Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 42

9

Trảm

thủ

Trong gian nhà gỗ đơn sơ, u ám, ẩm thấp, áng nến vàng chập chờn khiến khuôn mặt của những kẻ trong phòng trở nên mờ ảo. Đông Hương Bình Dã Lang mời Nam Cung Phóng và trưởng lão Ma Môn Thi Bách Xuyên ngồi xuống, sau đó sai thuộc hạ thiết yến.

Một lát sau, mấy thiếu nữ người Oa bận Hòa phục nối đuôi nhau bê rượu và thức ăn tới, đồng thời biểu diễn ca múa xứ Phù Tang góp vui. Đông Hương Bình Dã Lang nâng ly rượu nói với Thi Bách Xuyên: “Tại hạ tuy trước nay chỉ ở duyên hải, nhưng đã ngưỡng mộ đại danh quý giáo và Khấu môn chủ từ lâu. Hôm nay được quý môn tương trợ, tại hạ có thêm nhiều tai mắt và nội ứng, quả đúng là trời giúp ta!” Rồi y lại thân thiết hỏi: “Không biết Khấu môn chủ hiện giờ đang ở đâu, có kế hoạch cụ thể gì với việc liên minh của chúng ta không?”

Thi Bách Xuyên cười nói: “Môn chủ của chúng ta lòng ôm thiên hạ, sau khi dẫn bản giáo đứng vững ở phúc địa Trung Nguyên đã lập tức sai tại hạ đi liên lạc với Đông Hương tướng quân, đồng thời còn phái người đi lên phía Bắc liên lạc với người Ngõa Thích, nhưng hiện tại mãi không thấy người Ngõa Thích hồi âm, vì vậy Khấu môn chủ quyết định đích thân đi Ngõa Thích một chuyến để kết minh, cùng mưu giang Sơn Đại Minh. Lúc đó Đông Hương tướng quân ở duyên hải Đông Nam, Ngõa Thích ở phía Bắc, bản giáo mở rộng trong Trung Nguyên, vậy thì giang Sơn Đại Minh ắt phải điên đảo trong tay chúng ta!”

“Khấu môn chủ quả nhiên nhất đại kiêu hùng, hùng tâm mưu lược người như ta khó thể so bì!” Đông Hương vỗ tay ca ngợi. Y là hải tặc, không có hứng thú với giang sơn xã tắc, nhưng nếu Trung Nguyên có chiến loạn, chắc chắn sẽ điều động binh từ duyên hải Đông Nam trở, tuyến phòng thủ trên biển của Đại Minh ắt sẽ vườn không nhà trống, lúc đó của cải nữ nhân các tỉnh duyên hải sẽ mặc cho y chiếm đoạt. Vì vậy y quả cũng thật lòng muốn liên minh với Ma Môn.

“Môn chủ chúng ta cũng rất ngưỡng mộ Đông Hương tướng quân! Nếu không vì lần này phải đích thân đi Ngõa Thích thì môn chủ đã định sẽ đến gặp tướng quân!” Thi Bách Xuyên cung kính nói.

“Khấu môn chủ nói vậy thật sao?” Đông Hương tức khắc hai mắt sáng ngời, thấy Thi Bách Xuyên gật đầu lia lịa, y bất giác ưỡn thẳng ngực, cảm giác cũng cao lớn hơn nhiều. Sau đó y lại quay sang Nam Cung Phóng: “Tam công tử Nam Cung thế gia trước giờ tinh minh tài giỏi, cơ trí hơn người, nổi danh giang hồ, hơn nữa còn nắm rõ dân tình địa lý hai tỉnh Giang Triết như lòng bàn tay. Đông Hương có thể được Nam Cung công tử bày mưu lập kế, chẳng khác Hồng Vũ* hoàng đế của quý quốc được Lưu Bá Ôn tương trợ, đâu cần phải sợ tên công tử Tương nhãi nhép ấy nữa?”

“Không!” Trong cặp mắt của Nam Cung Phóng lóe lên tia thù hận xen lẫn khâm phục: “Công tử Tương quỷ kế đa đoan, tâm tư kín kẽ, lại ham học hỏi, biết cách dùng người. Bất luận binh pháp mưu lược hay đạo cầm quân đều chỉ cần học là biết, biết là tinh thông, quả thực là một cao thủ tuyệt đỉnh của Thiên Môn. Ngươi càng hiểu y thì càng cảm thấy sự đáng sợ của y.” Thấy Đông Hương biến sắc mặt, Nam Cung Phóng nở nụ cười điềm tĩnh: “Nhưng may mà y cũng có nhược điểm, nhược điểm lớn nhất!

Đông Hương vội hỏi: “Nhược điểm gì?”

Nam Cung Phóng cười nói: “Mềm lòng! Đây là đại kỵ của người trong Thiên Môn, nhưng y lại không thể khắc phục được! Cũng chỉ vì điều này mà y mãi mãi không thể đạt tới cảnh giới nhất đại thiên hùng.”

Đông Hương đùng đùng nổi giận: “Y đã thiến hơn ba trăm thuộc hạ của ta, thế mà gọi là mềm lòng? Thủ đoạn đả kích sĩ khí quân ta của y, vượt xa bất cứ thủ đoạn tàn khốc nào trong quá khứ!”

Nam Cung Phóng lắc đầu nói: “Trong suy nghĩ của công tử Tương, thiến tù binh sẽ nhân từ hơn là thẳng tay hạ sát. Hơn nữa thủ đoạn này chưa chắc là ý của y. Võ sĩ của quý quốc với văn nhân nước ta có cách hiểu nhân từ và tàn nhẫn hoàn toàn khác nhau.”

“Nam Cung công tử nói không sai!” Thi Bách Xuyên cũng góp lời: “Thiếu chủ chúng ta và Hạng trưởng lão lúc ở Khai Phong Hà Nam cũng từng bị công tử Tương dẫn binh vây khốn, nhưng đến phút cuối y lại tha cho thiếu chủ và Hạng trưởng lão. Về sau chúng ta phân tích là y sợ dùng vũ lực sẽ ngộ thương nhiều dân chúng, nên mới buông tha cho thiếu chủ và Hạng trưởng lão trong khi phần thắng đã định. Công tử Tương hành sự quả thực không thể suy đoán theo lối tâm tư của chúng ta.”

Đông Hương thấy Thi Bách Xuyên nói vậy, trầm ngâm hỏi: “Vậy chúng ta phải lợi dụng nhược điểm của y thế nào đây?”

Nam Cung Phóng hỏi ngược lại: “Chỉ không biết Đông Hương tướng quân đem việc báo thù đặt lên hàng đầu hay là nữ nhân và của cải đặt lên hàng đầu?”

“Nói vậy là sao?” Đông Hương lấy làm khó hiểu. Nam Cung Phóng mỉm cười đáp: “Nếu Đông Hương tướng quân đặt nữ nhân và của cải lên hàng đầu, vậy tốt nhất hãy quên đi thù hận với Tiễu Oa Doanh và công tử Tương. Đường biển Đại Minh trải dài nghìn dặm, Tiễu Oa Doanh chỉ mấy nghìn người, có anh dũng thiện chiến tới đâu cũng không phòng vệ hết nổi. Chỉ cần tướng quân rắp tâm né Tiễu Oa Doanh, công tử Tương muốn bắt được tướng quân cũng vô cùng khó.”

Đông Hương nổi giận đập bàn: “Trận chiến ngoài thành Hàng Châu, công tử Tương không chỉ giết hơn năm nghìn huynh đệ vào sinh ra tử với ta, còn thiến hơn ba trăm tù binh. Đây là mối sỉ nhục chưa từng có với võ sĩ Đại Hòa. Thù này không báo, ta còn mặt mũi nào đối diện với huynh đệ đã mất? Hiện giờ tất cả võ sĩ Đại Hòa trên biển đều đang nhìn vào Đông Hương Bình Dã Lang ta, nếu ta không thể báo đại thù này, ai còn coi Đông Hương Bình Dã Lang ta ra gì?”

Nam Cung Phóng gật gù ra vẻ thấu hiểu: “Muốn báo thù không khó, chỉ không biết Đông Hương tướng quân có chịu bỏ chút vốn tâm huyết của mình không?”

Đông Hương nhướng mày hỏi: “Vốn gì? Xin công tử nói rõ!”

Nam Cung Phóng cười nhạt nói: “Ta biết Đông Hương tướng quân tung hoành trên biển nhiều năm, chắc đã tích lũy được khối tài sản khổng lồ cũng như cướp về không ít nữ nhân vùng duyên hải. Ngoài một ít của cải đã chuyển về Phù Tang, tin rằng vẫn còn của cải và nữ nhân được tướng quân giấu ở hoang đảo nào đó trên biển. Nếu muốn câu được con cá lớn như công tử Tương, Đông Hương tướng quân phải chịu bỏ số nữ nhân và của cải này ra làm mồi nhử.”

Đông Hương ngờ vực hỏi: “Làm thế nào?”

Nam Cung Phóng nở một nụ cười âm hiểm: “Tin rằng trong số nữ nhân mà Đông Hương tướng quân cướp về sẽ có những người không cam lòng đi theo tướng quân và thuộc hạ của ngài, sẽ có người muốn bỏ trốn. Nếu ngài giả bất cẩn để họ trốn đi một vài người, những người ấy chắc chắn sẽ đi tìm Tiễu Oa Doanh cầu cứu cho tỷ muội của họ. Với tính tình của công tử Tương chắc chắn sẽ lập tức phát binh viễn chinh. Tiễu Oa Doanh dù xuất toàn quân cũng không quá sáu nghìn người. Quân Đông Hương hiện tại dù không đủ sáu nghìn, song với danh vọng của ngài trong tộc nhân, muốn chiêu mộ thêm năm, sáu nghìn người chắc không thành vấn đề. Lúc đó ngài đừng vội chống cự, để Tiễu Oa Doanh tấn công vào khoảnh trời riêng ngài kỳ công xây dựng nhiều năm. Tiễu Oa Doanh đối mặt với vô số của cải và nữ nhân, quân kỷ ắt lỏng lẻo, tướng lệnh khó chấp hành. Tới lúc đó Đông Hương quân lại dẫn quân chủ lực mai phục trên biển toàn lực xuất kích. Tiễu Oa Doanh lúc này quân yếu thế cô bị giam hãm trong tuyệt địa, trong thiếu lương thảo, ngoài không quân viện trợ, vậy thì công tử Tương còn không bó tay chịu trói sao?”

Đông Hương cầm ly rượu trầm ngâm hồi lâu, do dự nói: “Nếu Tiễu Oa Doanh bị vây khốn trên đảo sẽ mất đi lợi thế kỵ binh, lại không có sự giúp đỡ từ quân chi viện, quả thực như hổ sa vũng lầy. Nhưng nếu quân Du gia phát binh tương trợ, chúng ta phải ứng phó thế nào?”

“Đông Hương tướng quân lo xa rồi!” Thi Bách Xuyên cười nói: “Theo quân chế của Đại Minh, quân đội nếu muốn rời căn cứ địa hành động phải được bộ Binh chấp thuận. Du Trọng Sơn muốn điều động quân hai tỉnh Giang Triết bắt buộc phải trình báo bộ Binh trước. Dù là hỏa tốc tám trăm dặm, cả đi lẫn về nhanh nhất cũng phải mất một tháng, đến lúc đó e là toàn quân Tiễu Oa Doanh đã bị tiêu diệt. Hơn nữa Ma Môn chúng ta sẽ thay Đông Hương tướng quân giám sát tất cả lệnh điều quân đóng tại vùng duyên hải, bao gồm cả quân Du gia, lúc cần thiết sẽ khiến lệnh của bộ Binh vĩnh viễn không thể đến tay Du Trọng Sơn!”

Đông Hương cướp bóc các vùng duyên hải nhiều năm, cũng hiểu rõ quân chế Đại Minh. Biết rằng triều đình nhà Minh vì muốn đề phòng võ tướng tự ý điều động binh, uy hiếp đến sự an nguy của địa phương và triều đình, thậm chí phát động binh biến, vì vậy hạn chế hành động của quân đội đóng ở các nơi rất hà khắc, quân đóng tại một tỉnh nếu muốn hành động vượt quá địa giới tỉnh bắt buộc phải có lệnh của bộ Binh. Đây cũng là nguyên nhân Đại Minh tuy có trăm vạn binh hùng ở duyên hải, nhưng Đông Hương vẫn có thể ra vào tự do. Trong các cánh quân đóng tại duyên hải Đại Minh, chỉ Tiễu Oa Doanh mới thành lập là có thể tự do hành động không cần qua bộ Binh, không chịu hạn chế địa phận quản hạt, vì vậy mới thành cái đinh trong mắt hải tặc.

Đông Hương nghĩ ngợi một hồi, cuối cùng chậm rãi gật đầu nói: “Chỉ cần Thi trưởng lão có thể bảo đảm quân Du gia không thể ra biển chi viện cho Tiễu Oa Doanh thì của cải và nữ nhân trong tay Đông Hương ta, cùng cả hòn đảo ta gầy dựng bao năm có đáng là gì? Hiện giờ Tiễu Oa Doanh đã là kẻ thù chung của võ sĩ Đại Hòa, chỉ cần công tử Tương dám dẫn quân viễn chinh ra biển, ta có thể triệu tập hơn một vạn người mai phục tứ phía trên đảo, vây chặt Tiễu Oa Doanh và công tử Tương ở đó!”

Nam Cung Phóng đập bàn đứng dậy, vui mừng nói: “Nếu Đông Hương tướng quân đã quyết tâm như vậy, chịu bỏ vốn liếng tâm huyết của mình thì lo gì không diệt được Tiễu Oa Doanh, công tử Tương sao có thể toàn mạng?”

“Hay lắm hay lắm!” Thi Bách Xuyên cũng nâng ly nói: “Tiễu Oa Doanh dẫn đầu quân đóng tại duyên hải, còn công tử Tương lại là thủ lĩnh của Tiễu Oa Doanh, diệt Tiễu Oa Doanh và công tử Tương chính là chặt lấy thủ cấp của cả hệ thống phòng thủ bờ biển Đại Minh, từ nay vùng biển Đại Minh chẳng khác nào chỗ không người với Đông Hương tướng quân. Kế sách này của Nam Cung công tử quả nên gọi là ‘hành động trảm thủ’!”

Đông Hương bật cười ha hả, nâng ly đứng dậy, ngạo nghễ gật đầu: “Hành động trảm thủ! Hay! Vì hành động trảm thủ cấp Tiễu Oa Doanh tiến hành thuận lợi, báo mối thù chịu nhục của ta, cạn ly!”

Ba ngươi cùng chạm ly rượu, nở nụ cười ăn ý.

Thành Hàng Châu sau khi bị giặc Oa quấy nhiễu trái lại còn phồn hoa và huyên náo hơn trước. Lòng dân tin tưởng có hai đội hổ quân Du gia và Tiễu Oa Doanh bảo vệ, thành Hàng Châu vững như bàn thạch, vì vậy các thương gia từ Nam ra Bắc đều thích chọn Hàng Châu làm nơi dừng chân, khiến nơi đây càng phồn hoa nhộn nhịp hơn bất cứ lúc nào.

Trên con đường phồn hoa náo nhiệt, người đông như mắc cửi ấy, Minh Châu mắt sáng răng trắng, thơ ngây hồn nhiên đang nhảy nhót ở phía trước, hết nhìn bên nọ rồi lại nhìn bên kia, dáng vẻ phấn khích, chốc chốc lại quay đầu giục Vân Tương đằng sau nàng đi mau hơn một chút. Sau đại thắng, Tiễu Oa Doanh được triều đình trọng thưởng, toàn quân nghỉ phép ba ngày, Minh Châu mãi mới rủ được Vân Tương đi dạo phố với nàng nên dĩ nhiên vô cùng phấn khải.

“Ôi, chiếc vòng này đẹp quá!” Minh Châu dừng bước trước một sạp hàng lề đường, cầm một chiếc vòng ngọc lên ngắm nghía, có vẻ yêu thích không muốn rời tay. Thật ra với thân thế của nàng, có vòng ngọc nào mà chưa từng thấy, những món hàng lề đường này đâu tới lượt? Nhưng nàng cố tình tỏ vẻ nữ nhân quê mùa, thật ra xuất phát từ tâm tư không thể nói cho người khác biết của nữ nhi.

Vân Tương bước tới xem, gật đầu nói: “Đúng là đẹp, thích thì mua đi.”

“Được được!” Minh Châu mừng rỡ đeo vòng ngọc vào cổ tay, ngắm lên ngắm xuống đợi Vân Tương trả tiền, ai ngờ gã chắp tay sau lưng bỏ đi. Minh Châu đỏ lựng mặt hét: “Này! Mau trả tiền đi!”

Vân Tương quay đầu lại ngạc nhiên: “Muội mua đồ, sao lại bắt ta trả tiền?”

Minh Châu uất nghẹn hai mắt trợn ngược, tức tối gỡ vòng ngọc xuống trả lại cho tiểu thương, bĩu môi đi lên trước, làm lơ luôn gã mọt sách kia. Vân Tương còn cười ngờ nghệch đuổi theo hỏi: “Sao không mua nữa? Có phải đắt quá không?”

“Đúng đấy! Đắt quá, ta không mua nổi!” Minh Châu không thèm ngoảnh đầu lại đáp trả. Vân Tương sau lưng từ tốn nói: “Chỗ ta thì có một chiếc vòng không đắt lắm, không biết muội có thích không?”

Minh Châu không nhịn được quay phắt lại, thấy Vân Tương rút từ trong ngực áo ra một hộp gấm như làm ảo thuật, chậm rãi mở nắp, trong hộp là một chiếc vòng ngọc trong suốt sáng lấp lánh, tuy không phải kỳ trân dị bảo, nhưng quý giá hơn hàng lề đường kia không biết bao nhiêu lần. Minh Châu chuyển giận thành vui, đang muốn giơ tay ra lấy thì bắt gặp ánh mắt như cười như không, như nhìn thấu tất cả của Vân Tương, nàng đỏ mặt, bèn tỏ ra khó tính xem xét chiếc vòng, bĩu môi nói: “Sắc ngọc không được thuần, cũng không đủ độ trong, bình thường không thể bình thường hơn.”

“Không thích à?” Vân Tương nói rồi thu lại vòng ngọc: “Vậy ta cầm đi trả, mấy trăm lượng bạc đấy, ta đúng là còn có chút không nỡ tặng người khác.”

“Huynh dám!” Minh Châu không nói nhiều giằng lấy vòng ngọc, cẩn thận đeo vào tay, chiếc vòng màu xanh biếc đeo trên cổ tay thon trắng ngần khiến tay trắng càng thêm trắng, ngọc xanh càng thêm xanh. Minh Châu ngắm ngang ngắm dọc, thích thú xen lẫn mừng rỡ, toan cảm ơn Vân Tương, chợt thấy gã nửa cười nửa không nhìn mình, ánh mắt đầy trìu mến. Minh Châu đỏ mặt, giơ bàn tay nhỏ đánh Vân Tương một cái: “Keo kiệt! Mấy trăm lượng bạc còn không nỡ bỏ, chẳng trách tỷ tỷ muội không cần huynh nữa.”

Lời nói vừa buột miệng Minh Châu đã hối hận không thôi, nhưng tiếc rằng không thể vãn hồi. Nàng lén nhìn Vân Tương, nụ cười của gã đông cứng trên mặt, ánh mắt đau khổ khiến người khác nhìn mà thấy lo âu. Minh Châu muốn xin lỗi, nhưng mở miệng lại không biết nói sao mới phải. Hai người im lặng một lát, Vân Tương cuối cùng gượng cười nói: “Phải! Người Á Nam ngưỡng mộ là anh hùng đỉnh thiên lập địa, nàng sao có thể thích thư sinh nghèo chỉ biết lừa bịp như ta?”

“Không phải như vậy! Tỷ tỷ không phải người như vậy!” Minh Châu đỏ bừng mặt rối rít phân bua, nhưng không biết giải thích thế nào, đành nói: “Không cần biết người khác nhìn huynh thế nào, trong lòng Minh Châu huynh chính là đại anh hùng đầu đội trời chân đạp đất!”

Vân Tương cảm động vỗ vào tay Minh Châu: “Đừng nói nữa, để người khác nghe thấy rồi lại thành chuyện cười. Nghe nói hôm nay ở phố Đông có phiên chợ, muội mà đi muộn thì son phấn muội cần sẽ bán hết đấy.”

Minh Châu xấu hổ ngó quanh mới phát hiện người đi đường đều đang nhìn nàng và Vân Tương. May mà họ đều không quen Vân Tương, càng không biết thư sinh áo vải khuôn mặt nho nhã này chính là Thiên Môn công tử Tương đã chỉ huy Tiễu Oa Doanh giành đại thắng trận vừa rồi.

Phía trước chợt vang lên một tràng chiêng trống thu hút mọi người tới xem. Minh Châu tâm tính trẻ con, dĩ nhiên không bỏ qua náo nhiệt trước mắt, nàng kéo tay Vân Tương chen tới. Thì ra có hai hán tử mãi nghệ, một kẻ đang tuổi tráng niên, bộ dạng uy phong dũng mãnh, người còn lại tóc bạc trắng, trông ra tuổi kề hoa giáp* nhưng vẫn uy dũng như sư tử. Hán tử trung niên gõ một tràng chiêng dài, lôi kéo mọi người quây lại rồi mới ôm quyền nói: “Hai sư đồ tại hạ vì trong nhà gặp đại nạn, hết cách mới phải lên phía Bắc nhờ cậy thân thích. Ai ngờ giữa đường qua đất này thì lộ phí cạn sạch. Vì vậy đành dọc đường mãi nghệ, gom mượn chút lộ phí. Nghe nói Hàng Châu giàu có nhất Giang Nam, bách tính vui vẻ tích đức hành thiện, mong chư vị phụ lão hương thân ra tay trợ giúp, để hai sư đồ chúng ta vượt qua ải khó khăn này.”

Đám đông ồ lên nói: “Nếu là mãi nghệ thì giở thử mấy ngón nghề ra, chỉ cần hay chúng ta khắc sẽ thưởng tiền.”

Hán tử dường như không phải kẻ giang hồ chuyên mãi nghệ, ngoài cái chiêng đồng trong tay không hề còn thứ đạo cụ nào khác. Trong tiếng ồn ào của đám đông, y không nói nhiều lời, gác chiêng đồng sang bên, bái một vòng: “Tại hạ xin thi triển một bộ quyền pháp trước, chư vị xem vui thì vỗ tay tiện thưởng tiền lẻ, tại hạ xin đa tạ trước.”

Dứt lời, hán tử bắt đầu thi triển đánh quyền rít gió vù vù. Đám đông đều là kẻ ngoại đạo, không nhìn ra bộ quyền pháp có gì hay ho, thi nhau chê bai vô vị. Minh Châu cũng dè bỉu nói với Vân Tương: “Mãi nghệ kiểu này nghiệp dư quá, đến cả đập đầu vỡ gạch, phá đá trên ngực cũng không biết, thật chẳng có gì hay ho, chúng ta đi thôi.”

Vân Tương gật đầu, đang định bỏ đi cùng Minh Châu, hán tử thấy đám đông muốn giải tán, rối rít nói: “Mọi người đừng đi, lát nữa sư phụ ta còn trổ tài thi triển tuyệt học nhất lưu cho mọi người xem.”

“Tuyệt học gì?” Đám đông nhao nhao hỏi. Hán tử nói với vẻ đầy thành kính: “Tuyệt kỹ roi thần.”

“Xùy!” Đám đông chê bai không thèm đếm xỉa, nhốn nháo bỏ đi, chỉ có lác đác vài người nhàn nhã gắng gượng ở lại. Vân Tương thấy họ quả thực không giống người mãi nghệ, chắc hẳn gặp chuyện bất trắc mới sa vào cảnh ngộ này, bèn rút mấy miếng bạc vụn ra đưa cho hán tử, cười nói: “Ta thấy quyền pháp của ngươi không tệ, tuyệt kỹ roi thần cũng không cần phải xem nữa đâu.”

Hán tử vội vàng cảm tạ. Vân Tương nhét bạc vào tay y, toan cùng Minh Châu bỏ đi, chợt thấy lão già bước mau tới, cướp lấy bạc trong tay hán tử ném thẳng về phía chân Vân Tương, sau đó tát hán tử kia một cái, mắng: “Đồ không ra gì, chúng ta đang mãi nghệ chứ không phải ăn xin!”

Minh Châu thấy lão già mặt mày hung dữ, lại dám ném bạc vụn vào chân Vân Tương, nàng khó chịu quát: “Này! Chúng ta có lòng tốt cho ngươi bạc, lão không cần thì thôi, tại sao còn ném lại, ném vào công tử nhà ta ngươi cứ cẩn thận đấy!”

Lão già cười lạnh nói: “Lão phu tuy tuổi đã cao, nhưng tay ném vẫn còn chuẩn lắm. Mấy miếng bạc vụn kia cách chân ngọc của công tử đây tận mấy thốn, còn lâu mới đập vào chân y!”

Vân Tương thấy lão già tuy sa cơ lỡ vận nhưng thần thái vẫn cao ngạo, ánh mắt lại sắc bén, mấy miếng bạc tùy tiện ném ra thập phần chuẩn xác, hiển nhiên không phải đồng đạo Thiên Môn tầm thường chuyên mãi nghệ giang hồ. Gã vội chắp tay nói: “Sư đồ tiên sinh mãi nghệ trên đường, tại hạ y lời tặng thưởng, không biết chỗ nào đắc tội lại khiến tiên sinh không vui như vậy?”

Lão già khinh khỉnh hừ giọng: “Chúng ta mãi nghệ chứ không ăn xin, chút trò quèn của đồ đệ kém cỏi không đáng được công tử thưởng bạc.”

Vân Tương cười bảo: “Tại hạ đã thưởng bạc, tất nhiên sẽ không thu lại. Nếu tiên sinh cảm thấy quyền pháp của lệnh đồ không đáng thưởng bạc, chi bằng mời tiên sinh hiển lộ thân thủ để tại hạ mở mang tầm mắt.”

Lão già chậm rãi gật đầu, hiên ngang đáp: “Vậy công tử xem kỹ đây!” Dứt lời, lão giơ tay, trong không khí nghe đánh “chát” một cái, trong tay lão có thêm một sợi roi đen dài hơn trượng, sợi roi thon chỉ bằng đầu ngón tay, chúc xuống đất như con rắn dài rập rình muốn động.

Minh Châu thấy vậy vỗ tay cười nói: “Thì ra là hảo thủ dụng roi, mau đánh vài chiêu chúng ta xem!”

Lão già lạnh lùng hừ một tiếng: “Lão phu đã lộ thân thủ rồi, các người không nhìn thấy là vì mắt kém. Nếu lão phu không bị sa cơ thì ngọn roi này bình thường dễ gì trông thấy?” Nói đoạn, lão lắc tay một cái, sợi roi dài chui tọt vào ống tay áo như linh xà nhập động, chỉ chốc lát hai tay đã lại trống không.

Minh Châu đang lấy làm kỳ quái, chợt thấy Vân Tương mặt đầy kinh ngạc nhìn xuống đất. Minh Châu nhìn theo gã, thấy trên đất không biết từ lúc nào có một con ong mật đứt làm đôi. Con ong vẫn đang giãy giụa chưa chết hẳn. Minh Châu định hỏi rõ, đột nhiên phát hiện con ong bị đứt làm đôi này chính là con vừa nãy bay vòng vòng trên đầu nàng, cùng lúc với tiếng roi vừa rồi, hóa ra nó đã bị một roi của lão già chém thành hai mảnh.

Vân Tương thấy lão già xoay người bỏ đi, vội chắp tay hỏi: “Tiên sinh xuất roi như thần, quả thực tại hạ bình sinh hiếm gặp, không biết tôn tính đại danh của tiên sinh là gì?”

Lão già thoáng chần chừ, trầm giọng nói: “Lão phu Phong Lăng Vân.”

“Thì ra là Phong lão tiên sinh!” Vân Tương chạy lên mấy bước, khẩn khoản nói: “Tiểu sinh Vân Tương, không biết có thể mời lão tiên sinh uống một ly?”

Lão già vốn định bỏ đi, chợt nghe thấy tên Vân Tương thì lập tức quay đầu lại, kinh ngạc nhìn gã, ngạc nhiên hỏi: “Vân Tương? Có phải là công tử Tương đã chỉ huy Tiễu Oa Doanh đánh bại giặc Oa không?”

Vân Tương còn chưa trả lời, Minh Châu đã ra vẻ thần bí nhỏ giọng nói: “Ngài đừng có nói cho ai đấy!”

Lão già ngờ vực nhìn Vân Tương dò xét, chắp tay nói: “Nếu là công tử Tương mời, tại hạ nào dám không theo!”

Bốn người tới một tửu quán yên tĩnh, Vân Tương mời lão già thượng tọa, chắp tay hỏi: “Ta thấy Phong lão tiên sinh tướng mạo bất phàm, khí độ hiên ngang, rõ ràng không phải hạng tầm thường, không biết tại sao lại sa vào cảnh lưu lạc mãi nghệ trên phố thế này?”

“Ài! Đừng nhắc nữa!” Phong Lăng Vân thở dài, mắt rơm rớm lệ: “Tổ tịch lão phu ở Đài Châu Phúc Kiến, hồi trẻ được cao nhân truyền thụ, luyện thành tiên pháp, trên giang hồ tặng cho danh hiệu Tiên Thần. Sau này lão phu tuổi cao, bèn thoái ẩn giang hồ về làng chài ở Đài Châu ẩn cư, thu nhận một đệ tử ngốc nhưng đôn hậu thật thà, tên là Trương Bảo. Ngày ngày uống rượu câu cá, chơi đùa với con cháu, những ngày tháng ấy thật tiêu dao tự tại. Ai ngờ ngày nọ giặc Oa tới, máu rửa Đài Châu, làng chài nhỏ nơi lão phu ẩn cư cũng không tránh khỏi kiếp nạn. Tuy lão phu đã chỉ huy dân làng liều mạng chống cự, hiềm nỗi người ít không chống nổi địch đông, già trẻ trong nhà cùng nhiều dân làng đều đã bỏ mạng trong tay giặc Oa. Lão phu đã thề phải báo mối đại thù này, có điều một mình ta thân cô thế cô, nghe nói công tử Tương thống lĩnh Tiễu Oa Doanh đánh bại giặc Oa ở Hàng Châu, vì vậy lão phu liền đưa theo đệ tử tới đầu quân, ai ngờ Tiễu Oa Doanh chê lão phu tuổi cao, nhất quyết không chịu nhận, lão phu bực quá đành uất ức bỏ đi, vừa đúng lúc lộ phí hết, chỉ còn cách cùng đồ đệ học theo người ta mãi nghệ cầu sinh dọc đường, chẳng ngờ lại được gặp công tử.”

Vân Tương nghe vậy vui mừng khôn xiết, vội nói: “Tiễu Oa Doanh đang cần những cao thủ võ lâm như Phong lão tiên sinh và lệnh đồ đây, có thể được hai vị ra sức tương trợ là may mắn của Vân Tương, cũng là phúc của bách tính duyên hải! Xin cho tại hạ thay mặt Tiễu Oa Doanh lúc trước có mắt không tròng tạ lỗi với hai vị!” Dứt lời, gã đứng dậy vái dài, thái độ thành khẩn khác thường.

Phong Lăng Vân vội đỡ Vân Tương lên, cầm tay gã cảm động nói: “Lúc trước vị cô nương đây nói công tử là công tử Tương, lão phu còn chưa tin lắm, bây giờ đã hoàn toàn tin rồi. Cũng chỉ những người như công tử Tương mới có lòng cầu hiền như vậy. Lão phu tới nương nhờ lần này xem ra đã không tìm nhầm người.”

Hai người hành lễ lần nữa rồi lại ngồi xuống, lúc này chưởng quầy đã mang rượu thịt lên, cả hai cùng nâng chén uống vui vẻ, cùng đàm đạo về những tâm đắc và kinh nghiệm chống giặc Oa. Nói tới những tội ác mà giặc Oa đã gây ra, họ đều căm phẫn tột cùng, chỉ hận rằng không thể lập tức dẹp yên, giành lấy cuộc sống yên bình cho bách tính.

Rượu uống chưa tới ba tuần, chợt nghe tiếng ngựa gấp gáp phi tới. Người trên lưng ngựa từ xa đã trông thấy Vân Tương đang ngồi sát cửa sổ, đến trước tửu quán lập tức nhảy xuống ngựa, lao nhanh như gió vào trong sảnh, chắp tay chào Vân Tương, nói: “Công tử! Du tướng quân mời công tử lập tức trở về Tiễu Oa Doanh!”

“Có tin của kẻ địch phải không?” Vân Tương liền hỏi. Lính truyền tin đưa mắt nhìn sang Phong Lăng Vân ở bên, ngập ngừng không dám nói. Vân Tương thấy vậy bảo: “Ở đây không có người ngoài, ngươi cứ việc nói đi.”

Người truyền tin vội báo: “Tri phủ Kim Hoa vừa đưa mấy nữ nhân tới, họ tự xưng là dân nữ nhà chài bị Đông Hương Bình Dã Lang bắt tới hải đảo, nay may mắn trốn được về.”

Vân Tương nghe vậy cả kinh, lập tức đứng bật dậy: “Đi mau! Ta phải đích thân đi gặp mấy người ấy!”

Trong đại trướng trung quân Tiễu Oa Doanh, Du Trọng Sơn đang sốt ruột đi đi lại lại, thấy Vân Tương bước vào, y vội lên trước đón, gấp gáp nói: “Vừa rồi ta đã hỏi qua ba nữ nhân đó, quả thực là nữ tử nhà chài bị Đông Hương Bình Dã Lang bắt đi. Hiện giờ ta đang để đại phu trị thương cho họ, đồng thời phái người về quê họ điều tra gốc gác, sớm mai sẽ có tin báo. Ngươi thấy thế nào?”

Vân Tương trầm ngâm nói: “Ta muốn đích thân hỏi họ, nếu họ quả thực trốn về từ sào huyệt của Đông Hương Bình Dã Lang thì chắc chắn có thể cho chúng ta một số tin hữu ích.”

“Vậy để ta sai người truyền họ tới!” Du Trọng Sơn đang định hạ lệnh, Vân Tương vội nói: “Hay là để ta đi thăm họ, họ đã phải chịu đủ giày vò, trị thương quan trọng hơn.”

Vân Tương được người lính truyền tin đưa tới y quán phía sau doanh quân, rốt cuộc đã gặp ba thiếu nữ nhà chài đang trong tình trạng suy kiệt, thương tích khắp người ở đó.

Ba người thấy thái độ quân sĩ với Vân Tương, đoán gã là quản sự trong quân bèn trở người dậy quỳ xuống, nấc nghẹn nói: “Công tử, xin hãy mau cứu tỷ muội của chúng tôi!”

Vân Tương ra hiệu cho đại phu đỡ họ lên giường nằm, sau mới hỏi: “Chuyện thế nào? Từ từ nói.”

Qua lời kể đứt đoạn của ba người, Vân Tương lúc này mới biết, họ vốn là nữ tử cùng thôn, sau bị giặc Oa bắt tới hải đảo cách xa lục địa, chịu đủ đày đọa giày vò. Trên đảo vẫn còn hơn nghìn nữ tử khác cùng cảnh ngộ, hòn đảo đó rõ ràng là sào huyệt quan trọng của giặc Oa, và thủ lĩnh của đám giặc này chính là Đông Hương Bình Dã Lang.

Về sau, mấy nữ tử cùng thôn bọn họ bị giam giữ trên đảo lâu ngày, nhân lúc giặc Oa trông coi lỏng lẻo đã lén trộm một chiếc thuyền nhỏ chạy trốn khỏi đảo hoang, nhưng lại bị chiến thuyền của giặc Oa truy kích, thuyền nhỏ bị hỏa pháo đánh chìm, ngoài ba người may mắn sống sót, những tỷ muội cùng bỏ trốn khác đều đã vùi thây dưới đáy biển. Ba người lênh đênh trên biển một ngày một đêm mới được ngư dân cứu vớt, đưa tới châu phủ gần nhất, rồi được quan địa phương dẫn đến Tiễu Oa Doanh.

Một nữ tử trong số họ vừa khóc vừa lạy rằng: “Xin công tử mau phát binh cứu những tỷ muội khác trên đảo, chúng tôi vẫn còn nhớ vị trí của đảo ấy, chúng tôi bằng lòng dẫn đường cho đại quân!”

Vân Tương gật đầu hỏi kỹ vị trí, địa hình của hòn đảo và quân số giặc Oa, cuối cùng nói: “Các người cố gắng vẽ chi tiết được địa hình của đảo, ta nhất định sẽ nghĩ cách cứu tỷ muội của mọi người.”

Vân Tương vội vã trở về trướng trung quân, nói với Du Trọng Sơn: “Xin tướng quân lập tức triệu tập tướng sĩ Tiễu Oa Doanh, chúng ta phải mau chóng phát binh ra biển.”

Du Trọng Sơn vuốt râu trầm ngâm: “Tiễu Oa Doanh chỉ có sáu nghìn người, từ bỏ sở trường chiến đấu trên lưng ngựa để điều quân viễn chinh hoang đảo, thế là sẽ mất cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa, có mạo hiểm quá không? Ta đã phái người hỏa tốc xin chỉ thị bộ Binh, để quân Du gia và Tiễu Oa Doanh cùng xuất binh viễn chinh. Tin hồi đáp của bộ Binh sẽ nhanh chóng về tới, đợi thêm đi.”

“Không kịp nữa rồi!” Vân Tương than: “Đợi lệnh của bộ Binh tới nhanh nhất cũng phải nửa tháng sau. Nửa tháng đủ để Đông Hương Bình Dã Lang di chuyển toàn bộ nữ nhân và của cải đi nơi khác, lúc đó muốn tìm được sào huyệt của y trên biển cả mênh mông đúng là khó càng thêm khó.”

Du Trọng Sơn nghĩ ngợi hồi lâu, sau cùng vẫn lắc đầu: “Chỉ có sáu nghìn tướng sĩ Tiễu Oa Doanh viễn chinh ra biển quá mạo hiểm. Tuy thủ hạ của Đông Hương hiện tại chỉ còn hơn năm nghìn người, nhưng Tiễu Oa Doanh không thiện thủy chiến, vừa không thông thuộc địa hình lại chẳng có viện quân, lỡ như Đông Hương tập hợp được mấy cánh quân giặc Oa khác mai phục trên biển thì Tiễu Oa Doanh sẽ chịu thiệt lớn!”

Vân Tương nghiêm sắc mặt chắp tay nói với Du Trọng Sơn: “Phải chăng tướng quân không có lòng tin với Vân Tương?”

Du Trọng Sơn thấy Vân Tương nói năng nghiêm nghị, vội xua tay đáp: “Tuy ngươi không xuất thân gia binh, nhưng từ lúc cầm binh tới nay đã thể hiện tài thao lược hơn người, có thể nói là Võ hầu tái thế. Có điều lần viễn chinh này liên quan tới tính mạng của sáu nghìn tướng sĩ Tiễu Oa Doanh, bản tướng quân không thể không cân nhắc nặng nhẹ.”

Vân Tương nhìn thẳng vào mắt Du Trọng Sơn, ung dung nói: “Sự lo lắng của Du tướng quân ta cũng đã nghĩ tới, nếu tướng quân vẫn có lòng tin với ta, xin hãy lập tức triệu tập tướng sĩ Tiễu Oa Doanh, chuẩn bị viễn chinh ra biển trong vòng ba ngày tới.”

Thái độ ung dung điềm tĩnh của Vân Tương khiến Du Trọng Sơn lấy lại được niềm tin, y cười nói: “Được! Bản tướng quân lại tin ngươi thêm lần nữa, nhưng lần viễn chinh này, ta phải đích thân dẫn quân.”

“Không được!” Vân Tương vội nói: “Viễn chinh lần này tuy ta đã có tính toán, nhưng vẫn không dám vỗ ngực nắm chắc phần thắng. Ta đang đặt một ván cược lớn được ăn cả ngã về không với Đông Hương Bình Dã Lang, tướng quân có liên quan tới an nguy của hai tỉnh Giang Triết, quả thực không thể mạo hiểm lần này. Nếu tướng quân có lòng tin với ta, xin hãy ban cho ta bảo đao và lệnh tiễn để ta hiệu lệnh toàn quân. Nếu ta không may thua trận, có tướng quân trấn thủ Hàng Châu, giặc Oa vẫn sẽ không dám xấc láo!”

Du Trọng Sơn nhìn chằm chằm vào mắt Vân Tương, trầm giọng hỏi: “Ngươi có lòng tin một mình dẫn Tiễu Oa Doanh chiến đấu với Đông Hương Bình Dã Lang?”

Vân Tương gật đầu: “Ta có lòng tin, tuy không dám chắc mười phần, nhưng trận chiến này ta cũng đã nắm được chín phần thắng. Với một lão thiên thì tỷ lệ thắng như vậy đã là cực cao rồi, có thể liều một ván!”

Du Trọng Sơn trầm ngâm mãi, sau cùng thở dài: “Tuy ta hoàn toàn tin tưởng ngươi, nhưng trận chiến này theo ta thấy phần thắng không lớn. Ta muốn suy diễn chiến thuật trên hải đồ với ngươi, ta sẽ là Đông Hương, ngươi dẫn quân tấn công ta. Nếu đến việc bàn binh trên giấy ngươi cũng không thể thuyết phục ta, ta thực không dám giao vận mệnh của cả Tiễu Oa Doanh vào tay ngươi.”

Vân Tương gật đầu tỏ ý hiểu: “Ta bằng lòng cùng tướng quân suy diễn và tính toán các phương diện trên hải đồ, nếu ta không thể thuyết phục tướng quân, cũng không dám mang tính mạng sáu nghìn tướng sĩ Tiễu Oa Doanh đi mạo hiểm.”

“Mời!” Du Trọng Sơn bèn đưa Vân Tương vào trướng nhỏ phía sau đại trướng trung quân. Nơi đó có sa bàn và hải đồ, có thể tiến hành suy diễn chiến thuật từ đó tính toán phần thắng và các tình huống bất ngờ. Mấy thiên hộ của Tiễu Oa Doanh sốt ruột chờ đợi bên ngoài xem kết quả cuối cùng giữa Du tướng quân và công tử Tương. Lần đánh trận giả này kéo dài hơn nửa ngày trời, tới lúc hoàng hôn hai người mới bước ra khỏi trướng. Du Trọng Sơn đã rũ sạch mọi hoài nghi và do dự lúc trước, lớn tiếng ra lệnh cho phó tướng Trương Vũ Nhiên: “Mau triệu tập binh tướng Tiễu Oa Doanh trở về, chuẩn bị trong vòng ba ngày viễn chinh ra biển.”

Trương Vũ Nhiên vội dạ ran lui xuống, Vân Tương cũng chắp tay nói: “Mọi chuyện ở đây phải nhờ tướng quân rồi, Vân Tương tạm thời cáo lui, ba ngày sau sẽ dẫn quân viễn chinh.”

Du Trọng Sơn đích thân tiễn Vần Tương ra khỏi đại trướng trung quân. Bên ngoài trướng, y nắm chặt tay Vân Tương, nói: “Nếu trận chiến lần này thuận lợi thì có thể một đòn trừ khử cánh quân lớn nhất của giặc Oa, ngày dẹp yên nạn hải tặc trên biển chẳng còn bao xa; nhưng nếu có bất cứ sai sót và bất trắc gì, toàn bộ Tiễu Oa Doanh sẽ bị diệt. Tiễu Oa Doanh không còn vẫn có thể xây dựng lại, nhưng nếu công tử có mệnh hệ gì, bản tướng quân sẽ như mất đi túi khôn, quân đội Đại Minh cũng sẽ mất đi một thiên tài quân sự có thể lưu danh sử sách.” Nói tới đây, giọng y bắt đầu trầm xuống.

Vân Tương mỉm cười nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chỉ cần chúng ta dốc hết sức thì không thẹn với lòng, cần gì phải quá xem trọng thắng bại sống chết?”

“Đúng đúng đúng!” Du Trọng Sơn cười tươi nói: “Công tử sắp xuất chinh, bản tướng quân thực không nên nói lời không may. Đợi ngày khải hoàn của công tử, bản tướng quân sẽ bày rượu bồi tội với ngươi.”

Vân Tương không nói thêm lời, chắp tay cáo biệt Du Trọng Sơn rồi nhảy lên ngựa, quất roi phóng đi. Du Trọng Sơn nhìn theo bóng dáng gã xa dần, mãi vẫn không rời mắt.

Giang Nam ngay phía trước, Thư Á Nam càng lúc càng thấp thỏm bất an, nàng không biết khi mình đột ngột xuất hiện trước mặt Vân Tương thì sẽ thế nào, Minh Châu liệu sẽ bị tổn thương ra sao. Trong lòng nàng chỉ có một tâm niệm, đó là tìm được cha của đứa bé trong bụng, nó không thể vừa sinh ra đã không có cha!

Nàng biết tên sói dữ vẫn đang đuổi sát sau lưng mình, tuy dọc đường nàng đã nghĩ đủ mọi cách nhưng vẫn không thể cắt đuôi được y. Hiện giờ, sắp được gặp Vân Tương, nàng bắt buộc phải nhanh chóng xử lý cái đuôi đáng ghét ấy.

Trong lúc hết cách, Thư Á Nam chợt nhớ ra một ký hiệu từng trông thấy, ký hiệu ngọn lửa và đầu lâu. Nàng biết tai mắt của Ma Môn ở khắp nơi, nên hy vọng ký hiệu này có thể giúp mình chặn được Ba Triết. Bởi vậy, ba ngày trước Thư Á Nam đã để lại những hình vẽ ngọn lửa đầu lâu dọc dường, nàng tin ít nhất một trong số đó sẽ được tai mắt Ma Môn phát hiện. Thư Á Nam mong có thể dụ người của Ma Môn tới, lúc đó Ba Triết sẽ khó mà thoát thân.

Đứng vào lúc Thư Á Nam đang gần như tuyệt vọng, nàng trông thấy người trẻ tuổi bận áo trắng muốt, mặt mũi tuấn tú, tuổi trạc đôi mươi, ánh mắt luôn điềm đạm ung dung nhìn thấu tất cả đó. Bấy giờ y đang ngồi trong quán rượu bên đường chậm rãi ăn màn thầu, ngón tay trắng như ngọc cẩn thận xé bánh rồi từ tốn đưa vào khuôn miệng môi đỏ răng trắng, cử chỉ toát ra vẻ nho nhã không lời nào diễn tả. Lần đầu tiên Thư Á Nam nhìn thấy một người ăn màn thầu lại có thể đẹp mắt đến vậy.

“Cô nương đường xa bụi bặm, sao không xuống ngựa nghỉ ngơi chốc lát?” Thư Á Nam đang lưỡng lự có nên dừng chân nghỉ tạm ở đây hay không, người trẻ tuổi đột nhiên mỉm cười nhìn nàng, bộ dạng tự nhiên như bằng hữu lâu ngày. Thư Á Nam lập tức xuống ngựa, gọi tiểu nhị đang chạy tới đón: “Một cân thịt bò, mười cái màn thầu, nhanh lên!” Nàng đã nhìn thấy hình ngọn lửa thêu trong vạt áo của y, là y cố tình để lộ ra.

Người trẻ tuổi chỉnh lại y phục, giấu hình thêu vào trong vạt áo, sau đó nhìn Thư Á Nam, dửng dưng hỏi: “Ngươi là môn hạ của trưởng lão nào? Gặp chuyện gấp gì mà phải để lộ hành tung của mình như vậy?”

Thư Á Nam thản nhiên nhìn vào mắt y, hỏi ngược lại: “Còn ngươi là ai?”

Người trẻ tuổi cười nhạt, buông gọn hai chữ: “Minh Nguyệt.” Dường như hai chữ này đủ để nói rõ tất cả.

Nghe tên sao mà giống ca ca của Minh Châu. Thư Á Nam bấm bụng cười thầm, mặt thản nhiên như không, hấp tấp nói: “Có một người Ngõa Thích đang truy sát ta! Hắn giết sứ giả của môn chủ.”

Minh Nguyệt cau mày: “Chuyện thế nào? Sứ giả gì?” Thư Á Nam vội đáp: “Môn chủ phái sứ giả đi Ngõa Thích, để kết minh, ai ngờ nội bộ Ngõa Thích mâu thuẫn, có người phái sát thủ đi giết sứ giả để phá chuyện liên minh, bị ta bắt gặp, người đó muốn giết ta diệt khẩu, vì vậy ta đành chạy trốn, ai ngờ sát thủ truy đuổi gắt gao, ta trốn tới đây vẫn không thoát khỏi y.”

Thư Á Nam nửa thật nửa giả thuật lại sự tình khiến Minh Nguyệt không thể phân biệt thực hư. Y toan hỏi kỹ, Thư Á Nam lại hoảng hốt nói: “Ở đây chỉ có một mình ngươi sao? Mau gọi thêm người tới giúp, tên đó hung dữ lắm!”

Minh Nguyệt phì cười: “Có một mình ta là đủ rồi, ngươi không cần phải lo.” Lời vừa dứt, y đã trông thấy một hán tử dị tộc đi tới, ánh mắt lấp láy hung quang như loài sói.

“Là ngươi đã giết sứ giả của Ma Môn ta?” Minh Nguyệt chặn trước mặt Thư Á Nam, lãnh đạm hỏi. Ba Triết sững người, trợn mặt đáp: “Không sai! Vậy thì sao?”

“Vậy thì ngươi chết chắc rồi!” Nói đoạn, Minh Nguyệt tiến về phía Ba Triết, bước chân tuy chậm nhưng di chuyển cực nhanh, chớp mắt đã tới trước mặt Ba Triết, một tay túm lấy ngực áo của y. Thân hình nhẹ bẫng, thủ pháp nhanh gọn của Minh Nguyệt đã vượt quá sức tưởng tượng của Ba Triết, y khẽ quát một tiếng, loan đao giận dữ vung ra, bất chấp bàn tay đang đánh tới mình, y chém thẳng đao vào gáy đối thủ, chấp nhận lưỡng bại câu thương để giành lại thế chủ động.

Minh Nguyệt không ngờ Ba Triết dũng mãnh như vậy, y lắc người nhẹ nhàng né ra, tiếp đó lại nhanh như cắt áp sát Ba Triết từ cánh hông, thân hình y cơ hồ đã biến thành một bóng trắng thực ảo khó phân, khiến người khác hoa mày chóng mặt.

Ba Triết nổi giận gầm lên như sói tru, đao quang vung như điện đúng, bộ dạng chẳng khác nào sói dữ, nhưng từ đầu đến cuối đều không thể chạm nổi vào một góc áo của Minh Nguyệt. Chỉ thấy bóng hình Minh Nguyệt mờ ảo tự do di động trong ánh đao lấp loáng tứ phía, phong thái phiêu linh như điệp vũ tiên phi khiến lòng người mê đắm.

Thư Á Nam định bụng nhân lúc hai người động thủ lén trốn đi xa, song nàng lại bị thân thủ của Minh Nguyệt thu hút. Nàng hành tẩu giang hồ nhiều năm, đã từng thấy nhiều loại võ công, nhưng chưa từng thấy một loại võ công nào đẹp mắt tới vậy. Bóng hình ấy mờ mờ ảo ảo, không hề toát lên vẻ tà ác như người trong Ma Môn, chỉ có sự phiêu dật thoát tục của đệ tử tiên gia.

Nàng lại thấy ánh đao của Ba Triết buốt lạnh đến rùng mình, Thư Á Nam bất giác lo thay cho Minh Nguyệt, không biết vì cái tên hay vì phong độ của y khiến nàng cũng có mấy phần thiện cảm, không mong y trở thành oan hồn dưới đao của Ba Triết. Nhưng xem được một lát, thấy đao của Ba Triết tuy quyết liệt vẫn không thể chạm nổi vạt áo của Minh Nguyệt, Thư Á Nam cũng yên lòng phần nào. Thấy Minh Nguyệt có vẻ chiếm thượng phong, nàng không ở lại thêm, lập tức mang theo màn thầu và thịt bò, nhảy lên ngựa tiếp tục hành trình.

Bóng dáng hai kẻ quyết đấu dính vào nhau mãi cũng tách ra, Minh Nguyệt vẫn ung dung chắp tay sau lưng, nở nụ cười. Ba Triết cả kinh nhìn đối thủ, trầm giọng hỏi: “Thân thủ của ngươi chắc chắn không phải hạng tầm thường ở Trung Nguyên, xin để lại danh tính!”

Minh Nguyệt cười nhạt: “Vãn bối học còn nông cạn, không dám xưng tên. Nhưng đao pháp hung hãn của các hạ khiến ta nhớ đến lời đồn về một hung nhân Ngõa Thích.”

Ba Triết tự biết võ công không thắng nổi người trẻ tuổi này, nhưng đối phương muốn giết mình cũng không dễ gì, chỉ sợ y còn có đồng bọn. Nghĩ vậy Ba Triết hằn học nhìn Minh Nguyệt rồi lập tức giật lùi biến mất. Y giống như con sói, một khi phát hiện đối thủ quá mạnh sẽ rút lui khỏi chiến trường không chút do dự.

Minh Nguyệt nhìn theo bóng Ba Triết biến mất sau khu rừng bên đường, lúc này mới nhìn theo hướng Thư Á Nam bỏ đi, trong ánh mắt thoát tục siêu nhiên phát ra tia sáng dị thường.

Ba ngày sau, tất cả chiến thuyền của Tiễu Oa Doanh nhân lúc đêm tối lặng lẽ xuất phát, hướng về biển lớn mênh mông không biết bến bờ. Các chiến thuyền vừa rời cảng không lâu, con bồ câu đưa thư trong tay một hắc y nhân luôn bí mật theo dõi động tĩnh ở cảng cũng bay đi. Chim bồ câu vượt qua mũi thuyền của Tiễu Oa Doanh, bay về hoang đảo vô danh nằm trơ trọi ngoài biển.

Ánh mặt trời dần nhô lên nhuộm mặt biển thành một màu đỏ máu, càng tăng thêm không khí sặc mùi chém giết. Vân Tương chắp tay sau lưng, đứng ở đầu thuyền nhìn xa xăm, không còn bóng dáng vịnh Hàng Châu, phía trước chỉ thấy trời nối tiếp biển, vầng dương vĩ đại đang từ từ nhô lên trên mặt nước.

Bên cạnh Vân Tương, ngoài Tiêu Bá còn có thêm một lão già tóc trắng uy mãnh như sư tử, Tiên Thần Phong Lăng Vân. Sau khi gặp Vân Tương trên phố Hàng Châu, lão đã bị khuất phục bởi phong thái của gã, nguyện một lòng đi theo Vân Tương để đời món nợ máu với giặc Oa, báo mối thù hủy nhà diệt thôn.

Ba thiếu nữ nhà chài cũng được Vân Tương mời lên đầu thuyền, dựa vào trí nhớ chỉ rõ phương hướng cho chiến thuyền. Ba nàng từ nhỏ đã lênh đênh trên biển, biển lớn mênh mông vô bờ với người thường, nhưng trong mắt họ lại có những ký hiệu chỉ lối rõ ràng. Được ba nàng dẫn đường, đội thuyền không ngừng nghỉ tiến về mục tiêu dự định.

Bảy ngày sau, một hòn đảo thấp thoáng hiện ra ở cuối đường chân trời. Ba thiếu nữ nhà chài phấn khích chỉ về phía đảo hô lớn: “Ở đó! Ở đó kìa! Chính là sào huyệt của giặc Oa!”

Vân Tương bước lên tầng cao nhất của chiến thuyền, cúi nhìn các tướng sĩ hừng hực khí thế bên dưới, nói: “Sào huyệt của giặc Oa ở phía trước, ta nhắc lại quân kỷ thêm một lần cuối: không được tư lợi một đồng một cắc nào trên đảo, không được xâm phạm bất cứ nữ nhân nào trên đảo, kẻ trái lệnh chém!” Thấy các tướng sĩ ứng tiếng hô lớn, gã chỉ tay về phía trước: “Chiến thuyền chia làm hai đội tả hữu, từ hai cánh bao vây trọn hải đảo, nhất định không được để tên giặc Oa nào chạy thoát!”

Kỳ binh lập tức truyền đạt mệnh lệnh của Vân Tương cho tất cả chiến thuyền. Dưới cờ lệnh chỉ huy, mấy chục chiến thuyền dần tách làm hai đội, cưỡi gió đạp sóng lao về phía hoang đảo vô danh.

Hai canh giờ sau, tất cả chiến thuyền đã đến đích, bao vây trọn hòn đảo. Trong vịnh biển ngoài thuyền nhỏ thưa thớt không hề thấy bóng dáng đội thuyền lớn nào của giặc Oa. Chúng tướng cảm thấy kỳ lạ, nhưng lúc này Tiễu Oa Doanh đã như mũi tên lắp trên nỏ, không thể không bắn. Vân Tương hạ lệnh, mấy chục chiến thuyền lập tức bắn pháo vào đảo, các công trình thô sơ của giặc Oa trên đảo mau chóng tan thành tro bụi trong làn khói. Vân Tương thấy giặc Oa chống cự không quyết liệt bèn hạ lệnh lên bờ.

“Ngưu Bưu dẫn doanh một lên bờ trước, tấn công thẳng vào trung tâm đảo! Doanh bảy theo sát phía sau!” Phó tướng trên cột thuyền quan sát chiến cục, đồng thời báo cáo kịp thời tình hình chiến trường cho Vân Tương. Nghe giọng y đầy phần khích và vui mừng cũng đủ biết chiến cục tiến triển thuận lợi hơn dự tính: “Doanh một đã chiếm lĩnh điểm cao nhất trên đảo, đang phát tín hiệu cho chúng ta… Tất cả thuận lợi, trung quân có thể lên bờ.”

Doanh một của Ngưu Bưu và doanh bảy của Triệu Văn Hổ ban đầu là tinh binh trong quân Du gia, khi Du Trọng Sơn phụng lệnh thành lập Tiễu Oa Doanh đã đặc biệt cắt hai nhánh quân này sang. Trong hai lần đại chiến giữa Tiễu Oa Doanh với Đông Hương Bình Dã Lang, doanh một và doanh bảy đều lập được chiến công hiển hách, không phụ lòng kỳ vọng của Du Trọng Sơn. Thấy doanh một của Ngưu Bưu đã chiếm lĩnh đỉnh cao nhất của đảo, Vân Tương cũng hết sức phấn khởi, lập tức hạ lệnh: “Trung quân lên bờ, lục soát toàn bộ đảo, quyết không để sót một tên giặc Oa nào. Thủy quân đưa chiến thuyền vào vịnh, đợi lệnh tại chỗ.”

Chiến thuyền chậm rãi cập bờ, Vân Tương được trung quân bảo vệ bước lên hòn đảo vô danh. Thiên hộ Mạnh Trường Viễn của Tiễu Oa Doanh chỉ huy tấn công đảo lần này vội vã chạy tới bẩm báo: “Vân công tử, chúng ta đã chiếm lĩnh toàn bộ đảo, không gặp mấy chống cự. Có vẻ bọn chúng đã ra biển, trên đảo chỉ còn lại hai, ba trăm tên lính già yếu bệnh tật, tất cả đã bị chúng ta diệt sạch.”

Trống không! Các tướng vô cùng kinh ngạc, lòng mơ hồ thấy bất an. Vân Tương cũng lộ sắc mặt nặng nề, chậm rãi gật đầu nói: “Ta biết rồi. Trung quân lập tức phong tỏa tất cả của cải trên đảo, tập trung các nữ nhân tại nơi an toàn trông coi, các doanh còn lại lập tức chặt cây lập trại, xây dựng doanh trại phòng ngự ở nơi cao nguồn nước dồi dào và những nơi hiểm yếu, bắt buộc phải xây xong doanh trại kiên cố nhất trước khi mặt trời lặn!”

Các tướng lộ vẻ hồ nghi, Mạnh Trường Viễn liền hỏi: “Chúng ta còn phải ở trên đảo này bao lâu? Tại sao phải dựng trại ở hoang đảo này? Các tướng sĩ vừa trải qua đại chiến, có phải nên nghỉ ngơi một ngày rồi làm không?”

Vân Tương phật ý trợn mắt nhìn Mạnh Trường Viễn, trầm giọng nói: “Ta nói là lập tức! Trước lúc mặt trời lặn chưa xây xong doanh trại, ngươi xách đầu tới gặp ta!”

Mạnh Trường Viễn ngây người, không dám hỏi thêm, lập tức chắp tay cáo lui, mau chóng đi chỉ huy quân sĩ chặt cây dựng trại. Vân Tương chậm rãi đi dọc theo con đường nhỏ trên đảo, thấy những công trình bằng đất và gỗ thô sơ đã bị phá hủy gần hết. Đang đi, chợt gã nghe thấy tiếng la hét khóc lóc của nữ nhân vẳng ra từ một gian nhà gỗ, Vân Tương bèn ra hiệu cho thiên hộ Lý Hàn Quang thuộc trung quân qua đó xem.

Lý Hàn Quang lập tức dẫn theo mấy lính đạp cửa xông vào, lát sau dẫn ra một tướng để mình trần. Người này râu ria xồm xoàm, cơ thịt rắn chắc như trâu, thấy Vân Tương bèn nở nụ cười xu nịnh, khom người vái: “Mạt tướng bái kiến công tử.”

Vân Tương nhìn vào trong nhà, thấy một nữ thân đang co người trong chăn khóc thút thít, gã tức đến nỗi mặt đỏ phừng phừng, giật giọng quát lớn: “Người đâu! Bắt lấy Ngưu Bưu!”

Ngưu Bưu chưa từng thấy Vân Tương nổi giận như vậy, vội lắp bắp giải thích: “Công tử… công tử hiểu lầm rồi. Ngưu Bưu ta có bừa bãi tới đâu cũng không dám làm hại tỷ muội đồng bào mình. Đó là nữ nhân người Oa, công tử chớ lấy làm lạ.”

Một binh sĩ dẫn nữ nhân ấy ra, quả nhiên là người Oa. Các tướng thở phào, mắng Ngưu Bưu tới tấp: “Đúng là cái tên không hiểu chuyện, bây giờ là lúc nào còn có tâm tư tác chiến với nữ nhân, không mau xin lỗi công tử rồi mặc lại y phục cuốn xéo đi!”

Ngưu Bưu hậm hực chắp tay với Vân Tương, toan quay người bỏ đi, chợt nghe Vân Tương lớn tiếng quát thiên hộ Lý Hàn Quang: “Lý thiên hộ! Còn không bắt Ngưu Bưu lại, lẽ nào ngươi định kháng lệnh?”

Lý Hàn Quang thấy hai mắt Vân Tương trợn trừng như muốn giết người, đành sai quân sĩ bắt Ngưu Bưu lại. Ngưu Bưu bất mãn gào lên với Vân Tương: “Vân công tử, lão Ngưu ta luôn kính trọng ngươi chẳng khác nào Du tướng quân, nhưng chuyện hôm nay ngươi quả thực bé xé ra to rồi đấy. Nghĩ xem giặc Oa đã cưỡng hiếp bao nhiêu tỷ muội chúng ta, lão Ngưu ta có động tới một nữ nhân người Oa cũng có gì to tát? Dù Du tướng quân ở đây cũng sẽ mắt nhắm mắt mở cho qua, có cần ngươi phải làm lớn chuyện như vậy không?”

Vân Tương nhìn Ngưu Bưu, đột nhiên chảy hai dòng lệ, đau đớn than: “Ngưu Bưu ơi là Ngưu Bưu! Trước khi lên bờ ta đã nhấn mạnh: không được tư lợi một đồng một cắc nào trên đảo, không được xâm phạm bất cứ nữ nhân nào trên đảo, kẻ trái lệnh chém! Tại sao ngươi lại không để tâm chứ?” Vân Tương chỉ quanh tứ phía: “Trên đảo này đâu đâu cũng thấy kim ngân châu báu, khắp nơi là mỹ tửu nữ nhân, một khi có người vi phạm quân luật mà không bị truy cứu, Tiễu Oa Doanh sẽ lập tức tản mác bất tuân. Hiện giờ chúng ta quân cô thế cô ngoài biển, quân kỷ chính là sinh mạng, nếu ta không giết ngươi thì sẽ hại sáu nghìn tướng sĩ toàn quân.” Nói tới đây, gã lại quát lớn: “Người đâu! Lôi Ngưu Bưu ra chém đầu thị chúng!”

Chúng tướng đưa mắt nhìn nhau, thiên hộ trung quân Lý Hàn Quang vội nhỏ giọng nói: “Công tử, Ngưu Bưu là ái tướng của Du tướng quân, có phải nên…”

Chưa nói hết câu, chợt nghe có tiếng kiếm ngân lên, có người đã rút kiếm đâm thẳng vào tim Ngưu Bưu từ phía sau. Mọi người quay đầu lại nhìn, thì ra là điểm quân Triệu Văn Hổ của doanh bảy. Y tra kiếm vào vỏ như không có chuyện gì, chắp tay nói với các tướng: “Vân công tử nói không sai, hiện giờ quân kỷ chính là sinh mạng của Tiễu Oa Doanh, nếu giết một Ngưu Bưu có thể khiến quân kỷ nghiêm minh thì mạt tướng nguyện làm kẻ ác!”

“Giết hay lắm! Giết hay lắm!” Vân Tương nước mắt tuôn trào, quay người lấy bội đao của Du Trọng Sơn trong tay Tiêu bá trao cho Triệu Văn Hổ: “Lập tức mang đầu Ngưu Bưu thị chúng, đồng thời thay ta giám sát toàn quân, bất cứ kẻ nào làm trái quân kỷ, giết không tha!”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3