay kẻ khác đánh bạc, không đánh thì thôi đã đánh phải đích thân ra trận.”
“Ý của công tử là…”
“Nếu triều đình đồng ý thành lập Tiễu Oa Doanh, Du tướng quân sẽ là người thích hợp nhất. Ta có thể lấy cái danh tham quân dưới trướng tướng quân, nhưng nếu tướng quân muốn dùng ta thì phải để ta chỉ huy toàn quân.”
Du Trọng Sơn ngây người, ngỡ mình nghe nhầm, lại thấy Vân Tương mặt mày nghiêm túc, hiển nhiên không phải nói đùa, y bất giác ngửa mặt cười lớn: “Thư sinh luận chiến, chẳng khác bàn binh trên giấy. Ngươi vừa không có kinh nghiệm cầm quân, lại chẳng có chút chiến công nào, thậm chí còn chưa từng ra chiến trường đúng không? Vậy mà dám bảo ta giao tính mạng của mấy nghìn tướng sĩ, an nguy của mấy chục vạn bách tính vào tay ngươi? Hoang đường, đúng là hoang đường! Công tử Tương, ngươi quá ngông cuồng rồi đấy!”
Vân Tương bị chế giễu mà mặt không đổi sắc, Du Trọng Sơn dần nín cười, lúc này Vân Tương mới bình thản đáp: “Gia Cát Khổng Minh là bậc thư sinh, cũng không có kinh nghiệm cầm quân vẫn có thể thành danh sau một trận chiến, phò tá Lưu Bị để rồi hình thành cục diện thiên hạ chia ba. Hàn Tín từ lính quèn một bước lên trời, thống lĩnh toàn quân của Hán vương, cuối cùng đánh bại Hạng Vũ một đời kiêu hùng. Vân Tương không dám so mình với các tiền bối, nhưng để chỉ huy mấy nghìn nhân mã đánh bại giặc Oa cỏn con, ta đây vẫn thừa tự tin.”
Du Trọng Sơn vốn đã nín cười, nghe vậy lại cười sặc sụa hơn trước, vừa cười vừa lau nước mắt nói: “Công tử Tương ơi công tử Tương! Ngươi tưởng mình là ai mà dám tự ví với Gia Cát Võ Hầu và Hoài Âm Hầu? Những đại gia binh pháp người trời giáng phàm ấy, đều là thiên tài mấy trăm năm có một. Công tử Tương ngươi có tài cán gì mà dám luận bàn so sánh với họ?”
Vân Tương đợi Du Trọng Sơn cười cho đã, sau đó mới thủng thẳng đáp: “Tại hạ bằng lòng so thuật dụng binh với tướng quân.”
Du Trọng Sơn lại được thêm trận cười nữa: “So tài thế nào? Nếu ngươi muốn thi đọc thuộc binh pháp, chắc chắn ta không bằng ngươi. Nhưng để cầm quân đánh trận, kinh nghiệm, sách lược, uy tín đều không thể thiếu, ngươi ngoài việc thuộc làu mấy quyển binh pháp thì cái gì cũng không có, so tài với ta kiểu gì chứ?”
Vân Tương sắc mặt không đổi, nói: “Ta biết hằng tháng quân Du gia đều có diễn tập thực chiến, chúng ta mỗi người chỉ huy một đội quân so tài cao thấp.”
Du Trọng Sơn hứng chí nhìn Vân Tương giống như nhìn một đứa trẻ khoác lác, y nở nụ cười khoan dung: “Quân Du gia là quân hổ do một tay ta huấn luyện, chỉ nghe hiệu lệnh của ta, ngươi có uy tín gì chỉ huy họ?”
Vân Tương trầm giọng đáp: “Gia Cát Lượng khi mới ra khỏi nhà tranh, Lưu Bị lập tức đăng đàn bái tướng phong làm quân sư, có đại quyền sinh sát với toàn quân. Hàn Tín cũng được Lưu Bang phong soái cùng thượng phương bảo kiếm để lập uy. Tại hạ không dám đòi hỏi long trọng như vậy, chỉ cần tướng quân cho ta mượn một tín vật có thể chấp hành quân lệnh, tại hạ bằng lòng phân cao thấp trên thao trường diễn tập cùng tướng quân.”
Du Trọng Sơn cười lớn gật đầu: “Được! Trước kia lần nào diễn tập cũng đều chỉ có chúng ta tự mình đóng cửa luyện binh, lần này ta sẽ cùng chơi với ngươi.” Dứt lời, y tháo bội đao bên hông ném cho Vân Tương: “Đây là đao của bản quan, thấy đao như thấy người. Ta cho ngươi một doanh binh tướng, ngươi có thể đi làm quen với họ trước, mười ngày sau chúng ta gặp nhau trên thao trường diễn tập.”
Du Trọng Sơn tiện tay ném đao, sức nặng đã khiến Vân Tương loạng choạng, suýt chút nữa không cầm vững. Du Trọng Sơn thấy vậy lại cười phun ra tiếng, quay đầu sang Trương Vũ Nhiên dặn: “Ngươi đưa Vân công tử tới quân doanh, mặc cho gã chọn bất kỳ doanh trại nào dưới trướng ta. Nói với các tướng sĩ, Vân công tử tài như Gia Cát, Hàn Tín, mọi người không được khinh thị.” Dứt lời, y lại không nhịn nổi phá lên một tràng cười lớn. Trương Vũ Nhiên cũng cười khì khi ra hiệu cho Vân Tương: “Vân công tử, mời đi theo ta.”
Vân Tương chật vật ôm lấy bội đao, chắp tay chào Du Trọng Sơn, sắc mặt không đổi, đường hoàng bước theo Trương Vũ Nhiên ra khỏi trướng. Hai người đi tới nơi đóng quân bên ngoài, Trương Vũ Nhiên cười nói: “Lần diễn tập sau vốn tới lượt doanh một và doanh bảy, có điều công tử cũng có thể lựa chọn các doanh trại khác, bao gồm cả Hổ Bôn doanh hộ vệ cho Du tướng quân, công tử cũng có thể lựa chọn.”
“Chọn doanh một đi!” Vân Tương tiện miệng đáp. Trương Vũ Nhiên thấy gã dường như không hiểu gì về các quân doanh, có ý tốt nhắc nhở: “Doanh một tuy là quân tinh nhuệ thiện chiến của quân Du gia, nhưng cũng là một nhóm kiêu binh hãn tướng, e rằng không tiện chỉ huy. Có cần thay đổi không?”
“Không cần, cứ doanh một đi!” Vân Tương bề ngoài nhu nhược, nhưng chỉ nói một lời. Trương Vũ Nhiên hết cách đành đưa gã tới nơi đóng quân của doanh một, từ xa đã gọi lớn: “Ngưu tướng quân, ta đưa cao nhân tới cho ngươi đây!”
Một hán tử vạm vỡ râu ria xồm xoàm, mặt đen như hòn than, thò nửa người trần rắn khỏe như trâu ra khỏi doanh trại, từ xa đã sang sảng chào hỏi Trương Vũ Nhiên: “Hảo tiểu tử, biết chỗ lão ca ca kiếm được ít rượu ngon, ngửi mùi tới đấy hả?” Trông thấy Vân Tương trong bộ dạng thư sinh, y thờ ơ liếc qua, đoạn chỉ vào gã hỏi Trương Vũ Nhiên: “Đến đầu quân à? Ngươi biết ta ghét nhất là mọt sách rồi còn đưa tới chỗ ta. Lão Thất thích người có văn hóa, ngươi nên đưa tới chỗ y mới phải.”
Trương Vũ Nhiên bèn cười nói: “Nào nào nào, ta giới thiệu hai người. Vị này là điểm quân doanh một Ngưu Bưu, Ngưu tướng quân, còn vị này là Vân Tương, Vân công tử. Hai người làm quen đi.”
“Sao, không phải đến đầu quân à?” Ngưu Bưu đánh hơi thấy điều lạ, bèn hỏi: “Chuyện này là sao?”
Trương Vũ Nhiên cười đáp: “Vân công tử vừa nhận lệnh từ chỗ Du tướng quân, bắt đầu từ bây giờ cho tới lúc kết thúc diễn tập, toàn bộ doanh đều do y chỉ huy, bất cứ ai cũng không được kháng lệnh.”
Ngưu Bưu ngạc nhiên: “Ta cũng để y chỉ huy?”
Trương Vũ Nhiên gật đầu chắc nịch: “Đúng! Ngươi cũng phải nghe y chỉ huy.”
“Tại sao? Là người triều đình phái xuống à?” Ngưu Bưu nhìn Vân Tương bằng vẻ mặt không mấy thiện cảm, ngờ vực hỏi. Vân Tương không đợi Trương Vũ Nhiên mở lời, hầm giọng nói: “Một viên tướng đạt tiêu chuẩn chỉ phục tùng mệnh lệnh, không được hỏi tại sao!”
“Ý ngươi là ta không đạt tiêu chuẩn? “ Ngưu Bưu trợn mắt nhìn Vân Tương thách thức, lại quay sang hỏi Trương Vũ Nhiên: “Tiểu tử này quan hàm gì, dựa vào cái gì mà ta phải nghe y?”
Vân Tương giơ thanh bội đao trong tay lên, hô lớn: “Điểm quân doanh một Ngưu Bưu nghe lệnh!”
Ngưu Bưu ngơ ngác nhìn bộ dạng nghiêm túc của Vân Tương, lại nhìn sang Trương Vũ Nhiên. Vân Tương thấy vậy chợt bật cười ha hả: “Đây chính là quân Du gia sao, thì ra đây chính là quân Du gia, mệnh lệnh của Du Trọng Sơn thì ra chỉ là rắm thối!”
Ngưu Bưu đùng đùng nổi giận, hai tay nắm chặt chỉ muốn tìm người trút: “Tiểu tử ngươi dám lăng nhục tướng quân, lão tử sẽ xé xác ngươi!”
Vân Tương thản nhiên nhìn thẳng vào đôi mắt đỏ quạu của Ngưu Bưu, giơ bội đao ra trước mặt y: “Du tướng quân ban cho ta bội đao, nói rằng toàn bộ quân Du gia từ trên xuống dưới thấy đao như thấy người! Nhưng tướng lĩnh đầu tiên ta gặp lại phớt lờ bội đao của tướng quân, mệnh lệnh của Du tướng quân chẳng là rắm thối thì là gì?”
Hai người trợn trừng mắt nhìn nhau, không ai nhường ai, nếu ánh mắt như kiếm, hẳn lúc này họ đang giao phong kịch liệt. Ngưu Bưu hằm hè hồi lâu, thấy trong ánh mắt của gã thư sinh yếu ớt không có ý rút lui, y bất giác chột dạ, miễn cưỡng chắp tay vái: “Mạt tướng bái kiến…” Nói tới đây, y chợt quên mất cách xưng hô với gã, đành xoay sang nhìn Trương Vũ Nhiên đang đứng bên, Trương Vũ Nhiên bèn nhỏ giọng nhắc: “Vân Tương, Vân công tử.”
Ngưu Bưu chắp tay lấy lệ: “Bái kiến Vân công tử.”
Vân Tương tức thì ra lệnh: “Lập tức tập hợp đội ngũ, ta muốn duyệt quân!”
“Bây giờ?” Ngưu Bưu thoáng ngạc nhiên, cũng khó trách, các binh sĩ lúc này vừa kết thúc buổi tập luyện sớm, đang ăn bữa sáng, giờ bảo duyệt quân quả thực không hợp tình hợp lý. Trương Vũ Nhiên cũng nhỏ giọng nhắc:
“Vân công tử, các binh sĩ đang dùng bữa, có phải nên đợi…”
“Giặc Oa đến tập kích liệu có đợi các tướng sĩ ăn xong không?” Vân Tương nghiêm giọng ngắt lời Trương Vũ Nhiên, quay sang nói với Ngưu Bưu: “Ta không muốn nhắc lại lần thứ hai! Lập tức tập hợp đội ngũ!”
Ngưu Bưu bất mãn trừng mắt nhìn Vân Tương, lớn giọng gọi: “Ty hiệu thủ, thổi còi hiệu!”
Tiếng tù và trầm nặng vang vọng khắp quân doanh, mang theo mùi chiến đấu và giết chóc nồng nặc. Các binh sĩ đang ăn cơm không biết xảy ra chuyện gì, nhốn nháo bỏ bát đũa chạy tới từ bốn phương tám hướng. Vân Tương đã bắt đầu bấm đốt tay đếm nhịp thở từ lúc tiếng tù và vang lên, đợi Ngưu Bưu chấn chỉnh hàng ngũ xong xuôi, gã mới dừng lại.
“Mời Vân công tử duyệt quân!” Ngưu Bưu chỉnh đốn đội ngũ xong liền ra hiệu cho Vân Tương. Cách xưng “công tử” vừa không có quân hàm cũng không phải chức quan lập tức khiến binh sĩ tò mò, nhưng kỷ luật quân Du gia nghiêm minh, tuy lòng binh sĩ có nghi hoặc, nhưng đội ngũ vẫn chỉnh tề trật tự.
Vân Tương chậm rãi bước lên bục cao nhìn xuống hơn ba trăm hán tử lực lưỡng phía dưới, giơ bàn tay đếm nhịp thở của mình lên, cao giọng nói: “Từ lúc tiếng tù và cất lên cho đến khi xếp thành hàng ngay ngắn, hơn ba trăm người của doanh một đã dùng tới mười tám nhịp thở, đây chính là doanh tự xưng tinh nhuệ của quân Du gia sao? Ta thấy đều là binh nhược tướng yếu!”
Thấy sắc mặt các tướng sĩ đều có vẻ bực bội bất mãn, Vân Tương cười nhạt nói: “Các ngươi chớ vội không phục. Có biết thiết kỵ Mông Cổ, đội quân vạn người tung hoành thiên hạ năm xưa xếp đội ngũ mất bao lâu không? Mười nhịp thở, nhanh gần như gấp đôi các ngươi! Đây chính là nguyên nhân thiết kỵ Mông Cổ có thể tung hoành thiên hạ, còn các ngươi đến đám giặc Oa nhỏ nhoi cũng không đối phó được!”
Các tướng sĩ lộ vẻ kinh ngạc, tiếp đó có người lớn tiếng quát hỏi: “Lời này căn cứ vào đâu?”
Vân Tương nhìn thẳng hán tử vừa lên tiếng, thấy y đứng đầu hàng, trông quân phục thì là một bách phu trưởng*. Vân Tương không trả lời câu hỏi của y mà xoay sang hỏi Ngưu Bưu: “Ngưu tướng quân, trong hàng ngũ nếu tự tiện lên tiếng khi chưa được lệnh, nên xử phạt thế nào?”
Ngưu Bưu thoáng chần chừ, lí nhí đáp: “Nhẹ phạt mười gậy, nặng thì năm mươi! Thị chúng.”
Vân Tương lạnh lùng nói: “Vậy ngươi còn không chấp hành nghiêm quân kỷ?”
Ngưu Bưu bất lực, hằn học trợn mắt nhìn tên thuộc hạ kém cỏi: “Người đâu! Lôi ra phạt đánh mười gậy!”
Hai tên lính miễn cưỡng lôi bách phu trưởng kia đi, nhưng bách phu trưởng vẫn trợn mắt nhìn Vân Tương, rống lên: “Tên họ Vân kia, lão tử không sợ chịu phạt! Ngươi căn cứ vào đâu mà nói vạn quân Mông Cổ có thể tập hợp quân đội trong mười nhịp thở? Nếu ngươi không trả lời được, lão tử không phục, không phục!”
Vân Tương ra lệnh cho hai tên lính chấp hành mệnh lệnh dừng bước, sau đó ung dung nói với bách phu trưởng: “Theo ghi chép trong cuốn Mông Cổ quân kỷ, một vạn quân tập hợp nếu vượt quá mười nhịp thở, kẻ đến muộn phạt đánh hai mươi roi, quá mười lăm nhịp thở, chủ tướng chịu phạt gấp đôi, quá hai mươi nhịp thở, chém chủ tướng! Ngươi không tin có thể xem trong Mông Cổ quân kỷ hoặc Nguyên sử, nếu phát hiện bản công tử nói nửa câu không đúng sự thật, ta bằng lòng chịu phạt gấp đôi!” Nói tới đây, gã ngừng lại một nhịp, rồi quyết đoán vung tay trước ánh mắt kinh ngạc của quân sĩ: “Chấp hành quân pháp!”
Tiếng gậy nặng nề đánh vào da thịt văng vẳng trên thao trường một lúc lâu. Các tướng sĩ im lặng như tờ, ánh mắt nhìn Vân Tương đã khác với lúc trước. Họ bắt đầu nhận ra, gã thư sinh dáng vẻ gầy yếu, thân phận bất minh này không dễ ức hiếp như bộ dạng lương thiện bề ngoài của gã.
Vân Tương nhìn quanh quân sĩ, trầm giọng nói: “Bắt đầu từ hôm nay, kẻ nào tập hợp vượt quá mười nhịp thở, mỗi nhịp thở muộn phạt đánh mười gậy! Ngưu tướng quân!”
“Có mạt tướng!” Ngưu Bưu vội cúi người nghe lệnh. Vân Tương lãnh đạm nói: “Gọi từ bả tổng trở lên vào trong trướng nghị sự, những người khác tiếp tục về dùng bữa.”
Ngưu Bưu lập tức giải tán đội ngũ, đồng thời gọi các chỉ huy quân vào trướng mình nghe lệnh. Trương Vũ Nhiên thấy Vân Tương đã khống chế được đại cục, bèn cáo từ, vội vã về chỗ Du Trọng Sơn phục mệnh.
Du Trọng Sơn nghe Trương Vũ Nhiên thuật lại tỏ tường thì có phần kinh ngạc. Vừa rồi y còn đang hối hận đã trúng kế khích tướng của công tử Tương, nhất thời giao binh tướng doanh một cho một thư sinh chưa từng cầm quân, không biết sẽ rối loạn thế nào. Giờ nghe thư sinh đang hiệu lệnh toàn doanh, y xoa râu cằm, nghĩ ngợi lẩm bẩm: “Tên công tử Tương này không giống người đã từng cầm quân.”
“Tên họ Vân cũng thật quá cao ngạo.” Trương Vũ Nhiên có chút căm phẫn bất bình cho đồng liêu: “Lấy lông gà làm lệnh tiễn, còn dám đánh thuộc hạ của tướng quân.”
“Bội đao của lão tử không phải lông gà!” Du Trọng Sơn thuận tay tát Trương Vũ Nhiên một cái: “Chấp hành mệnh lệnh là tố chất cơ bản của quân nhân, ai cầm quân cũng vậy! Đám người doanh một được ta ngày thường dung túng quen rồi, để người khác trị cho cũng tốt.” Nói tới đây, y lại vân vê cằm, bật cười hào hứng: “Tên công tử Tương này, đúng là ta đã xem thường gã rồi!”