Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 40
7
Sơ
chiến
Mặt trời đã khuất vào lòng biển, chỉ để lại một dải mông lung mịt mờ, may thay vẫn còn ánh trăng sáng rải lên mặt biển một màu trắng bạc. Dưới ánh trăng mờ, gió biển rít gào cuộn sóng tung bọt. Du Trọng Sơn giơ tay ra ngoài cửa sổ xem xét hướng gió, lẩm bẩm một mình: “Hướng gió cuối cùng đã đổi rồi.”
“Báo!” Lính truyền lệnh đột nhiên hô lớn ở ngoài cửa khoang: “Trinh thám trên thuyền nhỏ phát về tín hiệu, đội thuyền của quân địch đã tập trung ngoài hai mươi dặm, đang di chuyển ngược gió về cánh bên của ta.”
Du Trọng Sơn nghe vậy phụt cười khùng khục: “Thư sinh rốt cuộc vẫn là thư sinh, có tinh thông binh pháp tới đâu cũng chỉ là bàn binh trên giấy. Tính tới tính lui chắc cũng không tính được trận gió lớn đêm nay? Định đi ngược gió đánh vòng vào cánh bên của ta, đây chẳng phải tìm đường chết sao?”
Phó tướng Trương Vũ Nhiên cũng cười nói: “Chúng ta chỉ cần dưỡng quân nghênh chiến là có thể đại thắng rồi.”
“Không phải!” Du Trọng Sơn khẽ lắc đầu: “Công tử Tương đa mưu túc trí, thông minh tuyệt đỉnh, một khi phát hiện thất sách, chắc chắn sẽ thay đổi ngay tức khắc. Chúng ta không thể để y có bất cứ cơ hội sửa đổi nào!” Nói tới đây, y đột nhiên cất cao giọng: “Truyền lệnh xuống, đội thuyền căng buồm, đẩy hết tốc lực đi về hướng Đông Nam, đánh thẳng vào thuyền chủ tướng quân địch!”
Tiếng tù và ngân vang trên boong thuyền, các thủy binh mau mắn căng buồm. Kỳ binh trên cột thuyền lấy đèn lồng phát tín hiệu cho đồng đội, mười mấy chiến thuyền lập tức căng buồm khởi hành tiến tới đối thủ trong bóng tối.
“Báo! Thuyền địch quay đầu chạy rồi!” Tiêu binh đột nhiên hô lớn trên cột thuyền. Du Trọng Sơn nghe vậy hừ khẽ: “Tên công tử Tương này phản ứng nhanh thật. Hiện giờ chúng ta còn cách thuyền địch bao xa?”
“Khoảng ngoài ba dặm!” Tiêu binh đáp. Du Trọng Sơn lạnh lùng hừ giọng: “Đuổi theo, với khoảng cách này, y không tài nào thoát được truy kích của chúng ta!”
Gió và sóng biển mỗi lúc một lớn dần, cánh buồm kêu phần phật. Mười mấy chiến thuyền như mũi tên rời cung bắn thẳng vào đối thủ. Bóng thuyền đen kịt của đối thủ dần hiện trên mặt biển mờ ảo, giống như mười mấy con quái thú đang hoảng hốt trốn khỏi sự truy đuổi của thợ săn.
“Báo! Thuyền địch đã trốn vào vịnh!” Tin báo của tiêu binh khiến Du Trọng Sơn rúng động, vội lớn tiếng hạ lệnh: “Giảm tốc độ! Ném mỏ neo dừng lại ngoài vịnh!”
“Tại sao không đuổi theo?” Phó tướng Trương Vũ Nhiên không hiểu bèn hỏi. Du Trọng Sơn trầm giọng nói: “Tuy công tử Tương không xuất thân nhà binh, nhưng chúng ta đã tận mắt chứng kiến tài cầm quân của y, trận pháp y bày ra không thể dễ dàng rối loạn như vậy. Nếu y đã trốn vào tuyệt địa trong vịnh, chúng ta chỉ cần thủ sẵn ở cửa vịnh, khi trời sáng tất cả sắp đặt và mưu kế của y sẽ đều đổ bể.”
Chiến thuyền dừng lại trên biển như mười mấy con chó săn, lặng lẽ nằm phục ngoài hang động của con mồi, đợi khi trời sáng sẽ phát động đòn tấn công trí mạng. Ở trong vịnh, Vân Tương cũng đang im lặng chờ đợi. Tiêu bá nhìn gợn trắng như bụng cá dần hiện ở đằng Đông thì nhỏ giọng hỏi: “Nếu Du Trọng Sơn không đuổi vào thì sẽ thế nào?”
Vân Tương cười khổ đáp: “Nếu trước khi trời sáng Du Trọng Sơn không đuổi vào vịnh thì chúng ta thua chắc rồi. Hiện tại chúng ta chỉ có thể cầu trời, để gió biển mạnh hơn mạnh hơn nữa, ép họ phải vào đây!”
Lão ngư Mạnh bá đứng bên cười an ủi: “Vân công tử yên tâm, theo kinh nghiệm nhiều năm sinh sống trên biển của lão hủ, gió biển đêm nay không thể nhỏ được!”
Vân Tương cũng tạm yên lòng, vui vẻ nói: “Vậy thì phải cảm tạ trời xanh tương trợ rồi!”
Trong vịnh đang sóng yên biển lặng, còn bên ngoài đã sóng lớn ngợp trời. Du Trọng Sơn đứng sừng sững ở đầu thuyền, thất thần nhìn thủy quân tất bật trong gió lớn. Một tướng thủy quân loạng choạng bước tới, gào lên xin chỉ thị: “Tướng quân! Gió biển quá lớn, chúng ta có nên cập bờ tránh gió không?”
Phó tướng Trương Vũ Nhiên cũng nói: “Đúng vậy! Cứ tiếp tục đợi, nói không chừng chiến thuyền sẽ bị tổn hại.”
Du Trọng Sơn ngậm ngùi thở dài, đây là diễn tập không phải thực chiến, nếu để chiến thuyền tổn hại trong lúc diễn tập quả thực không đáng. Nhưng nếu cứ vậy buông tha đối thủ đã bị dồn vào tuyệt địa thì y lại không cam lòng. Du Trọng Sơn ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng quyết định mạo hiểm một lần.
“Lệnh cho đội thuyền tiến vào trong vịnh quyết chiến với quân địch.” Du Trọng Sơn vừa hạ lệnh, mười mấy chiến thuyền như chó săn nhận được mệnh lệnh, lập tức ùa vào trong vịnh.
“Đến rồi!” Thấy mười mấy chiến thuyền chạy hết tốc lực vào vịnh, điểm quân Trương Long phấn khích hô lên. Một mặt dùng đèn tín hiệu chỉ thị cho ba thuyền lớn chèn cửa vịnh, mặt khác phát lệnh cho thủy quân tấn công địch nhằm thu hút sự chú ý của đối thủ.
Trong vịnh ngớt gió lặng sóng hơn rất nhiều, nhưng tiếng trống trận đùng đùng khiến không ai dám buông lỏng tinh thần. Du Trọng Sơn vừa lệnh cho quân tiên phong nghênh địch, vừa chỉ huy hậu quân bảo vệ đường rút của mình. Lúc này, y nhìn thấy ba chiến thuyền địch hoàn toàn bất chấp an nguy của bản thân, cứ bổ thẳng vào cửa vịnh từ cánh bên. Du Trọng Sơn ngờ vực nhìn ba thuyền lớn ấy, lẩm bẩm tự nhủ: “Tên công tử Tương này hy sinh ba chiến thuyền không thương tiếc, muốn làm gì đây?”
Tiếng hỏa pháo rung chuyển ầm ầm, ánh lửa như tia chớp vụt lóe rồi tắt ngấm trên mặt biển. Tuy hỏa pháo đều không lắp đạn, nhưng mức độ quyết liệt không kém gì những cuộc hải chiến thật sự. Tướng lĩnh làm trọng tài sẽ ở trên thuyền cách xa chiến trường ghi chép lại số lần bắn pháo của hai bên cùng khoảng cách xa gần, góc độ bắn pháo để xác định những chiến thuyền nào bị tính đánh chìm rút lui khỏi diễn tập.
Du Trọng Sơn đang định hạ lệnh đánh chìm ba chiến thuyền địch phía sau thuyền mình trước, chợt nghe tiêu binh trên cột thuyền hô lớn: “Ba chiến thuyền địch phát tín hiệu cho ta, họ đã tự đục chìm thuyền.”
“Tự đục chìm thuyền?” Du Trọng Sơn thất kinh, lập tức hiểu ra ý đồ của Vân Tương. Phó tướng ở bên cạnh vẫn còn đang càu nhàu: “Trong diễn tập lấy đâu ra kiểu chiến thuật này, mặc kệ nó, tiếp tục khai pháo vào bọn họ.”
“Dừng lại!” Du Trọng Sơn hạ lệnh, hỏa pháo lập tức dừng bắn, vịnh biển thoáng chốc trở lại tĩnh lặng, chỉ thấy chiến thuyền thủy quân địch đã cập bờ gần hết. Du Trọng Sơn xem xét vị trí thả neo của ba chiến thuyền, ảm đạm nói: “Ba chiếc thuyền kia nếu chìm ở đó sẽ bịt chết cửa vịnh, kéo theo chúng ta cũng bị nhốt cả trong vịnh này rồi.”
Trương Vũ Nhiên bèn nói: “Đâu có chiến thuật này trong diễn tập, không cần để ý.”
“Trong diễn tập không có, nhưng trong thực chiến thì có.” Du Trọng Sơn trầm giọng nói: “Chúng ta phải dùng lối suy nghĩ trong thực chiến để diễn tập, như vậy mới có thể đạt hiệu quả. Bây giờ đường lui của chúng ta đã bị bịt, nhưng chiến thuyền binh sĩ đều không tổn thất mấy, vẫn chưa xem là thua. Công tử Tương vì muốn dụ chúng ta vào tuyệt địa này cũng đã phải bù thủy quân của mình vào, tính ra cũng không giành được lợi thế gì.”
Lời vừa dứt, y chợt thấy mấy mũi phi tiễn rực cháy trên bờ đá bay tới, rơi xuống sàn thuyền lập tức bị binh sĩ dập tắt. Sắc mặt Du Trọng Sơn trở nên nặng nề, y biết công tử Tương đang muốn hỏi rằng, nếu gặp tập kích bằng hỏa tiễn, y sẽ ứng phó thế nào? Nếu là thực chiến, hỏa tiễn chắc chắn sẽ bắn tới như mưa, quyết không dễ dàng bị dập tắt.
“Bỏ thuyền! Lên bờ!” Du Trọng Sơn bất đắc dĩ hạ lệnh, y biết bộ binh của Vân Tương đã chiếm cứ địa hình có lợi, nhưng khi gặp đợt tấn công bằng hỏa tiễn, không còn cách nào tốt hơn ngoài việc bỏ thuyền lên bờ.
“Lên bờ ở đâu?” Trương Vũ Nhiên vội hỏi. Du Trọng Sơn phóng tầm mắt ra xa, quan sát thấy bờ đá xung quanh đều sáng bừng đuốc lửa, chỉ có bờ cát thoáng rộng là tối mịt không một tia sáng. Y trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng hạ lệnh: “Lên bờ từ chỗ bờ đá có lửa sáng nhất.”
Mười mấy chiến thuyền lục tục cập bờ, hơn một nghìn quân sĩ nháo nhác bỏ thuyền lên bờ. Đúng lúc này, một tiếng pháo hiệu lớn nổ vang, doanh một và doanh bảy mai phục tại những nơi hiểm yếu nhất tề lộ diện giơ sẵn cung tên nhưng không bắn. Du Trọng Sơn thấy vậy thở dài một tiếng, quay đầu bảo với phó tướng: “Dừng diễn tập, công tử Tương thắng rồi.”
Đèn hiệu báo dừng diễn tập từ từ được kéo lên trên cột buồm chiến thuyền, quân sĩ mai phục trên bờ ồ lên hoan hô. Vân Tương bước ra khỏi nơi ẩn nấp, tà áo xanh biếc bay phần phật trong gió, gã tiến lên phía trước, từ xa đã chắp tay chào Du Trọng Sơn. Du Trọng Sơn rảo bước nhanh lên trước, chắp tay bái: “Công tử hiểu binh giỏi dụng, tài thao lược khiến Du mỗ không thể so bì, tại hạ thua tâm phục khẩu phục.”
Vân Tương liền kéo Triệu Văn Hổ phía sau lên, cười nói: “Du tướng quân khiêm tốn rồi. Trận chiến này ta có mãnh tướng quen lối dụng binh của tướng quân tương trợ, ta cũng đã nghiên cứu thói quen dụng binh trong quá khứ của ngài, vì vậy mới có thể bố trí như vậy, chiếm ưu thế người trong tối kẻ ngoài sáng. Nhưng dù là vậy, với bản lĩnh của tướng quân muốn đột phá vòng vây trong đêm cũng không phải chuyện khó, vì vậy trận chiến này xem như hòa, tại hạ không dám tự xưng thắng cuộc.”
Du Trọng Sơn gật đầu với Triệu Văn Hổ, đỡ tay Vân Tương cảm khái: “Công tử không cần khiêm nhường, ngươi giỏi dùng người, lần đầu thống lĩnh liên quân thủy lục hơn nghìn người tác chiến mà có thể nghĩ ra diệu kế này, gọi là thiên tài cũng không quá. Ta sẽ giao cho công tử toàn quyền chỉ huy điều động Tiễu Oa Doanh, tại hạ chỉ giám sát, huấn luyện và tham mưu. Tin rằng với tài năng của công tử chắc chắn sẽ không khiến bản tướng quân thất vọng.”
Vân Tương bèn cúi người bái: “Đa tạ tướng quân tín nhiệm, tại hạ sẽ dốc hết sức lực dẹp yên nạn giặc Oa trăm năm, bảo vệ bình yên cho bách tính.”
Du Trọng Sơn vội đỡ Vân Tương dậy, giải thích: “Đáng tiếc vì chế độ triều đình, quân quyền không thể giao riêng, vì vậy tất cả mệnh lệnh của công tử vẫn phải do bản tướng quân thay ngươi truyền đạt, xin công tử hiểu cho.”
Vân Tương gật đầu đáp: “Vân Tương phải mượn uy tín của tướng quân mới có thể hiệu lệnh toàn quân. Cũng chỉ có nhờ tướng quân tin tưởng mới chỉ huy được Tiễu Oa Doanh mà không bị bó buộc. Tại hạ gặp được Bá Nhạc biết dùng người, lễ hiền kẻ sĩ như tướng quân, chính là vinh hạnh lớn trong đời của Vân Tương!”
Du Trọng Sơn cười khà khà, đỡ tay Vân Tương phóng mắt nhìn biển cả mênh mông phía xa, ngạo nghễ nói: “Công tử là kỳ tài trời sinh, không thua kém gì Vũ hầu và Hàn Tín. Hãy để chúng ta văn võ liên thủ, dẹp yên mối họa giặc Oa trăm năm này!”
Trên thảo nguyên mênh mang vô tận, Ba Triết giống như con sói cô độc, đang khổ sở lần theo hướng Thư Á Nam trốn chạy. Y quyết không từ bỏ dù đã chẳng còn ngựa, giống như một con chó săn trung thành vĩnh viễn chấp hành mệnh lệnh của chủ nhân.
Chợt có mấy hán tử du mục xuất hiện ở phía trước, đang xua bầy ngựa chạy trên thảo nguyên. Có người nhìn thấy Ba Triết đi bộ tới bèn chào hỏi từ xa: “Này! Huynh đệ! Có cần giúp đỡ không?”
“Các ngươi có nhìn thấy nữ nhân nào một mình qua đây không?” Ba Triết vừa hỏi vừa quan sát tuấn mã trong bầy ngựa. Một hán tử chỉ về phía Đồng Nam: “Có! Đi theo hướng kia kìa.”
Hán tử khác cười nói: “Nhìn ngươi bụi bặm đầy người, chắc đã đi một quãng đường dài rồi, qua đây uống với chúng ta một chén, người đến đều là khách mà.”
Ba Triết không màng nghe lời mời của hán tử chăn ngựa, thình lình giật dây cương của một trong số họ, sau đó cướp ngựa phi vào giữa bầy. Y phát hiện con ngựa đầu đàn là thiên lý mã toàn thân đen nhánh, nếu cướp được nó thì việc đuổi theo ả nữ nhân kia không có gì đáng ngại.
Đàn ngựa hoảng sợ bắt đầu chạy trốn ra xa, tiếng vó dồn dập như sấm động vang trời đất. Ba Triết lặng lẽ tiếp cận con ngựa đầu đàn từ cánh bên, khi cách nó chừng mấy trượng, y đột ngột tung người lăng không, vận khinh công đạp lên lưng mấy con ngựa đang chạy khác đuổi theo ngựa đầu đàn, tiếp đó nhảy bổ lên lưng nó như hổ vồ. Con ngựa đầu đàn hoảng loạn hí vang, ra sức tung mình nhưng không sao quật được Ba Triết xuống. Ba Triết một tay tóm chặt bờm ngựa, tay kia đấm mạnh vào lưng nó liên tục mấy chục quyền, tuấn mã cuối cùng không chịu nổi đau, dần dần dịu lại.
Mấy kẻ chăn ngựa há mồm trợn mắt trông theo, thấy y không chỉ đã thuần phục được con ngựa đầu đàn mà còn định cướp nó đi, họ tranh nhau la mắng chạy lên trước ngăn cản. Ba Triết vừa bị Thư Á Nam ám toán, lòng đang đầy lửa hận, thấy đám người dám quát mắng chặn lối, y không nhiều lời mà rút đao chém giết mở đường. Mấy kẻ chăn ngựa tức thì đầu lìa khỏi xác, chết bất đắc kỳ tử. Ba Triết người dính máu tanh phi ngựa thẳng về phía Đông Nam.
Có được tuấn mã ngày chạy nghìn dặm, hoàng hôn ngày hôm sau Ba Triết đã đuổi kịp ả nữ nhân đáng ghét ấy. Nơi đây là một tiểu trấn biên ải trong quan nội, chỉ có một con đường nhỏ và mấy tiệm hàng đơn sơ cùng vài chục hộ dân nghèo rách rưới. Khi Ba Triết dắt ngựa tới trước mặt Thư Á Nam, nàng đang ngồi ở quán rượu duy nhất trong trấn, ăn lấy ăn để loại bánh mì cứng ngắc như đá của dân địa phương để lấp đầy bụng. Thư Á Nam thấy Ba Triết đột ngột xuất hiện trước mặt thì kinh hãi há mồm trợn mắt, nếu trong miệng không lấp đầy bánh hẳn đã nhét vừa cả quả đấm.
Ba Triết rất thích nhìn bộ dạng kinh sợ của người khác, y cười khoái trá, nghênh ngang ngồi xuống trước mặt nàng, lớn tiếng nói với tiểu nhị vừa chạy tới chào hỏi: “Năm cân* rượu ngon!”
Tiểu nhị nhanh nhẹn ôm một vò rượu lớn tới, ân cần hỏi: “Khách quan có cần gọi món không?”
“Ta đã có món nhắm rượu rồi, còn món nào bằng được thịt thiếu nữ tươi non mơn mởn?” Ba Triết liếm bờ môi nứt nẻ, cười híp mắt chăm chú nhìn Thư Á Nam ở đối diện, nói giọng nhàn nhạt. Tiểu nhị nghe mà lùng bùng không hiểu, nhưng trực giác cho y biết hán tử dị tộc trông như lang sói này không phải hạng lương thiện gì, bèn lập tức đặt vò rượu xuống trốn sang bên.
Thư Á Nam bỗng nhiên thấy buồn nôn, một luồng khí lạnh chưa từng thấy từ da thịt chạy thẳng vào xương tủy nàng. Nàng đã từng thấy đủ kiểu ánh mắt khiến người ta bất an: từ hung hãn, dâm đãng, cay độc, cho đến sát khí trùng trùng, nhưng tất cả cộng lại đều không khiến nàng rợn gáy run sợ bằng ánh mắt của Ba Triết. Đây là ánh mắt thèm khát của con sói đói đang hằm hè nhìn con mồi!
“Ngươi biết tại sao ta lại trung thành với Lãng Đa điện hạ không?” Ba Triết nheo mắt cười, tóm chặt tay Thư Á Nam, đưa lên mũi đánh hơi khịt khịt: “Vì ta có một biệt hiệu là Sói Người. Năm ta mười sáu tuổi, tuyết lớn bịt kín núi, tất cả người trong làng đều đói ngoi ngóp, ta cũng không ngoại lệ. Ngươi chưa từng chịu cảnh đói, hoặc ít ra chưa đói tới mức phải ăn bùn đất để lấp đầy bụng, ngươi không thể biết cảm giác đáng sợ khi cơn đói khát theo sát ngươi đêm ngày. Vì muốn sống, ta đã ăn mọi thứ cả ăn được lẫn không ăn được, từ chuột, rắn độc, sâu bọ, côn trùng, cuối cùng đến cả rễ cỏ, vỏ cây, bùn đất đều nhét vào bụng. Sau khi ăn sạch tất cả những thứ ăn được lẫn không ăn được ấy, ta buộc phải nhét đầy dạ bằng một động vật vừa ăn được lại vừa không ăn được, ngươi biết là con gì không?”
Thư Á Nam đột nhiên cảm thấy người mềm nhũn, dịch vị từ dạ dày ộc lên, nỗi sợ hãi từ đáy sâu tâm hồn khiến hai mắt nàng chỉ chực lồi ra. Ba Triết mỉm cười gật đầu: “Ngươi đoán đúng rồi, là con người. Cả thôn một trăm lẻ ba người đều trở thành món ngon của ta, ta là kẻ may mắn duy nhất sống sót qua nạn đói ấy. Từ sau khi ăn thịt người, ta phát hiện mỹ vị nhân gian nào cũng không bằng được mùi vị ấy, vì vậy ta đã mê đắm món ăn này, không nhịn được phải đi lùng sục khắp nơi. Dân du mục gần đó xem ta như yêu ma quỷ quái, họ gọi ta là Sói Người.”
Ba Triết sờ vào những vết sẹo chằng chịt trên cánh tay, khẽ than: “Vô số kẻ muốn diệt trừ ta, vô vàn cái bẫy được giăng ra, thợ săn coi việc lấy đầu con Sói Người này như một niềm vinh dự lớn lao. Tuy chuyện này quả khiến ta gặp chút khó khăn, nhưng chúng đều thất bại. Ta ngày càng thông minh hơn trong cuộc đọ sức với chúng, càng lúc càng giống một con dã thú đích thực, cho tới khi gặp Lãng Đa điện hạ.”
Ba Triết nhìn vào hư không, ánh mắt tràn đầy cảm kích và kính ngưỡng: “Lãng Đa điện hạ đã hy sinh mấy chục võ sĩ cùng hơn trăm con chó săn, cuối cùng mới bắt được ta. Sau khi nghe lý do ta ăn thịt người, điện hạ không giết ta, ngược lại còn giữ ta ở bên, đồng thời cho ta ăn những món ăn ngon nhất, khiến ta dần quên đi mùi vị thịt người. Ngài cho ta trở lại làm một người bình thường, vì vậy, ta coi điện hạ như phụ mẫu tái sinh.” Nói tới đây, nét mặt Ba Triết bỗng trở lên hung dữ dị thường, y nhìn xoáy vào Thư Á Nam, gằn giọng: “Suốt mấy ngày đêm đói khát truy đuổi ngươi, đã gọi ta nhớ lại cơn đói năm mười sáu tuổi cùng mùi vị đặc trưng của thịt người. Ta hận ngươi! Vì ngươi mà cơn thèm khát thịt người vô tận trong ta một lần nữa sống dậy. Tất cả đã từ ngươi mà ra, ta chỉ còn cách ăn thịt ngươi mới có thể dập tắt dục vọng bị lãng quên nhiều năm nay.”
Thư Á Nam giật mình kinh hãi, hồn bay phách lạc, lắp bắp nói: “Ta… ta là phi tử của Lãng Đa điện hạ, ngươi… ngươi không thể ăn ta!”
Ba Triết cười gằn: “Lãng Đa điện hạ đã tan nát cõi lòng vì ngươi rồi, trước khi đi điện hạ có nói với ta, không mang được người sống thì phải mang xác về. Mang cái xác về phiền phức quá, vì vậy ta định chỉ đem đầu ngươi về, phần còn lại ấy mà… hà hà!” Nói đoạn, Ba Triết liếm môi, nhìn Thư Á Nam từ cổ trở xuống như muốn nhỏ dãi.
Sợ hãi có thể khiến con người ta bộc phát tiềm năng, Thư Á Nam không biết lấy sức từ đâu, vùng khỏi bàn tay Ba Triết rồi lật đổ bàn, tung một cước đá vào yết hầu của y. Ba Triết tức khắc cúi đầu há rộng miệng toan cắn vào mũi giày Thư Á Nam đá tới. Đây không phải chiêu thức võ công của môn phái nào, chỉ hoàn toàn là bản năng động vật hình thành sau vô số lần quyết đấu sinh tử.
Thư Á Nam thầm kinh hãi, nhưng tay chân không hề chậm trễ, rút đao chém vào cổ Ba Triết. Ba Triết giơ tay tóm chặt lưỡi đao, tiếp đó chặt một chưởng vào gáy nàng, Thư Á Nam lập tức đổ gục người. Ba Triết bất chấp vết thương bị đao cứa nơi lòng bàn tay, một tay ôm vò rượu, tay kia nhấc bổng Thư Á Nam đang nhũn như chi chi, bước nghênh ngang ra ngoài. Lúc này trời đã tối, trong quán ngoài tiểu nhị và chưởng quầy thì chẳng còn ai. Hai người thấy Ba Triết hành hung, toan la lối gọi người, chẳng ngờ bị Ba Triết lần lượt đá mỗi người một cước vào chỗ hiểm, cả hai lập tức đổ xuống, miệng ộc máu tươi chết ngay tức khắc.
Ba Triết ôm Thư Á Nam và vò rượu tới khu rừng ở ngoại ô, ném Thư Á Nam xuống đất rồi nhặt cành cây khô nhóm lửa, sau đó y quay sang cười khùng khục bảo Thư Á Nam: “Thịt người nướng lên ăn thơm ngon nhất, đặc biệt là thịt tươi của thiếu nữ trẻ đẹp, ta bảo đảm đây là mỹ vị chưa người thường nào từng được thưởng thức. Hiếm khi có người xinh đẹp như ngươi, ta định chia sẻ mỹ vị đệ nhất thế gian này cho ngươi nếm thử. Ngươi yên tâm, ta hạ đao rất cẩn thận, quyết không để ngươi mất máu chết sớm đâu. Hy vọng chúng ta ăn xong tứ chi và thịt trên lưng ngươi rồi, ngươi vẫn còn sức khen tài nấu nướng của ta.”
Nói đoạn, Ba Triết lấy ra bình Kim Sang dược*, sau đó rút chủy thủ, cứa rách tay áo dọc theo cánh tay của Thư Á Nam. Xong xuôi, y mới từ từ cắm chủy thủ xuống cánh tay căng mịn trắng ngần ấy…
Tin chiến sự mới nhất được đặt trên bàn trong đại trướng quân Tiễu Oa Doanh, bầu không khí trong trướng vô cùng nặng nề ngột ngạt. Du Trọng Sơn ngồi dựa vào bàn, đẩy xấp tin báo cho Vân Tương ngồi bên, nói: “Đông Hương Bình Dã Lang lại xâm phạm quấy nhiễu tình Phúc Kiến, cướp bóc ở mấy châu huyện rồi bỏ đi. Tiễu Oa Doanh chúng ta đã thành lập được gần hai tháng mà vẫn chưa nên công lao gì, không biết công tử có đối sách gì hay?”
Tuy quyền chỉ huy thực tế của Tiễu Oa Doanh đã thuộc về Vân Tương, nhưng để kẻ có dụng tâm không nắm được sơ hở đả kích, mỗi lần nghị sự vẫn do Du Trọng Sơn ngồi ở soái vị, thân phận công khai của Vân Tương chỉ là tham quân của họ Du. Được Du Trọng Sơn hỏi, Vân Tương ung dung đáp: “Có! Nhưng mà phải để Du tướng quân chịu chút ấm ức.” Gã đẩy một bản tấu tới trước mặt Du Trọng Sơn: “Ta đã thay Du tướng quân thảo bản tấu này, mong Du tướng quân mau chóng phái người gửi tới kinh sư.”
Du Trọng Sơn mở bản tấu ra xem, mặt lộ vẻ sửng sốt, cúi đầu trầm ngâm một hồi, dần dần lại như lĩnh ngộ, cuối cùng tươi cười nói: “Để bắt được con sói dữ Đông Hương này, cá nhân ta chịu chút chút ấm ức có đáng gì. Ta sẽ cho người ngày đêm hỏa tốc chạy tám trăm dặm gửi bản tấu này về kinh sư, chuyện tiếp sau đó phải dựa vào công tử rồi.”
Hai người nhìn nhau cười, nhận ra sự ăn ý trong ánh mắt người kia. Chỉ có các tướng phía dưới trướng nghĩ mãi không ra Du Trọng Sơn và Vân Tương đang định làm gì.
Bảy ngày sau, triều đình hạ thánh chỉ hồi đáp, xuất hiện cùng thánh chỉ còn có mấy võ sĩ cẩm y vệ. Lúc thánh chỉ được tuyên đọc, các tướng chấn động xôn xao, không ai ngờ Du Trọng Sơn hết mực trung thành, chống giặc Oa có công lại bị triều đình nói thành tư thông với địch, muốn bắt về kinh sư thẩm vấn trị tội. Nếu không phải Du Trọng Sơn ra sức can ngăn khuyên giải, quân Du gia thiếu chút nữa đã xảy ra binh biến.
Du Trọng Sơn rời khỏi Hàng Châu, văn võ bá quan và mấy vạn dân chúng hai tỉnh Giang Triết đi theo đưa tiễn đến mười dặm, cảnh tượng vô cùng bi tráng. Mọi người chạy đôn chạy đáo xin tội cho Du Trọng Sơn, từng chồng tấu sớ được hỏa tốc gửi về kinh sư, tất cả đều biện bạch cho Du Trọng Sơn.
Đúng vào đêm Du Trọng Sơn rời khỏi Hàng Châu, trong đại trướng quân Tiễu Oa Doanh, Vân Tương đưa một phong thư cho năm thiên hộ Tiễu Oa Doanh lúc này đang cúi đầu buồn bực, gã lãnh đạm nói: “Đây là mật lệnh của Du tướng quân, các vị chuyền nhau đọc xong hãy đốt bỏ. Bắt đầu từ bây giờ, ta sẽ thay Du tướng quân thống lĩnh toàn doanh.”
Trong năm thiên hộ của Tiễu Oa Doanh, có bốn người đến từ quân Du gia, người còn lại là một tướng giỏi trong thủy quân được Du Trọng Sơn đặc biệt mời từ Quảng Đông về. Năm người chuyền nhau xem mật lệnh của Du Trọng Sơn, vẻ buồn bực và ủ rũ dần trở thành kinh ngạc và hồ nghi, họ đưa mắt nhìn nhau hội ý. Cuối cùng, năm người chuyển ánh mắt dò hỏi sang Vân Tương, Vân Tương gật đầu khẳng định: “Thời cơ để các vị giết địch lập công đã tới rồi, chúng tướng nghe lệnh.”
Năm tướng lập tức quét sạch vẻ nghi hoặc, phấn chấn chắp tay đáp: “Có mạt tướng!”
Vân Tương nhìn họ một lượt, giọng nói kiên định trầm vang: “Lập tức chia nhau hành động theo thư, không được để lộ phong thanh, ai vi phạm chém!”
Năm tướng hùng hồn ứng tiếng, tay cầm lệnh tiễn hiên ngang ra khỏi trướng, hoàn toàn trái ngược với bộ dạng buồn bực lúc bước vào.
Tin Du Trọng Sơn bị cách chức hỏi tội nhanh chóng truyền khắp hai tỉnh Giang Triết, đồng thời cũng truyền tới tai Đông Hương Bình Dã Lang đang lênh đênh trên biển. Nghe tình báo thám tử gửi về, trên khuôn mặt âm trầm của y hiện ra nụ cười phấn khởi hiếm thấy. Nhưng y vẫn chưa yên tâm hẳn, lại hỏi thêm một câu: “Du Trọng Sơn đã rời khỏi Hàng Châu thật rồi chứ?”
“Chắc chắn ạ!” Thám tử liền đáp: “Lúc tiểu nhân rời khỏi Hàng Châu, Du Trọng Sơn đã bị cẩm y vệ áp giải lên đường, giờ này chắc cũng sắp tới kinh thành rồi.”
“Tiếp tục thám thính!” Đông Hương Bình Dã Lang xua tay lệnh thám tử lui xuống, sau đó phấn khích xoa tay liên hồi. Tuy từ lâu y đã thèm muốn của cải ở vùng Hàng Châu được xưng giàu có nhất thiên hạ, nhưng sự nghiệp hải tặc nhiều năm khiến y hiểu rõ, thận trọng là cách hữu hiệu nhất để giữ mạng. Bao năm nay, y đắc thủ hết lần này đến lần khác ở các tỉnh ven biển, nhưng chưa từng ra vào hai tỉnh Giang Triết, chính là vì kiêng dè quân Du gia, tránh lặp lại vết xe đổ của kẻ khác. Hiện tại, dân vùng biển khiếp sợ giặc Oa đã lùi sâu vào lục địa khiến y lên bờ rồi còn phải tiến quân thêm trăm dặm, mà thành quả thu được chẳng đáng là bao. Nay con chó giữ nhà Du Trọng Sơn đã bị cách chức rời khỏi Hàng Châu, quân Du gia gặp đòn đả kích này tất lòng quân rối loạn, không thể dũng mãnh như xưa. Y dường như có thể nhìn thấy thành Hàng Châu phồn hoa nhất Giang Nam đang thấp thoáng vẫy tay gọi mình.
Đội thuyền nhờ màn đêm lặng lẽ tiếp cận vịnh Hàng Châu, còn cách khoảng mấy chục dặm, Đông Hương Bình Dã Lang đột nhiên hạ lệnh dừng thuyền. Y vẫn chưa yên tâm, phải đợi tin tình báo cuối cùng mới quyết định. Y hành sự trước giờ luôn thận trọng, chính điều này đã cứu mạng y vô số lần.
Trên biển có ánh lửa đèn nhấp nhoáng, một chiếc thuyền cá lướt tới gần. Đông Hương lòng nóng như lửa đốt đi tới đầu thuyền, đích thân hỏi kẻ tai mắt đưa tin: “Du Trọng Sơn thật sự đã rời khỏi thành Hàng Châu rồi?” Sau khi nhận được lời khẳng định, y lại hỏi: “Quân Du gia hiện giờ do ai chỉ huy?”
Tên kia đáp: “Phó tướng của Du Trọng Sơn đang tạm thời thống lĩnh toàn quân, nhưng hiện giờ quân Du gia đã như rắn mất đầu, quân kỷ buông lỏng, không ít binh sĩ đêm khuya trốn vào lầu xanh uống rượu mua vui, thậm chí còn xảy ra mấy vụ quấy nhiễu dân.” Đông Hương nghe thấy tin này, khuôn mặt căng thẳng cuối cùng cũng lộ ra nụ cười nhẹ nhõm. Y rút chiến đao chỉ về phía Hàng Châu trong bóng đêm, sang sảng hạ lệnh: “Tiến lên! Mục tiêu thành Hàng Châu!”
Giặc Oa lập tức hò reo hoan hô, tựa như bầy sói dữ đói khát đã lâu nay đánh hơi thấy mùi máu tanh mà chúng thèm khát.
Ánh mắt Ba Triết lúc này chẳng khác nào loài sói, đang thèm thuồng nhìn cánh tay trắng muốt như tuyết của Thư Á Nam. Y vung chủy thủ toan cắt xuống, chợt nghe Thư Á Nam bỗng nhiên quát lớn: “Đợi đã! Ngươi không thể ăn thịt ta!”
“Tại sao?” Ba Triết nhìn nàng với ánh mắt châm chọc, nhưng không hề có ý định dừng tay. Thư Á Nam ung dung nói: “Vì ta không chỉ là phi tử của Lãng Đa điện hạ, mà còn là mẫu thân của đứa con chưa chào đời của ngài ấy muốn!”
Ba Triết sững người, ngơ ngác hỏi: “Ngươi nói vậy là có ý gì?”
Thư Á Nam thoáng lộ vẻ ngượng ngùng: “Vì… ta đã có con với điện hạ.”
“Con? Con của Lãng Đa điện hạ?” Ba Triết ngây người nhìn Thư Á Nam hồi lâu, rồi đột nhiên bật cười ha hả: “Chuyện vớ vẩn lừa trẻ con này, ngươi nghĩ ta sẽ tin ư? Nếu ngươi mang trong bụng đứa con của Lãng Đa điện hạ thì tại sao phải chạy trốn?”
Thư Á Nam ra vẻ ngượng ngùng nói: “Ta sợ.”
Ba Triết cười khẩy: “Sợ gì?”
Thư Á Nam lí nhí đáp: “Lãng Đa điện hạ sai ngươi giết sứ giả Ma Môn, đây là hành động phản bội đại nghịch bất đạo, ở Trung Nguyên bọn ta tội này bị coi là trọng tội phải tru di cửu tộc. Ta sợ liên lụy, cũng là vì muốn bảo vệ giọt máu của điện hạ, nên mới chạy trốn ngay trong đêm.”
Ba Triết thấy Thư Á Nam kể lể hết sức đáng thương, lòng cũng đã tin phần nào. Lãng Đa điện hạ sai y đi giết sứ giả Ma Môn, đây quả thực là tội nặng phải chém, may nhờ đại hãn yêu chiều hết mực nên điện hạ mới thoát khỏi tội chết. Y nghĩ ngợi một lát, sau đó cười gằn nói: “Dù ngươi nói thật đi nữa thì tại sao thấy ta đuổi theo, lại giăng bẫy ám toán ta?”
“Ta sợ chứ sao!” Thư Á Nam tỏ vẻ kinh hồn khiếp đảm, trông lại càng đáng thương: “Ta nào biết ngươi có phản bội Lãng Đa điện hạ không? Có phải phụng lệnh đại hãn đến truy sát mẹ con ta hay không?”
“Ta mà lại phản bội Lãng Đa điện hạ?” Ba Triết đùng đùng nổi giận, bộ dạng như muốn ăn tươi nuốt sống người ta: “Dù ta có phản bội cha mẹ mình cũng quyết không phản bội điện hạ! Nếu ngươi sỉ nhục ta thêm một lần nữa, để xem ta có phanh thây xé xác ngươi ra không!”
Thư Á Nam vội lạy lục: “Tiểu nữ tử không biết đến lòng trung của dũng sĩ với điện hạ, lúc trước có nhiều hiểu lầm, mong Ba Triết dũng sĩ thứ tội!”
Ba Triết dịu dần sắc mặt, trầm ngâm nói: “Ta không thể dễ dàng tin lời ngươi. Muốn biết ngươi nói dối hay không, chỉ cần xem thử ngươi có thai thật không là rõ.” Nói đoạn, y xách Thư Á Nam lên, chẳng nói chẳng rằng sải bước vào thị trấn.
Lúc này trời đã tối, trong trấn nhà nào nhà nấy đã lên đèn đóng chặt cửa. Ba Triết đi dọc theo đường lớn, cuối cùng cũng thấy một tấm biển y quán cuối phố. Y mặc cho người ta đã đóng cửa, bước tới đập cửa uỳnh uỳnh, nói với lão đại phu còn đang kinh hoàng mắt mũi tèm nhem ra mở cửa: “Bắt mạch cho nữ tử này!”
Đại phu thấy bộ dạng hung tợn của y thì không dám hỏi nhiều, đành phải châm đèn, bắt mạch cho Thư Á Nam. Thư Á Nam lòng thấp thỏm cầu khẩn: “Mong rằng đừng gặp lang băm, mong là mình không tính sai ngày.”
Đại phu đặt ba ngón tay lên cổ tay Thư Á Nam, nhắm mắt trầm ngâm mãi hồi lâu, đến tận lúc Ba Triết mất kiên nhẫn, mới từ tốn nói: “Cô nương này chỉ là có chút mệt nhọc, ngoài ra không bệnh tật gì, mạch tượng không khác biệt với người bình thường.”
Ba Triết cười gằn, ánh mắt âm độc nhìn Thư Á Nam hằm hè. Đại phu lúc này lại nói: “Nhưng mà, hình như cô nương đã có thai hai tháng rồi, hiện giờ không nên lao lực bôn ba.”
Ba Triết nghe xong, sắc mặt dần trở nên ôn hòa, chắp tay bái Thư Á Nam, trầm giọng nói: “Chủ mẫu tại thượng, lúc trước tiểu nhân đã có nhiều mạo phạm, mong chủ mẫu thứ tội!”
Thư Á Nam cuối cùng cũng được thả lỏng thần kinh, thiếu chút nữa mừng đến bật khóc. Tuy nàng tin chắc rằng mình đã có con với Vân Tương, nhưng lần đầu tiên được đại phu chứng thực, ý nghĩa cũng khác trước. Thư Á Nam bất giác vỗ nhẹ lên bụng, lòng thầm cảm khái: “Tiểu Vân Tương à Tiểu Vân Tương, con vừa cứu mạng mẹ đấy!”
Ba Triết nhìn nàng chảy ròng hai hàng nước mắt, tưởng nàng thấy ấm ức, vội cười trừ nói: “Chủ mẫu hãy yên lòng, điện hạ là ái tử của đại hãn, đại hãn sẽ không vì một sứ giả Ma Môn mà phạt nặng điện hạ đâu, hiện tại điện hạ đã không sao rồi. Giờ tiểu nhân sẽ đi thuê một cỗ xe ngựa, lập tức đưa chủ mẫu trở về. Quyết không để chủ mẫu phải mệt nhọc bôn ba.”
Thư Á Nam gật đầu: “Vậy thì vất vả cho ngươi rồi.”
Ba Triết vừa định bước ra cửa, nghĩ lại không yên tâm, liền quay qua đỡ Thư Á Nam, nói: “Hay là chúng ta cùng đi thuê xe, như vậy có thể mau chóng lên đường.”
Thư Á Nam phật ý trợn mắt nhìn Ba Triết: “Ngươi đã biết ta không thể chịu được mệt nhọc, còn bắt ta đi khắp nơi tìm xe với ngươi, lẽ nào ngươi không tin ta?”
Ba Triết sững người, lần đầu tiên thấy Thư Á Nam ra dáng chủ mẫu nói chuyện, cũng không tiện miễn cưỡng thêm, đành nói: “Vậy được! Chủ mẫu cứ ở đây chờ, đợi ta thuê được xe tới đón.” Nói rồi y chắp tay ra khỏi cửa.
Ra phố, Ba Triết lập tức lỉnh vào góc tối theo dõi, chỉ cần Thư Á Nam còn định bỏ trốn, chứng tỏ những lời nàng nói vừa rồi đều là dối trá, như vậy y sẽ không khách khí với nàng. Đợi mãi không thấy Thư Á Nam bỏ trốn, Ba Triết mới yên tâm, tự nhủ nếu nàng có trốn cũng không thể thoát khỏi y. Kể cả có cầu cứu người ngoài, ở thị trấn nhỏ này cũng không ai làm gì được y. Nghĩ vậy, Ba Triết không lo lắng gì thêm, lập tức đi tìm thuê xe. Thế nhưng đi khắp trấn cũng không thấy một nhà xe nào, chỉ bắt gặp một cỗ xe ngựa xa hoa dừng bên ngoài khách điếm duy nhất trong trấn. Y bước tới đánh đi, phu xe đang rửa xe phía sau vội chạy lên trước ngăn cản. Ba Triết chẳng nói chẳng rằng, rút đao chém chết phu xe ngay giữa đường.
Ba Triết vội vàng đánh xe tới y quán, thấy Thư Á Nam chẳng những không trốn, còn nhờ đại phu bốc thuốc cho. Ba Triết tiện miệng hỏi thuốc gì, Thư Á Nam chỉ thẹn thùng nói là thuốc cho đàn bà uống. Ba Triết không tiện hỏi nhiều, vội vã nói: “Chủ mẫu, xe ngựa đã có rồi, chúng ta phải đi ngay trong đêm.”
Thư Á Nam cau mày hỏi: “Ngày mai chúng ta đi không được sao?”
Ba Triết thản nhiên đáp: “Ta đã giết ba người trong thị trấn này, ngày mai mới đi e rằng sẽ phiền phức. Mời chủ mẫu lên xe.”
Thư Á Nam nghe vậy đành theo y bước ra xe. Ba Triết đỡ Thư Á Nam vào trong khoang xe, sau đó nói: “Chủ mẫu đợi một lát.” Đoạn y quay người trở vào y quán. Một lát sau, y lau vết máu trên đao ung dung ra cửa như không, ngồi lên đầu xe nói: “Được rồi, hiện giờ không còn ai biết hành tung của chúng ta nữa.” Dứt lời, Ba Triết quất roi, xe ngựa lập tức chạy thẳng về phía Tây.
Thư Á Nam thấy y giết người như ngóe, lòng vừa sợ hãi vừa phẫn nộ. Nàng sờ vào bụng thầm cầu khẩn: “Tiểu Vân Tương, con phải cho mẹ sức mạnh, để chúng ta bình yên thoát khỏi tay con ác ma này!”