Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 41
8
Thiến
tù
Bầu trời đêm giờ Tý trăng sao mịt mờ, thành Hàng Châu tối đen như mực, không thấy ánh đèn. Vì cửa sông Tiền Đường có dây xích sắt chặn ngang, Đông Hương Bình Dã Lang đành phải ném mỏ neo dừng thuyền ở bờ biển ngoại thành Hàng Châu, sau đó nhân đêm tối tiếp cận thành.
Gần một vạn tên hải tặc, như nước triều lặng lẽ ùa tới thành Hàng Châu, dọc đường chỉ nghe thấy tiếng giày cỏ sột soạt trên bờ cát, thỉnh thoảng lại có vài tiếng binh khí va chạm, chạy suốt mấy dặm không hề kinh động người nào. Chưa đến nửa canh giờ sau, giặc Oa đã đến gần thành, án binh bất động, như bầy sói chờ đợi hiệu Đông Hương Bình Dã Lang nghe ngóng động tình trong thành, sau đó chỉ về hướng cổng thành. Mười mấy tên giặc Oa mặc y phục bó sát màu đen lập tức lẻn tới dưới chân thành. Chúng đều là cao thủ nhẫn thuật, tường thành cao mấy trượng chẳng khác nào đất bằng trong mắt chúng. Mỗi lần tập kích đêm, Đông Hương đều để những thuộc hạ tinh thông nhẫn thuật này đánh trận đầu, xâm nhập vào thành ám sát binh lính gác cổng, sau đó mới mở cổng thành, như vậy có thể giảm thiểu tối đa mối uy hiếp từ quân bảo vệ thành.
Mười mấy cao thủ cùng ném móc thừng, bấu chắc lấy tường thành, sau đó hai tay thay phiên nắm lấy dây thừng, thoăn thoắt leo lên. Các bóng đen mau chóng lên tới bờ thành, nhưng tình cảnh sau đó khiến Đông Hương kinh ngạc trợn tròn hai mắt, chỉ thấy mười mấy người lại từ trên tường thành thi nhau rơi xuống, cũng giống như lúc họ leo lên, ngoài âm thanh nặng nề khi cơ thể chạm đất, tất cả đều tĩnh lặng không một tiếng động.
Tiếng xì xào bất an vang lên trong đám hải tặc như con triều dâng trước khi mưa bão ập đến. Đông Hương trầm ngâm một lát, không cam lòng từ bỏ, đưa tay ra hiệu cho đám thuộc hạ hai bên, sau đó chỉ lên thành. Lại một tốp nhẫn giả tiếp cận tường thành.
Lần này cơ hồ cũng không khác gì lần trước, mười mấy tên áo đen im hơi lặng tiếng trèo lên bờ thành, rồi không hiểu chuyện gì lại nhanh chóng ngã xuống. Bờ thành vẫn tối đen như mực, không nhìn thấy bất cứ ánh sáng nào cũng tuyệt nhiên không nghe thấy âm thanh gì.
“Mau rút lui! Chúng ta trúng mai phục rồi!” Kinh nghiệm mạo hiểm nhiều năm mách bảo Đông Hương có nguy hiểm cận kề, y không do dự ra lệnh rút quân ngay. Đúng lúc này, chợt nghe thấy phía sau có tiếng ồn ào náo động, Đông Hương quay đầu lại nhìn, thấy vịnh biển neo thuyền ban nãy lửa lớn ngút trời, thấp thoáng nghe có tiếng hét từ xa vọng lại.
Một tên giặc Oa người dính đầy máu, loạng choạng chạy hụt hơi tới gấp rút bẩm báo: “Thủ lĩnh! Thuyền của chúng ta bị thủy quân Đại Minh tập kích, tổn thất trầm trọng!”
Giặc Oa lập tức nhốn nháo, nhao nhác định chạy về cứu viện. Đông Hương nhìn thành Hàng Châu lừng lững trước mắt, nghe ngóng động tĩnh phía sau, ảo não than: “Hiện giờ quay về cứu viện cũng không kịp nữa rồi.”
“Làm thế nào đây?” Giặc Oa lo lắng hỏi. Đông Hương thầm cân nhắc, sau vung đao chỉ về phía thành Hàng Châu: “Tấn công thành! Chỉ cần lấy được Hàng Châu, chúng ta không những có thể chuyển bại thành thắng, mà còn chở đầy ắp của cải mang về!”
Dưới hiệu lệnh của Đông Hương, giặc Oa hò hét xông tới chân thành, chẳng còn màng che giấu hành tung. Tuy công thành trong lúc không đủ khí giới phá cổng thành là đại kỵ trong binh pháp, nhưng từ khi chúng tung hoành vùng duyên hải tới nay, rất hiếm gặp phải kháng cự mạnh mẽ của quân Minh, nên sớm đã xem thường quân địch.
Trên thành đột nhiên bắn ra hỏa tiễn rợp trời, như sao băng quét qua mấy chục trượng, cắm thẳng vào đám quân đang bủa tới như nước triều, đốt cháy cỏ khô chôn dưới chân thành, khoảng đất mênh mông trước thành thoáng chốc biến thành biển lửa. Ánh lửa chiếu sáng rực như ban ngày, giặc Oa lộ diện trong ánh lửa, trở thành bia sống cho quân bảo vệ trên thành.
Mưa tên dày đặc từ trên trời bay xuống rừng người, cơ hồ không mũi nào bắn hụt. Từng lớp từng lớp giặc Oa đổ gục xuống, tiếng gầm rú quyết chiến đã trở thành tiếng kêu gào thảm thiết trước lúc chết.
Đông Hương nhận ra sai lầm, vung đao đánh bạt mấy mũi tên, lớn tiếng hô: “Rút! Mau rút!”
Giặc Oa theo y chạy xa khỏi tầm mưa tên, chân còn chưa đứng vững đã lại nghe tiếng pháo hiệu nổ vang, trái phải xuất hiện hai đội nhân mã xông ra từ nơi mai phục, ai nấy đều cưỡi khoái mã, tay cầm trường đao hừng hực khí thế, chớp mắt đã áp sát. Sĩ khí và chiến thuật của họ hoàn toàn vượt xa quân Minh chúng gặp lúc trước. Đông Hương nhìn kỹ, thấy trên ngọn quân kỳ tung bay phấp phới dưới ánh trăng có ba chữ lớn nổi bật Tiễu Oa Doanh!
Hai đội thiết kỵ nghìn người phi ngựa tung hoành trong trận địa, giặc Oa vốn dĩ đã tán loạn không thành đội hình bị đánh cho tơi tả, hoàn toàn không thể nào điều động thống nhất, chỉ có thể thân ai nấy lo. Đông Hương thấy mình đã bại, tức tối tóm lấy tên dẫn dường bên cạnh, rít giọng quát hỏi: “Không phải ngươi nói Du Trọng Sơn bị cách chức rời khỏi Hàng Châu rồi sao? Vậy là ai đang thống lĩnh quân đội?”
“Tiểu nhân… tiểu nhân không rõ.” Kẻ dẫn đường lắp bắp đáp. Lúc này một tên giặc Oa lớn tiếng hô: “Thủ lĩnh xem kìa!”
Đông Hương nhìn theo hướng hắn chỉ, thấy trên một gò đất cao bên tay phải đang phấp phới ngọn cờ trung quân Tiễu Oa Doanh. Nhờ ánh trăng mờ ảo có thể thấy thấp thoáng bóng dáng một thư sinh áo xanh cưỡi tuấn mã dưới cờ, từ cao nhìn xuống theo dõi toàn bộ chiến trường, bên cạnh gã có hai tướng lĩnh cấp cao của quân Minh, nhìn thái độ của hai người với gã, hiển nhiên tên thư sinh chính là tổng chỉ huy của trận chiến này.
Đông Hương một tay vặn đầu kẻ dẫn đường lại, chỉ thư sinh ở trên cao, rít giọng hỏi: “Đó là ai?” Thấy y lắc đầu mù mịt, Đông Hương nổi giận vung đao chặt đầu y, tiếp đó giơ đao hô lớn: “Xông lên theo ta!”
Mấy nghìn tên cướp biển hò hét chạy theo sau Đông Hương, hướng về phía gò đất có cờ trung quân Tiễu Oa Doanh. Đông Hương đã phát hiện trên gò chỉ có độ nghìn quân, nếu đoạt được đại kỳ trung quân Tiễu Oa Doanh, chém được chủ tướng, trận chiến đêm nay xem như vẫn còn cơ thắng lợi.
Giặc Oa tuy bị tổn thất nặng nề, nhưng vẫn có ưu thế đông người, Đông Hương mau chóng triệu tập hơn ba nghìn tinh binh, xông tới chỗ đại kỳ hung quân Tiễu Oa Doanh, phát động đợt phản kích dữ dội.
Khi chỉ còn cách mấy trăm bước chân, Đông Hương dẫn đầu hơn ba nghìn thuộc hạ tiến lên, dọc đường không hề có mấy cản trở. Trông thấy ngọn cờ trung quân Tiễu Oa Doanh ngay trước mắt, y vung đao hú vang như sói, chạy hết tốc lực xông lên gò đất.
Trên gò đất quả nhiên chỉ có một nghìn nhân mã, thấy khí thế giặc Oa hung tợn dũng mãnh thì lập tức rút lui. Giặc Oa thấy vậy lòng quân phấn chấn, tiếng hò xông pha đinh tai nhức óc, toàn quân điên cuồng lao lên gò đất. Đội nhân mã nghìn người nhanh chóng lui về sau một cách trật tự, chắp tay nhường lại cao điểm chiến trường cho giặc Oa.
Đông Hương đang trên đà truy đuổi, đột nhiên phát hiện phía trước có một hào sâu rộng mấy trượng. Chiến mã quân Minh dễ dàng nhảy qua, nhưng thuộc hạ của y lại chỉ biết nhìn rãnh hào mà than. Đông Hương thất kinh, vội vung tay lệnh thuộc hạ dừng bước, lúc này phía sau dồn dập tiếng vó ngựa và tiếng hò hét, y hốt hoảng quay đầu nhìn, phát hiện đội thiết kỵ ba nghìn người của quân Minh đang đuổi sau lưng. Trước mặt là hào sâu ngăn cản, sau lưng có kỵ binh tinh nhuệ của Tiễu Oa Doanh truy sát, cao điểm này bỗng chốc đã biến thành tuyệt địa!
“Bắt sống Đông Hương!” Tiếng hò hét chấn động màng nhĩ khiến Đông Hương khiếp đảm. Thấy đội kỵ binh ba nghìn người phía dưới chỉ bao vây mà không tấn công, y lập tức đoán ra ý đồ của đối phương. Một khi trời sáng, chiến thuật đánh đêm mà y thiện nghệ nhất sẽ không còn tác dụng, quân bảo vệ trong thành Hàng Châu cũng sẽ kịp tới tăng viện, lúc đó muốn đột phá vòng vây sẽ khó như lên trời. Nhưng hiện giờ nếu muốn đột phá vòng vây, xông vào đội kỵ binh tinh nhuệ ba nghìn người đang bày nghiêm trận chờ đợi thì quả thực như lấy trứng chọi đá. Đông Hương suy nghĩ đắn đo, cuối cùng hạ quyết tâm liều chết!
“Đột phá vòng vây từ phía hào sâu! Xông lên cho ta!” Đông Hương vung đao hô lớn, hơn ba nghìn giặc Oa lập tức rống lên lao bổ về phía con hào. Hào sâu chừng hai người chồng lên nhau, giặc Oa nhảy qua hào lập tức trở thành bia sống cho kỵ binh Tiễu Oa Doanh phía đối điện, từng tên bị bắn chết rơi xuống rãnh hào, nhưng chúng vẫn tiếp tục bủa tới, không hề do dự nhảy xuống. Xác người trong hào la liệt chất chồng lên nhau, Đông Hương đã hy sinh hơn một nghìn thuộc hạ, cuối cùng dùng chính thuộc hạ của mình lấp bằng con hào.
“Giết!” Đám Oa còn lại như sói dữ bị thương, hung hăng bổ tới quân Minh ở phía đối diện. Quân Tiễu Oa Doanh dù đã trải nhiều trận chiến cũng chưa từng thấy phỉ đồ dũng mãnh ngoan cường không sợ chết như vậy, khí thế binh tướng thoáng chùng xuống, cuối cùng đã để Đông Hương dẫn tàn dư hơn một nghìn tên dáo dác chạy trốn trong bóng tối ảm đạm trước bình minh.
Phía Đông dần hiện vầng sáng trắng, bình minh đang lên, Vân Tương thúc ngựa chạy tới cạnh con hào sâu vừa đào gấp rút trong đêm qua, nhìn một lượt xác giặc lấp bằng con hào, ánh mắt không hề thấy niềm vui. Phó tướng Trương Vũ Nhiên hứng khởi giục ngựa đến báo: “Theo tin báo từ các doanh gửi tới, chiến dịch lần này đã tiêu diệt và bắt sống hơn năm nghìn tên giặc, Đông Hương Bình Dã Lang chịu tổn thất nặng nề, chắc rằng sẽ không dám xâm phạm cương vực Đại Minh ta nữa.”
Vân Tương lắc đầu, tâm trạng trùng trùng, ủ dột than: “Ta vẫn đánh giá thấp sự dũng mãnh và hung tàn của giặc Oa, chúng dám lấy thân thể của chính mình lấp bằng hào sâu, giúp đồng bọn đột phá vòng vây. Đông Hương qua chiến dịch này, chắc chắn sẽ càng thận trọng, con sói dữ bị thương sẽ trở nên càng giảo hoạt hung tàn. Trận chiến này tuy ta có thu hoạch, nhưng vẫn không thể xem như đại thắng.”
“Công tử khiêm tốn rồi.” Một thiên hộ theo sát sau gã cười nói: “Tiễu Oa Doanh chúng ta lần này đã phối hợp cùng quân bảo vệ thành Hàng Châu, lấy binh lực sáu nghìn người đánh bại gần vạn người của giặc Oa, giết và bắt giữ hơn năm nghìn tên giặc, mà tổn thất phía chúng ta còn chưa tới năm trăm người. Đây là lần đại thắng chưa từng có, công tử nên vui mới phải.”
Vân Tương biết rằng lúc này không nên để mọi người mất hứng, bèn gượng cười nói: “Trận chiến này may nhờ mọi người nỗ lực, các quân sĩ anh dũng mới có thể thắng lớn. Ta sẽ bẩm rõ với Du tướng quân, ghi công cho chư vị.”
Thiên hộ và Trương Vũ Nhiên lòng đầy hoan hỉ. Thiên hộ nọ cười cung kính nói: “Nếu luận công, công tử đương nhiên lập công đầu! Không ngờ công tử có thể thuyết phục triều đình và Du tướng quân cùng bày kế, đến chúng ta cũng bị lừa. Nếu không phải thấy mật lệnh của Du tướng quân thì chúng ta vẫn chẳng hay biết!”
Trương Vũ Nhiên cũng cười nói: “Lúc thấy lệnh triệu Du tướng quân về kinh xét thẩm, ta còn giật nẩy, nghĩ thế nào cũng không hiểu bộ Binh tại sao lại đưa ra mệnh lệnh hồ đồ như vậy. Công tử Tương đứng là công tử Tương, thuyết phục được triều đình và Du tướng quân cùng ngươi hợp mưu, dẫn dụ Đông Hương Bình Dã Lang vốn giảo hoạt như hồ ly vào tròng, mạt tướng đúng là phục công tử sát đất!”
Vân Tương xua tay, trầm giọng nói: “Lập tức lệnh quân chủ lực Tiễu Oa Doanh truy kích, đồng thời truyền lệnh cho quân bảo vệ các châu huyện chủ động xuất kích, diệt sạch tàn dư giặc Oa, quyết không để Đông Hương dễ dàng thoát thân. Ai có thể bắt sống hay giết được Đông Hương Bình Dã Lang thì người đó lập công đầu!”
Chúng tướng lập tức y lệnh hành sự. Sắc trời lúc này đã tỏ, ánh mặt trời đỏ tía tô đậm sắc máu trên chiến trường ngổn ngang. Vân Tương thúc ngựa lên gò cao, trông thấy Ngưu Bưu chỉ huy quân sĩ doanh một đang tập trung tù binh lại, đếm thoáng qua có khoảng ba, bốn trăm tên, so với quy mô trận đại chiến này quả thực hơi ít. Chắc rằng đa phần giặc Oa đều thà chết không hàng, vì vậy chỉ bắt được những tên bị thương.
Vân Tương đang suy nghĩ phải xử trí tù binh thế nào, chợt thấy Ngưu Bưu đã chỉ huy bộ hạ vung đao chém giết, thoáng chốc có đến mấy chục tên giặc đã thân một nơi đầu một nẻo. Vân Tương thất kinh, vội phi ngựa tới quát: “Dừng tay! Tất cả dừng tay cho ta!”
Ngưu Bưu ngơ ngác nhìn Vân Tương phi ngựa tới, lấy làm lạ hỏi: “Công tử có điều gì chỉ bảo?”
“Tại sao các ngươi lại giết tù binh?” Vân Tương cả giận hỏi. Ngưu Bưu thản nhiên cười đáp: “Đám phỉ đồ này không giết thì làm gì? Giữ lại tốn lương thực. Truyền thống trước giờ của quân Du gia chúng ta chính là gặp giặc Oa đều giết không tha.”
Vân Tương nghe vậy bực bội than: “Chẳng trách giặc Oa dũng mãnh như vậy, biết rõ bị bắt chỉ có đường chết, nên đêm qua rơi vào vòng vây cũng quyết không đầu hàng, đều là do cái lệ giết không tha của các ngươi ép mà ra!”
Ngưu Bưu gãi đầu nói: “Giết không tha giặc Oa là tác phong xưa nay của quân Du gia, có vấn đề gì đâu?”
“Hiện giờ ngươi là tướng lĩnh của Tiễu Oa Doanh, tác phong ngày trước phải sửa đi!” Vân Tương đại nộ ra lệnh: “Tạm thời đem giam số tù binh này lại, còn giết oan uổng thêm một người ta sẽ hỏi tội ngươi!”
Ngưu Bưu bất mãn trợn mắt nhìn Vân Tương, tranh biện: “Quân Du gia…”
“Câm miệng!” Vân Tương thẳng thừng ngắt lời y, quát: “Hiện giờ ta đang chỉ huy chiến trường, ta không muốn nhắc lại mệnh lệnh đến lần thứ hai!”
Ngưu Bưu tức đến đỏ phừng mặt mũi, ngực phập phồng liên hồi. Trương Vũ Nhiên thấy vậy vội bước lên giải hòa: “Công tử là người đọc sách, không quen thấy cảnh máu tanh thế này, Ngưu tướng quân tạm thời giam tù binh lại đi.” Nói đoạn, y nháy mắt với Ngưu Bưu, sau đó cười trừ rủ Vân Tương: “Ta cùng công tử sang bên kia xem thử nhé, những chuyện nhỏ này không cần công tử quá nhọc công.”
Vân Tương nhìn thoáng đã nhận ra trò quỷ của Trương Vũ Nhiên muốn tách gã ra khỏi đây tránh vướng chuyện. Gã bèn rút trong ngực áo ra lệnh tiễn do Du Trọng Sơn để lại, giơ cao lên không trung, nhìn quanh các tướng sĩ, trầm giọng nói: “Lệnh tiễn của Du tướng quân ở đây, ta nhắc lại một lần nữa, ai còn dám manh động giết thêm một tù binh nào sẽ xử theo quân pháp!”
Đám binh tướng Ngưu Bưu tuy không cam lòng, nhưng ngại lệnh tiễn của Du Trọng Sơn trước mặt, đành hậm hực thu lại đao đồ tể.
Tin Tiễu Oa Doanh đại thắng, giết hơn năm nghìn giặc Oa đã lan truyền khắp nơi, thành Hàng Châu giăng đèn kết hoa, người người đều ăn mừng trận thắng đầu. Sáng ngày hôm sau, tin Du Trọng Sơn yên ổn quay về Hàng Châu lại càng khiến lòng người vui sướng hả hê. Tuy nhiều người đã đoán được chuyện Du Trọng Sơn lên kinh chịu xét xử lần này là một mưu kế hoàn hảo, nhưng triều đình vì muốn duy trì tôn nghiêm của luật pháp nên tuyên cáo ra ngoài rằng: Có quan viên tố cáo Du Trọng Sơn, vì vậy bộ Binh truyền gọi về kinh thẩm vấn, hiện đã điều tra rõ lời tố cáo không đúng sự thật, nên cho phục hồi nguyên chức.
Trong đại trướng của Tiễu Oa Doanh, Du Trọng Sơn mình đầy bụi bặm vừa về đến Hàng Châu, sau khi chúc mừng Vân Tương lần đầu xuất quân đã giành được đại thắng, bèn hỏi ngay: “Nghe nói công tử giam giữ tất cả tù binh?”
Vân Tương thản nhiên gật đầu: “Không sai.”
Du Trọng Sơn cau mày: “Công tử định xử trí đám phỉ đồ này thế nào?”
Vân Tương nghĩ ngợi rồi hỏi ý kiến y: “Ta định thả hết họ đi, tướng quân thấy sao?”
Du Trọng Sơn sững người, lập tức đập bàn đứng phắt dậy: “Không được! Giặc Oa cướp bóc biên hải, sát hại dân chúng, hơn nữa vô số tướng sĩ của ta đã chết dưới đao của chúng. Chúng ta sao có thể thả hổ về rừng? Dù cho ta đồng ý, thì bách tính cũng không đồng ý, các tướng sĩ lại càng không thể đồng ý!”
Vân Tương than: “Giết tù binh sau trận chiến, là hành vi bất nhân, đại kỵ của binh gia.”
“Chúng không phải binh, mà là phỉ!” Du Trọng Sơn giận dữ nói, “Cất cái mớ nhân nghĩa thư sinh của ngươi lại đi, chiêu này không cảm hóa nổi lũ súc sinh ấy đâu. Giờ ngươi thả chúng đi, chớp mắt chúng lại xách đao kiếm đến càn quét biên hải ta, lúc đó chúng ta phải trả giá đắt thế nào nữa mới có thể tiêu diệt được chúng?”
“Đương nhiên chúng ta không thể cứ vậy mà thả chúng đi.” Vân Tương nhẫn nại giải thích: “Ta đã nghiên cứu bản tính của người Oa, họ phụng thờ võ sĩ đạo, dũng mãnh không sợ chết. Cái chết đối với họ không phải đau khổ, mà là giải thoát. Thậm chí họ coi cái chết như một mục tiêu trang nghiêm mà thần thánh, khát khao tìm kiếm thỏa mãn về tinh thần trong quá trình giết và được giết. Cái chết đã không hề khiến họ khiếp sợ, tại sao chúng ta nhất định phải dùng cái chết làm cách giải quyết cuối cùng chứ?”
Du Trọng Sơn dần lấy lại bình tĩnh, hỏi: “Không muốn dùng cái chết làm cách giải quyết cuối cùng, vậy ngươi muốn xử lý chúng thế nào?”
Vân Tương thong thả đáp: “Thích chữ rồi thả về.”
“Thích chữ?” Du Trọng Sơn sững người: “Đến cái chết cũng không thể khiến giặc Oa khiếp sợ, thích mấy chữ lên mặt chúng thì có ích gì?”
Vân Tương giải thích: “Bọn chúng xem trọng nhất là tôn nghiêm và danh dự võ sĩ, chuyện này sẽ đả kích sĩ khí giặc Oa hơn là thẳng tay giết chúng. Mấy trăm tên tàn phế này so với những tên đã lọt lưới quả thực chẳng thấm vào đâu. Ta muốn lợi dụng chúng để đánh vào những tên vẫn đang hoành hành. Chúng đã không sợ chết thì chúng ta sẽ nghĩ cách đoạt mất tôn nghiêm và danh dự của chúng, như vậy có thể đốn ngã tinh thần của chúng, khiến lũ đồng bọn còn chưa sa lưới kia khiếp sợ.”
Du Trọng Sơn mặt mày trầm tư, ngẫm nghĩ hồi lâu khẽ gật đầu nói: “Đoạt mất tôn nghiêm và danh dự của chúng quả thực là một cách hay để đánh gục tinh thần chúng. Nhưng đoạt mất tôn nghiêm và danh dự của chúng cách nào, ta còn có chủ ý hay hơn.”
“Chủ ý gì?” Vân Tương hỏi. Du Trọng Sơn nhếch khóe miệng cười khẩy, lạnh lùng đáp: “Hoạn!”
Vân Tương ngây người, đây quả thực là cách còn đáng khiếp sợ hơn thích chữ, nhưng quá âm độc, khiến gã có chút phản cảm. Du Trọng Sơn dường như nhìn thấu tâm tư của gã, bèn cười giải thích: “So với tội nghiệt giặc Oa đã gây ra, hoạn chính là sự trừng phạt nhẹ nhất. Nếu chỉ khắc mấy chữ trên mặt rồi thả chúng về, dân chúng chắc chắn sẽ không đồng tình, các tướng sĩ càng không bằng lòng. Người làm tướng phải suy nghĩ tới cảm nhận của thuộc hạ mình.”
Vân Tương biết rõ lời Du Trọng Sơn nói không sai, trong ý thức y, hoạn tù binh rồi thả dù sao cũng nhân từ hơn chuyện thẳng tay giết. Gã trầm ngâm một hồi rồi miễn cưỡng gật đầu: “Được, làm theo lời tướng quân đi.”
Du Trọng Sơn mừng rỡ, gọi ngay tùy tùng tới, sai y lập tức đi bố cáo chiêu mộ thợ chuyên thiến lợn bò. Tên thuộc hạ vừa đi, y đắc chí cười bảo Vân Tương: “Ta sẽ tìm đại phu giỏi nhất dưỡng thương cho chúng, quyết không để chúng chết dễ dàng. Ta còn sẽ đưa chúng về tận Phù Tang, để lũ giặc Oa đáng chết kia thấy kết cục dám xâm phạm Đại Minh ta! Hà hà, chỉ không biết Đông Hương Bình Dã Lang liệu còn thu nhận đám thuộc hạ này nữa hay không, cũng không biết Phù Tang có chức vụ thái giám không nữa?”
Du Trọng Sơn vui vẻ hứng chí bao nhiêu, Vân Tương lại càng khó chịu bấy nhiêu. Trong lòng gã, đó là hành động tàn nhẫn trái lẽ trời và nhân tâm, quả thực không có gì đáng vui mừng. Nhưng trong chiến tranh, có lẽ luôn cần những thủ đoạn như vậy, để giành được thắng lợi cuối cùng. Đây là lựa chọn bất đắc dĩ, cũng là nỗi bi ai khó cưỡng của chiến tranh.
Hơn ba trăm thuộc hạ bị bắt được thả về khiến Đông Hương Bình Dã Lang vô cùng ngạc nhiên. Y nhìn từng tên thuộc hạ cúi đầu ủ dột, lập tức phát hiện tư thế đi lại của họ hơi khác thường, như thể bị thương dưới háng nên phải đi tréo chân. Đông Hương Bình Dã Lang không nói không rằng, thẳng tay kéo tụt quần một tên xuống, lập tức phát hiện ra vấn đề. Y đẩy mạnh tên thuộc hạ ê chề, quát lớn: “Ngươi đã không còn là võ sĩ của Đại Hòa ta, tại sao không lựa chọn chết trong quang vinh?”
Tên thuộc hạ nước mắt lưng tròng, xấu hổ không dám ngẩng đầu. Trong số giặc Oa bị hoạn trao trả về Phù Tang, tốp can trường nhất đã lựa chọn nhảy sông tự vẫn trên đường, số còn lại ít nhiều vẫn còn vương vấn cuộc sống, nên mới gồng mình quay trở về.
Đông Hương lại tụt quần của mấy kẻ sống sót khác, phát hiện không một ai ngoại lệ, y tức đến nghiến răng ken két. Y nhìn thấy nỗi sợ hãi tột độ còn hơn cả khi đối diện với cái chết trong mắt các thuộc hạ còn lại, cảnh ngộ của đồng bọn đã gây chấn động chưa từng có. Lần đầu tiên trong ánh mắt của những võ sĩ dũng mãnh chẳng khác nào loài sói, y bắt gặp một nỗi khiếp sợ sâu sắc.
“Các ngươi là võ sĩ Đại Hòa, tại sao lại sống trong sỉ nhục như vậy?” Đông Hương giận dữ nhìn đám thuộc hạ bị thiến, rít giọng quát: “Các ngươi nên lấy cái chết để rửa sạch nỗi nhục, lấy cái chết để chuộc lại tôn nghiêm dũng sĩ mới phải!”
Hơn ba trăm tên cướp biển lũ lượt quỳ xuống, kẻ nào kẻ nấy hai dòng nước mắt tuôn trào. Đông Hương mặt không cảm xúc quát lệnh cho tùy tùng: “Đưa đao cho chúng, để chúng dùng hành động chứng minh!”
Từng thanh đoản đao được đưa vào tay hơn ba trăm kẻ sống sót, họ đau đớn bật khóc. Tự vẫn rạch bụng trước mặt kẻ địch có thể là hành động quang vinh kiêu hãnh, anh dũng vì nghĩa, nhưng hiện giờ, họ chỉ có cảm giác cô độc vì bị bỏ rơi.
Đông Hương phát hiện sự yếu đuối ấy là đòn trí mạng đánh vào sĩ khí, y nôn nóng quát: “Còn ngây ra đấy làm gì, tại sao vẫn chưa động thủ? Lẽ nào đến dũng khi nam nhi của các ngươi cũng bị thiến nốt rồi hay sao?”
Hơn ba trăm kẻ sống sót rốt cuộc cũng lần lượt cắm đao vào bụng mình trong tiếng khóc lóc, tru gào đau đớn. Cảnh tượng không hề trang nghiêm hay bi tráng, mà chỉ thảm thương không nói thành lời. Có mấy kẻ vẫn còn tham sống, vượt qua lòng tôn kính với cái chết, quằn quại nhào tới trước mặt Đông Hương, khóc vái liên hồi: “Thủ lĩnh, tôi không muốn chết! Tôi còn có vợ con ở nhà, hãy để tôi đi! Đời này kiếp này tôi sẽ không bao giờ cầm đao nữa, để tôi làm một nông dân bình thường có được không.”
“Ngu xuẩn!” Đông Hương động nộ mắng, thanh đao võ sĩ xuất khỏi vỏ quét tới như chớp giật, sau đó lại mau mắn tra vào vỏ. Tiếng đao rít vù còn chưa kịp dứt, bảy, tám tên thuộc hạ xin được sống đã đầu lìa khỏi cổ, ngã gục xuống đất.
Đông Hương không để tâm đến những đồng bọn chết dưới đao mình, quay người nhìn về phía cuối mặt biển nơi đường chân trời có đối thủ vô hình, ánh mắt bùng lên lửa hận. Thủ đoạn này của quân Minh âm hiểm tàn độc hơn bất cứ thủ đoạn nào trong quá khứ. Y bất giác hướng về phía Đông rộng lớn: “Tiễu Oa Doanh! Ta nhất định sẽ diệt sạch Tiễu Oa Doanh!”
“Báo!” Một tên giặc Oa đột nhiên chạy tới, thở dốc nói: “Chúng tôi bắt được một thuyền cá tiếp cận hải đảo, trên thuyền có hai người Hán, nói là muốn gặp thủ lĩnh!”
Đông Hương gật đầu: “Đưa lên đây!”
Hai người Hán bị mấy tên lính Oa xô đẩy đưa tới, đầu chụp kín khăn để tránh biết được vị trí đảo. Đây là nơi ẩn thân nhiều năm của quân Đông Hương, không thể để người khác phát hiện. Nhưng hiện giờ hai người này đã có thể tìm tới tận đây, che mặt hay không e rằng đã không còn quan trọng, vì vậy Đông Hương xua tay bảo hai tùy tùng cởi chụp đầu của họ ra.
Hai người vừa thấy ánh sáng đều bất giác nheo mắt lại. Đông Hương lạnh lùng quan sát cả hai, thấy kẻ bên trái tuổi gần ngũ tuần, ăn bận như tú tài nghèo, lông mày chữ bát chia hai bên, đôi mắt tam giác liếc ngang liếc dọc, hai chỏm râu chuột rung rinh theo gió, bộ dạng lếch thếch không sao tả nổi; kẻ bên phải áo quần lam lũ, tóc tai rối bù che kín mặt như một tên ăn mày, ánh sáng lạnh toát ra qua khe mắt, cơ hồ tuổi tác không lớn. Thấy Đông Hương đang quan sát mình, gã ăn mày cười nhạt, chậm rãi vén tóc để lộ khuôn mặt tuy bẩn thỉu nhưng anh tuấn, thậm chí còn có đôi phần nho nhã.
Đông Hương vừa trông đã biết tên ăn mày trẻ tuổi này không phải hạng tầm thường, bèn nhìn thẳng vào y, lạnh lùng hỏi: “Các ngươi làm thế nào tìm tới được đây?” Tên ăn mày cười nhạt: “Chỉ cần có lòng thì sẽ tìm được.” Giọng nói của y hơi the thé khiến người khác nghe không mấy dễ chịu.
“Ngươi tới đây làm gì?” Đông Hương lại hỏi. Trong tay Đông Hương không thiếu tai mắt người Hán, tuy y bắt buộc phải dùng những kẻ này, nhưng lòng luôn vô thức miệt thị những tên Hán gian bán đứng đồng bào. Có điều, tên ăn mày này không có vẻ gì là nịnh bợ xun xoe, trái lại còn đưa ánh mắt cao ngạo nhìn Đông Hương, thản nhiên đáp: “Ta đến đây để cứu tính mạng của Đông Hương tướng quân.”
“Ngu xuẩn!” Đông Hương động nộ quát, đao võ sĩ đột ngột kề lên cổ tên ăn mày. Y không chịu nổi ánh mắt châm chọc của kẻ đó, đặc biệt là sau khi vừa thảm bại. Chẳng ngờ tên ăn mày không thèm chớp mắt trước lưỡi đao võ sĩ lấp loáng hàn quang, thậm chí còn nhếch miệng cười.
“Ngươi cười cái gì?” Đông Hương quát hỏi. Tên ăn mày cười nhạt đáp: “Ta cười Đông Hương tướng quân sắp chết tới nơi, còn vô lễ với ân nhân cứu mạng như vậy.”
Hai mắt Đông Hương như muốn tóe lửa, y động nộ quát: “Sao ta lại sắp chết tới nơi?”
Tên ăn mày cười đáp: “Vì kẻ ngươi đối đầu không còn là Du Trọng Sơn, mà là công tử Tương.”
Đông Hương sững người, dần lấy lại bình tĩnh. Không phải y chưa từng nghe nói tới công tử Tương. Trước đây đã có tai mắt bẩm báo y, có một gã lừa đảo giang hồ huênh hoang rằng sẽ lấy sức mình tiêu diệt hải tặc, dùng chiêu trò này gạt tiền người ta. Lúc đó y chỉ coi là chuyện đùa, nghe xong rồi quên. Hiện giờ nghe tên ăn mày lần nữa nhắc tới công tử Tương, y không kìm được hỏi: “Công tử Tương là người thế nào?”
Mắt lóe tia lạnh buốt, tên ăn mày chậm rãi nói: “Hắn là một lão thiên cao minh, cũng là một thiên tài có thể thay đổi cục thế chiến tranh. Lần này chính hắn đã câu kết với bộ Binh điều Du Trọng Sơn rời khỏi Hàng Châu, dụ Đông Hương tướng quân mắc bẫy. Nếu Đông Hương tướng quân đến chuyện bại trong tay ai còn không biết, e rằng sớm muộn cũng chết không có chỗ chôn thân.”
Đông Hương lập tức nhớ ra thư sinh áo xanh chỉ huy chiến trường, dẫn dụ y vào tuyệt địa, không kìm được hỏi: “Ngươi biết hắn?”
“Hiểu quá rõ là đằng khác!” Tên ăn mày thở dài: “Vì ta cũng từng bại trong tay hắn, e rằng chẳng còn ai hiểu hắn hơn ta.”
Đông Hương bật cười ha hả, thu đao lại: “Ngươi cũng là bại tướng dưới tay hắn thì có tư cách gì giúp ta?”
Tên ăn mày không màng đến sự miệt thị của Đông Hương, vẫn ung dung nói: “Những bài học và kinh nghiệm rút ra từ thất bại đều là dùng máu tươi và tính mạng đánh đổi, Đông Hương tướng quân có thể mua được ở đâu? Hơn nữa, ta còn mang đến cho ông một người hữu dụng hơn.” Nói đoạn, y chỉ sang tên tú tài nghèo nhếch nhách bên cạnh: “Xin phép giới thiệu với Đông Hương tướng quân, vị này là Thi Bách Xuyên trưởng lão, một trong thất đại trưởng lão Ma Môn, ông ấy mang tới thư do đích thân môn chủ Khấu Diệm của Ma Môn viết cho Đông Hương tướng quân.”
Tú tài nghèo chỉnh sửa y phục, rũ sạch bộ dạng hèn mọn vừa rồi, chớp mắt như biến thành người khác. Y chậm rãi móc một lá thư trong ngực áo, hai tay cầm đưa tới trước mặt Đông Hương, thần thái ung dung điềm nhiên như không. Tuy Đông Hương hô mưa gọi gió trên biển, nhưng cũng đã nghe qua đại danh của Khấu Diệm. Y bèn nhận thư, bóc ra xem cặn kẽ, chân mày nhíu chặt dần dãn ra, cuối cùng ngửa mặt cười lớn: “Có Ma Môn tương trợ, ta tự nhiên có thêm một nội ứng lớn, còn chuyện gì không thành chứ? Dù công tử Tương đó có là Tôn Vũ tái thế, ta cũng sẽ bắt sống hắn, báo mối huyết thù hôm nay!” Dứt lời, y xoay sang nói với tú tài nghèo: “Phiền Thi tiên sinh hãy về báo với Khấu môn chủ, cứ nói Đông Hương Bình Dã Lang ta bằng lòng liên minh với Ma Môn, cùng mưu đại sự.”
Đông Hương xua tay ra lệnh thuộc hạ hạ kiếm, bỏ cung xuống, sau đó mời hai người vào phòng nghị sự. Dọc đường y chốc chốc lại nhìn tên ăn mày, ngẫm nghĩ mãi đoạn hỏi: “Các hạ tuy ít tuổi nhưng chịu đủ phong sương, tâm trí hơn người. Nếu ta đoán không sai, các hạ cũng không phải hạng tầm thường. Không biết tôn tính đại danh thế nào?”
Tên ăn mày khẽ thở dài, đáp: “Ta vốn định vĩnh viễn mai danh ẩn tích, từ nay sẽ biến mất trên giang hồ. Nhưng để tỏ lòng thành, tại hạ cũng không dám che giấu điều gì với Đông Hương tướng quân. Tại hạ họ Nam Cung, tên một chữ Phóng.”
Chiếc xe ngựa sang trọng chạy thong thả trên thảo nguyên mênh mông, Ba Triết ngồi trên càng xe vừa đánh ngựa vừa ư ử một giai điệu lạ tai. Lần này y không những đưa được phi tử điện hạ yêu chiều nhất trở về, mà còn đưa về một bất ngờ, đó là tiểu vương tử đang nằm trong bụng mẹ. Y cũng cảm thấy vui thay cho chủ nhân.
Trong xe ngựa, Thư Á Nam liên tục ngoái đầu nhìn về phía sau, chỉ thấy tiểu trấn biên thùy càng lúc càng xa, cuối cùng biến mất hoàn toàn khỏi tầm mắt. Hy vọng của Thư Á Nam cũng tan tành theo hình bóng tiểu trấn, mãi không có người đuổi theo, xem ra tất cả chỉ có thể dựa vào bản thân nàng.
Hoàng hôn buông xuống, xe ngựa dừng lại trong một vạt rừng. Ba Triết vừa nhóm lửa, vừa sửa soạn bữa tối. Y chẳng khác nào loài chó săn bẩm sinh, trong chớp mắt đã mang về hai con thỏ rừng và một chú linh dương nhỏ. Trong xe ngựa có đầy đủ nồi niêu bát đũa, quả cũng là chuyện vui bất ngờ. Ba Triết xách thỏ rừng ra bờ suối rửa sạch sẽ rồi ném vào nồi nấu, lát sau đã thấy mùi thơm nức mũi bốc lên.
Đợi thịt thỏ chín nhừ, Ba Triết múc trước một bát bưng tới cho Thư Á Nam. Nàng cầm lấy bát, sau đó rút một bọc giấy lớn vuông vức từ trong tay áo đưa cho Ba Triết, bảo: “Giúp ta nấu thang thuốc này.”
“Đây là gì?” Ba Triết cầm bọc giấy ngờ vực, mùi thảo dược lập tức nồng sộc vào mũi, đây là thuốc Thư Á Nam lấy ở chỗ đại phu kia. Thư Á Nam đỏ mặt nhỏ giọng giải thích: “Mấy hôm nay ta bôn ba vất vả, bụng thấy khó chịu nên vừa rồi lúc ngươi đi tìm xe ngựa, ta đã nhờ đại phu bốc cho thang thuốc dưỡng thần an thai.”
Ba Triết gật đầu tỏ vẻ thấu hiểu: “Chủ mẫu mấy ngày nay đúng là đã lao lực, nên chú ý sức khỏe. Tiểu nhân sẽ đi sắc thuốc ngay.” Dứt lời, y đi tới bờ suối múc đầy nồi nước, sau đó bỏ thuốc vào trong nồi, lần đầu bắt tay sắc thuốc. Một lát sau, mùi thuốc sắc đã tỏa tứ phía, y cẩn thận múc một bát, hai tay bưng tới trước mặt Thư Á Nam. Thư Á Nam đón lấy bát thuốc, nếm thử một ngụm nhỏ liền cau mày nói: “Đắng quá, khó uống lắm!”
“Thuốc nào cũng khó uống như vậy, xin chủ mẫu lượng thứ.” Ba Triết vội giải thích. Thư Á Nam nhìn bát thuốc trong tay, nhăn mũi làu bàu: “Cũng không biết đại phu đó y thuật thế nào, lỡ như gặp phải lang băm bốc nhầm thuốc thì há chẳng đã hại đứa con trong bụng ta?”
Ba Triết nghe vậy liền nói: “Vậy đừng uống thuốc này nữa, tránh chuyện ngoài ý muốn.”
Thư Á Nam sờ bụng mình, vẻ mặt khó xử: “Bây giờ bụng ta cứ đau âm ỉ, lỡ đứa trẻ có chuyện gì, điện hạ mà biết có mỗi uống thuốc an thai ta cũng bỏ không uống liệu sẽ nghĩ gì đây? Ta phải giải thích sao với điện hạ đây?”
“Chuyện này…” Ba Triết cũng bắt đầu thấy khó xử. Thư Á Nam lại tiếc nuối nói: “Lúc nãy lẽ ra phải đưa đại phu đó đi cùng, như vậy có thể để y thử thuốc cho ta, bây giờ thì…” Nàng trầm ngâm không nói thêm, chỉ nhìn Ba Triết bằng ánh mắt kỳ lạ, đến độ Ba Triết thấy gai người, vội hỏi: “Chủ mẫu muốn tiểu nhân làm gì?”
Thư Á Nam nở nụ cười nham hiểm: “Không biết Ba Triết dũng sĩ trung thành với Lãng Đa điện hạ đến đâu?”
Ba Triết liền đáp: “Điện hạ là cha mẹ tái sinh ra tiểu nhân, dù lên núi đao xuống chảo dầu vì điện hạ, tiểu nhân cũng không tiếc.”
Thư Á Nam gật đầu cảm động, đưa bát thuốc trong tay cho Ba Triết: “Vậy ngươi có bằng lòng thử thuốc vì đứa con của điện hạ không?”
Ba Triết giật bắn mình, cuống lên nói: “Thuốc của nữ nhân sao một nam nhân như ta có thể uống được?”
“Có gì mà không được?” Thư Á Nam sẵng giọng: “Thuốc an thần dưỡng thai, nam nhân uống cũng không bị đau bụng đâu.”
“Không được không được!” Ba Triết vội xua tay: “Chuyện khác tiểu nhân còn đồng ý, chứ chuyện thử thuốc thứ cho tiểu nhân khó mà theo lệnh!”
Thư Á Nam tức mình hắt bát thuốc đi, cả giận nói: “Một đại phu quê mùa bốc thuốc, nếu không có ai thử sao ta dám tùy tiện uống? Uống xong ta có mệnh hệ gì cũng chẳng sao, lỡ như hại đến đứa bé, ngươi bảo ta phải nói sao với điện hạ đây? Nếu ngươi không bằng lòng thử, ta cũng đành bỏ thuốc thôi!” Dứt lời, nàng ngoảnh đầu đi chỗ khác mặc kệ Ba Triết.
Ba Triết theo vương tử Lãng Đa nhiều năm, biết rằng vương công quý tộc như điện hạ trước khi uống thuốc đều phải để kẻ dưới thử trước, tránh có người hạ độc, vì vậy y không thấy hành động của Thư Á Nam có gì kỳ lạ. Nhưng thuốc uống dành cho chủ nhân dù thế nào y cũng không thể uống, thấy Thư Á Nam hắt thuốc đi, y cũng không dám khuyên thêm.
Một lát sau, Thư Á Nam cúi người ôm bụng, dường như đang phải cắn răng nhịn đau. Ba Triết thấy vậy vội hỏi: “Chủ mẫu bị sao vậy?”
“Đau bụng.” Thư Á Nam gượng nói được một câu thì ôm bụng ngã xuống đất. Ba Triết sợ hãi tay chân luống cuống, dáo dác thấy xung quanh không có nhà dân thì cũng không biết làm sao hơn, chợt nghe Thư Á Nam cố gượng nói: “Ba Triết dũng sĩ yên tâm, lỡ như con ta mất, điện hạ mà hỏi, ta sẽ không tiết lộ với điện hạ chuyện ngươi không chịu thử thuốc.”
Ba Triết ngây người mãi hồi lâu, cuối cùng cắn răng “Ta thử!”
Thấy vẫn còn gần nửa nồi thuốc, y múc đầy một bát, uống cạn một hơi, sau đó lại múc một bát khác đưa cho Thư Á Nam, nói: “Ta đã thử thuốc rồi, xin chủ mẫu mau uống đi!”
“Không được, ta phải đợi một lát, xem ngươi có ổn hay không.” Thư Á Nam cố gồng người dậy, mắt dán chặt vào Ba Triết. Ba Triết nghĩ cũng phải, bèn ngồi xếp bằng xuống cảm nhận: “Ngoài chuyện rất đắng thì hình như không có vấn đề gì.”
“Nhanh thế làm sao đã biết được?” Thư Á Nam vẫn chăm chú nhìn Ba Triết: “Ngươi đợi thêm lát nữa, nếu cảm thấy có gì khác lạ thì nhất định không được vận công kháng thuốc, nếu không sẽ không biết hiệu quả.”
Ba Triết gật đầu: “Chủ mẫu yên tâm, ta sẽ không vận công kháng thuốc, ừm, hình như có hơi hoa mày chóng mặt, tay chân uể oải đi.”
“Thế thì đúng rồi!” Thư Á Nam vui mừng vỗ tay nói: “Đại phu đã nói với ta, thuốc này có tác dụng an thần, uống vào là muốn ngủ, bây giờ có phải người bắt đầu có cảm giác ấy không?”
Ba Triết gật đầu đáp: “Hình như đúng, nói như vậy thì thuốc này không vấn đề gì, chủ mẫu mau uống đi.”
Thư Á Nam lim dim mắt cười, lắc đầu nói: “Bây giờ bụng ta hình như không đau nữa, không cần uống.”
“Vậy thì tốt.” Ba Triết nói đoạn định đứng dậy, bất ngờ cảm thấy đất trời chao đảo, tay chân nặng trịch như chì, cả người mất tự chủ ngã phịch xuống đất. Y cố mở mắt mơ màng hỏi: “Dược tính của thuốc này hình như hơi mạnh, có phải liều lượng nhiều quá rồi không?”
Thư Á Nam cúi đầu nhìn y, nheo mắt cười nói: “Liều lượng đúng là không ít đâu, đủ để đánh gục hai mươi người. Cái y quán đấy đến Mông Hãn dược thường dùng trong giang hồ cũng không có, đại phu đành phải dùng thảo dược phối chế cho ta, không ngờ có tác dụng như vậy.” Nàng rút thanh chủy thủ trong ống giày Ba Triết ra…
Ba Triết cứng đờ người, miệng không thể nói ra lời, chỉ nhìn Thư Á Nam bằng ánh mắt cầu khẩn. Lưỡi chủy thủ đặt ngang yết hầu Ba Triết hồi lâu, cuối cùng Thư Á Nam vẫn không thể xuống tay. Từ lúc biết mình có con, nàng đã mềm lòng hơn trước rất nhiều. Thư Á Nam nghĩ cho đứa con trong bụng, lại nghĩ chuyện Ba Triết cẩn thận hầu hạ lúc trước, nàng quyết định thu lại chủy thủ, bày ra bộ dạng nanh ác nói với Ba Triết: “Đừng theo ta nữa, nếu không ta sẽ giết ngươi thật đấy!”
Lời vừa dứt, nàng cắt y phục của Ba Triết, xẻ thành từng mảnh dây da dê dài, sau đó trói chặt y lại, nghĩ một lát vẫn chưa yên tâm, nàng lại cắt giày của Ba Triết rồi lấy chủy thủ bằm thành mảnh nhỏ. Không có giày mà muốn chân trần đi bộ đường dài trên thảo nguyên đúng là một chuyện không tưởng.
Xong xuôi đâu đấy, Thư Á Nam giắt theo đao và chủy thủ của Ba Triết, tháo ngựa khỏi xe rồi nhảy lên lưng ngựa, quất roi phi thẳng về phía Đông Nam…