Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 44

NGOẠI TRUYỆN

Tương Kế Tựu Kế

1

Cảnh

báo

Tề Tiểu Sơn tuy đã sức cùng lực kiệt nhưng vẫn ra sức chạy trốn. Dọc đường y cũng nhanh trí bắt chước loài hồ ly bày ra bảy, tám bẫy mê hồn trận, thế nhưng những kẻ đuổi theo y đều là những tay thợ săn lão luyện, họ nhìn ra bẫy của Tề Tiểu Sơn dễ như bỡn, dần dần đuổi tới gần, chỉ còn cách y chưa đầy nửa dặm, đây đã là khoảng cách không thể trốn thoát.

Sắp rồi sắp rồi! Tề Tiểu Sơn không ngừng khích lệ bản thân, đích đến đã trong tầm mắt.

Phía trước là tòa Vọng Nguyệt Lâu cao ba tầng, Tề Tiểu Sơn biết, cứ chiều ngày này hằng tháng, người ấy đều sẽ đến Mẫu Đơn Các trên tầng ba Vọng Nguyệt Lâu gặp khách hàng đang khổ sở chờ đợi. Chỉ cần gặp được người ấy, để chuyển lời cảnh báo này đến công tử Tương thì dù bị mấy kẻ truy sát giết ngay tại chỗ, y chết cũng không còn gì hối tiếc!

Vọng Nguyệt Lâu đã gần ngay trước mắt, Tề Tiểu Sơn thậm chí đã có thể nhìn thấy bóng người mờ mờ sau cửa sổ mở toang của Mẫu Đơn Các trên tầng ba. Y thầm thở phào: “Vũ Thần phù hộ, xem như con có thể đưa lời cảnh báo này tới nơi rồi!”

Đột nhiên, ở đầu ngã tư phía trước Vọng Nguyệt Lâu vụt hiện một bóng người khom lưng ôm trường kiếm, giống như chiếc bóng dán chặt chân tường. Từ xa y đã toát ra một luồng khí chết chóc sặc sụa, tạo áp lực vô hình lên người khác. Tề Tiểu Sơn lập tức cảm thấy toàn thân buốt lạnh, tuy mới lần đầu gặp kẻ đó, nhưng y nhanh chóng đoán ra, chỉ có Ảnh Sát, cao thủ tuyệt đỉnh của Ảnh Sát Đường giết người một cách vô hình mới toát ra luồng khí âm lạnh như tử thần này! Kẻ đó đang thong dong đứng chặn ngay lối vào Vọng Nguyệt Lâu, dõi theo Tề Tiểu Sơn đang lao tới bằng ánh mắt châm chọc.

Tề Tiểu Sơn vội dừng bước, gấp rút nhìn quanh tứ phía, mong mỏi có thể tìm thấy một con đường khác nhưng thất bại. Muốn tiếp cận Vọng Nguyệt Lâu bắt buộc phải xông qua rào cản của gã sát thủ kia. Không chỉ như vậy, những kẻ truy đuổi cũng chỉ còn cách y mấy chục trượng, hiện tại, y thậm chí không còn cơ hội để thoát thân.

Hai đầu còn lại của ngã tư cũng có người chầm chậm áp sát, thần thái cử chỉ bộc lộ tố chất chuyên nghiệp cực cao. Nếu không phải úy kỵ nơi đây là con phố sầm uất náo nhiệt thì e rằng họ đã động thủ từ lâu. Tề Tiểu Sơn không cam lòng nhìn về ô cửa sổ ở ngay đó, chỉ còn chưa đầy hai mươi trượng, vậy mà hai mươi trượng này lại trở thành con hào không thể vượt qua. “Vũ Thần xin hãy ban cho con sức mạnh!” Tề Tiểu Sơn sốt ruột khẩn cầu.

Như thể nghe thấy lời cầu khẩn của y, cánh cửa nặng nề gần đó đột ngột mở ra, một lão già nhếch nhác bị người ta ném ra ngoài, một hán tử bộ dạng lưu manh từ bên trong phủi tay bồm bộp chửi rủa: “Tiên sư, thua nhẵn túi rồi còn muốn chơi, ngươi xem Phú Quý Phường chúng ta là chỗ nào hở?”

Ngoài tiếng chửi rủa của gã lưu manh, bên trong còn loáng thoáng vọng ra tiếng người tạp nham hô hào huyên náo, đây hẳn là một sòng bạc ngầm mở bán công khai. Tề Tiểu Sơn không nghĩ nhiều lập tức rẽ vào, tên lưu manh giơ tay chặn lại, Tề Tiểu Sơn đưa cho y một miếng bạc vụn, cánh tay kia lập tức được thu về.

“Mời khách quan!” Tên lưu manh ân cần mời Tề Tiểu Sơn vào trong. Nể mặt ngân lượng, y vờ như không thấy vết máu trên khắp người Tề Tiểu Sơn, chỉ thầm nghĩ bụng: “Bị thương nặng thế này còn muốn đến đánh, xem ra lại là một con bạc khát nước!”

Bên trong sòng bạc chật ních người, Tề Tiểu Sơn chọn một bàn khách chơi túm tụm để chen vào, lập tức khiến khách bạc hai bên khó chịu. Nhưng vừa thấy máu me khắp người và thanh đoản đao trong lòng Tề Tiểu Sơn, họ vội vàng nuốt ngược mấy câu chửi vào bụng, còn tự giác dạt về hai bên, nhường một vị trí tương đối rộng rãi cho Tề Tiểu Sơn.

“Chia bài!” Tề Tiểu Sơn lấy hết ngân lượng trên người đập lên bàn, tất cả có hơn hai mươi lượng. Số tiền khiến các con bạc chưa từng trải trong sòng bạc nhỏ này phải xì xào không ngớt. Chỉ có nhà cái bất động thanh sắc, vẫn xáo và chia bài nhanh thoăn thoắt. Đây là bàn bài cửu, chốc lát sau hai quân bài đen nhánh được đẩy tới trước mặt Tề Tiểu Sơn, y kẹp chặt bài trong lòng bàn tay, mắt liếc về hai phía. Hai tay sát thủ cũng đã theo y vào đến nơi, trà trộn giữa các khách bạc khác theo dõi y như không có chuyện gì. Tề Tiểu Sơn không sợ chúng đột ngột ám toán mình, y hiểu rõ trừ phi vạn bất đắc dĩ, nếu không đám sát thủ này sẽ không động thủ ở nơi đông người. Sát thủ là những kẻ thận trọng, không muốn để người khác nhận ra rồi trở thành đào phạm bị Lục Phiến Môn truy nã.

“Sát!” Tề Tiểu Sơn hét rống lên khiến ai nấy đều giật mình. Chỉ thấy y vỗ đánh “rầm” quân bài cửu xuống bàn, tiện tay giật lấy cốc trà trên tay người khách chơi bên cạnh, uống ừng ực một ngụm rồi lại dúi trả hắn. Người khách nọ kinh ngạc nhận ra, cốc trà đầy ắp của mình ban nãy giờ đã biến thành nửa cốc máu loãng.

“Ta thắng rồi!” Tề Tiểu Sơn đợi nhà cái mở bài, giơ tay toan lấy bạc trên bàn thì bất ngờ bị nhà cái tóm chặt cổ tay. “Khoan đã! Quân bài này có vấn đề!” Nhà cái nhìn hai quân bài trước mặt Tề Tiểu Sơn, hất đầu sai trợ thủ bên cạnh: “Lật sòng!”

Đây là thuật ngữ ở sòng bạc, ý chỉ việc lật mở tất cả các quân bài để kiểm tra liệu có phải đã bị người khác tráo đổi. Tay trợ thủ thành thục lật bài trên bàn, mọi người vừa nhìn lập tức đã hiểu ra chuyện. Bài của Tề Tiểu Sơn rõ ràng thừa ra hai quân, nhìn kỹ thậm chí còn có thể phát hiện màu sắc của hai quân bài này khác xa so với những quân bài khác.

“Đại ca, bắt được một tên lão thiên tráo bài!” Nhà cái kích động gọi với vào gian trong sòng bạc. Bên trong lập tức truyền ra giọng nói oang oang: “Làm theo quy tắc cũ, tay trái chơi gian thì chặt tay trái, tay phải chơi gian thì chặt tay phải, cả hai tay đều chơi gian thì chặt cả hai tay thôi!” Mấy hộ vệ sòng bạc lập tức vây tới, có hai tên còn móc ra cây rìu chuyên chặt tay chân người. Các khách bạc vội vàng dạt sang hai bên, để lại một mình Tề Tiểu Sơn ở chính giữa.

“Tiểu tử, chơi gian cũng phải nghĩ ra chiêu nào cao minh hơn chứ, đằng này lại dùng ba cái trò tráo bài mạt hạng.” Một hán tử huơ huơ cây rìu trong tay, nhìn Tề Tiểu Sơn như mèo vờn chuột: “Đừng trách lão ca ta tàn độc, chơi gian ít nhất phải chặt một tay, đây là quy tắc thép của tất cả sòng bạc trong thiên hạ, chúng ta đâu thể phá quy tắc đúng không?”

Nói đoạn, y tóm lấy tay Tề Tiểu Sơn, chẳng ngờ Tề Tiểu Sơn đột nhiên lật đổ bàn, đẩy mạnh hán tử sang bên rồi chạy ra ngoài cửa. Những hộ vệ xung quanh tuy đã cẩn thận đề phòng, nhưng vẫn để Tề Tiểu Sơn lao thẳng một mạch khỏi cửa, dọc đường xô ngã bảy tám khách đánh bạc. Đám đông réo nhau đuổi theo, cục diện nhất thời trở nên hỗn loạn. Hai sát thủ theo Tề Tiểu Sơn vào sòng bạc thoáng tần ngần, cuối cùng vẫn quyết định không đường đột xuất thủ ở chốn đông người.

Tề Tiểu Sơn sau khi lao ra khỏi sòng bạc lập tức chạy thục mạng về hướng Vọng Nguyệt Lâu, mười mấy hộ vệ sòng bạc rít gọi đuổi theo sau y, cảnh tượng tức khắc thu hút ánh nhìn của người trên phố.

Tên sát thủ chặn trước đường vào Vọng Nguyệt Lâu lập tức đặt tay lên chuôi kiếm chuẩn bị xuất thủ. Rõ ràng, chỉ cần Tề Tiểu Sơn dám xông vào, y sẽ không do dự ra tay, dù là trên phố đông người cũng đành. Ai ngờ Tề Tiểu Sơn chạy tới cách y mấy trượng bèn đột ngột rẽ ngoặt sang con phố bên trái, nhưng đầu phố đó cũng có người chờ sẵn, Tề Tiểu Sơn chạy đến đầu phố lại lập tức quẹo trái, thế nhưng con phố tiếp theo cũng có kẻ đang đuổi tới, y đành rẽ trái lần nữa. Loáng cái Tề Tiểu Sơn đã chạy một vòng ở ngã tư nhưng vẫn không thể nghĩ ra cách thoát khỏi vòng vây. Y giống như con sói rơi vào bẫy, chạy lòng vòng quanh ngã tư nọ.

Hộ vệ sòng bạc đuổi theo Tề Tiểu Sơn đã chạy được hai vòng, có mấy tên thông minh đã thay đổi chiến lược vòng ra phía trước chặn đường nhưng bị Tề Tiểu Sơn liều mạng vung đoản đao chém dạt. Có điều chuyện này cũng khiển tốc độ chạy của Tề Tiểu Sơn chậm lại, rìu và chủy thủ truy đuối phía sau cuối cùng cũng chém vào lưng y, máu tươi phun ra xối xả. Tề Tiểu Sơn vẫn không màng, tiếp tục dốc cạn sức lực chạy quanh ngã tư.

“Mẹ kiếp, tên tiểu tử này bị dọa đần người rồi chắc?” Đám hộ vệ đuổi theo lục tục dừng lại, lấy làm lạ nhìn Tề Tiểu Sơn chạy tới chạy lui. Chỉ thấy y chạy từ Đông ngoặt sang Nam, rồi từ Nam ngoặt về Tây, từ Tây chạy sang Bắc, cuối cùng lại từ Bắc chạy về Đông, cứ theo đúng một lộ trình như vậy ở ngã tư, máu tươi tuôn trào từ những vết thương trên người, rơi dọc theo con đường y đã chạy, để lại vết máu loang lổ nhức nhối trên đường.

Đám hộ vệ sòng bạc đã không còn ngăn cản hay truy đuổi, chỉ nhìn con đường máu y tạo ra, ai cũng biết y chẳng trụ được bao lâu nữa. Bọn họ khoanh tay tò mò nhìn Tề Tiểu Sơn, nghĩ xem tiểu tử này lúc nào mới chịu thôi chạy loạn xạ như con dã thú rơi vào bẫy.

Vì mất máu quá nhiều, sức lực cũng đã kiệt, Tề Tiểu Sơn chỉ thấy hai chân như đạp trên bông, thần trí cũng dần mơ hồ. Cuối cùng y nhìn lên ô cửa sổ Mẫu Đơn Các trên tầng ba Vọng Nguyệt Lâu, loáng thoáng thấy có người đang từ cửa sổ nhìn xuống. Tề Tiểu Sơn bất giác kêu không thành tiếng: “Ngươi nhất định phải chuyển tin này cho công tử Tương! Công tử, công tử nhất định phải hiểu được thông tin này!”

Không biết chạy được bao nhiêu vòng, Tề Tiểu Sơn cuối cùng cũng kiệt sức ngã xuống đất, mấy tay hộ vệ từ từ vây lại kiểm tra, một tên thận trọng đưa tay lên mũi Tề Tiểu Sơn dò hơi thở, lập tức kinh hãi rụt tay về hô lớn: “Chết rồi!”

Lời vừa dứt, liền thấy một kẻ sắc mặt âm trầm chen vào giữa đám người, ai nấy chỉ cảm giác trước mặt có một đạo hàn quang vụt qua, trên cổ Tề Tiểu Sơn lập tức xuất hiện một vết thương mảnh, vừa vặn cứa đứt huyết quản của y, nhưng điều ngạc nhiên là cơ hồ không thấy máu tươi phun, chắc rằng máu đã chảy cạn từ lâu. Mọi người ngẩng đầu định tìm người xuất kiếm, chỉ thấy kẻ đó chớp mắt đã bỏ đi rất xa, từ đầu đến cuối không thể nhìn ra diện mạo y, chỉ thấy bóng lưng gầy gò lom khom, giống như một con chó già lững thững độc hành trong gió thu.

“Chết rồi!” Một tên hộ vệ cố đấm ăn xôi dò mạch của Tề Tiểu Sơn, lập tức sợ hãi rụt tay về: “Lần này phiền to rồi, quan phủ thể nào cũng gây khó dễ.”

“Có gì mà phiền? Chẳng qua là một tên tha hương, đem đi chôn là xong, chỉ cần không ai báo quan thì quan phủ chẳng thừa hơi đi lo mấy chuyện này đâu.”

Vào lúc mấy tên hộ vệ của Phú Quý Phường đang bàn bạc xử lý thi thể Tề Tiểu Sơn thế nào, trong Mẫu Đơn Các, một lão già vẻ mặt từng trải đứng từ xa chứng kiến cảnh tượng nơi ngã tư, tiện miệng hỏi: “Phía dưới xảy ra chuyện gì?”

Hùng chưởng quầy của Vọng Nguyệt Lâu nãy giờ đích thân đứng hầu trong Mẫu Đơn Các vội sai một tiểu nhị đi xuống nghe ngóng. Lão già này là khách quý của Vọng Nguyệt Lâu, tùy tiện hỏi một câu cũng khiến Hùng chưởng quầy xem như thánh chỉ mà chấp hành.

Một lát sau, tiểu nhị đi xuống hỏi thăm thở hồng hộc chạy lên, chắp tay báo lại với lão già: “Là một kẻ tha hương tới Phú Quý Phường chơi gian, tráo bài trong lúc đánh bạc bị người ta bắt tại trận. Thành lão đại vốn chỉ muốn chặt một tay là xong, ai ngờ y bị dọa đến ngu người, cứ liều mạng chạy lòng vòng ở ngã tư, khiến vết thương trên người rách toác, cạn máu mà chết, Thành lão đại đã sai người đem y đi chôn rồi.”

“Ài, đúng là mất mặt!” Lão già nhỏ giọng lầm bầm, cuối cùng cúi xuống nhìn vết máu đỏ rợn người tên lão thiên vô danh ấy để lại. Từ cửa sổ trên cao nhìn xuống, vết máu giống như một chữ “Khẩu*” khổng lồ vuông vắn, vừa vặn ở chính giữa ngã tư, nhìn từ xa mà kinh tâm động phách. Lão già lắc đầu ngậm ngùi, lòng thầm thở dài, Hùng chưởng quầy ở bên cười trừ nói: “Chưa thấy tên nào ngốc như vậy, thế này đứng là chết vì ngốc rồi.”

“Khách đã tới chưa?” Lão già không rảnh để ý mấy chuyện vặt này, bèn trở về chỗ ngồi an tọa.

Hùng chưởng quầy vội cười giả lả nói: “Khách đã đợi lâu rồi, chỉ chờ lão gia gọi.”

“Cho họ lên đi, hôm nay cũng muộn rồi.”

Hùng chưởng quầy mau mắn lui xuống, vội vàng đi tới một gian phòng bí mật ở tầng hai, đích thân đưa một vị khách lên Mẫu Đơn Các ở tầng ba. Vị khách được Hùng chưởng quầy ra hiệu, không nói không rằng đặt một lá thư lên bàn trước mặt lão già, sau đó chắp tay lui xuống.

Vị khách ấy vừa rời khỏi chưa bao lâu, lại có một khách khác được Hùng chưởng quầy dẫn vào, người sau cũng giống người trước, chẳng nói chẳng rằng đưa tới một phong thư dày cộp rồi đi. Mới chốc lát lão già đã đón bốn, năm vị khách, tất cả đều im lặng để lại túi hoặc thư rồi lui ra. Xem thử không còn ai, lão già mới bỏ túi và phong thư vào một túi lớn, đang định rời khỏi thì Hùng chưởng quầy lại ngần ngại chắp tay cười trừ, nói: “Còn một vị khách nữa, nhưng thứ cô nương ấy mang đến có chút đặc biệt, ta không dám tự quyết, mong lão gia định đoạt.”

“Đặc biệt?” Lão già thoáng ngạc nhiên, nhưng phần nhiều là hồ nghi: “Để cô nương ấy vào đây, ta muốn xem xem, còn thứ gì đáng được gọi là đặc biệt?”

Hùng chưởng quầy lần này không đích thân đi dẫn người, mà vỗ tay xuống dưới tầng. Lát sau, một bóng hình trắng toát dần bước lên cầu thang, được Hùng chưởng quầy ra hiệu, nàng bước vào Mẫu Đơn Các vái dài với lão già.

Tuy đã qua tuổi tim đập nhanh vì nữ sắc từ lâu, nhưng lão già vẫn sáng bừng hai mắt, không tự chủ hít sâu một hơi. Người đang quỳ trước mặt lão là một nữ tử chỉ có thể xuất hiện trong giấc mộng, trông bề ngoài mới chừng mười bảy mười tám tuổi, nhưng vẻ đẹp đã đủ khiến người khác sửng sốt. Đặc biệt bộ tang phục trắng toát khiến người ta hồ nghi nàng hoặc là hồ tinh diễm quỷ, hoặc là tiên nữ gặp nạn.

“Tiểu nữ Doãn Cô Phương bái kiến đặc sứ của công tử Tương.” Nàng là vị khách đầu tiên mở lời với lão.

“Cô nương biết công tử nhà ta?” Lão già không trách thiếu nữ đã phá hỏng quy tắc, trái lại còn hứng chí hỏi. Thiếu nữ ngẩng đầu lên, nàng không trả lời thẳng vào câu hỏi, chỉ khẽ đọc câu thơ lưu truyền rộng rãi trên giang hồ: “Thiên Môn có công tử, linh hoạt khéo dụng tâm; lật tay thì mây tản, úp lại định càn khôn; nhàn hạ dựa tường xanh, ngồi dậy lệnh thiên quân; trên hô phong hoán vũ, dưới tung hoành nhân gian.”

“Nếu cô nương đã biết công tử nhà ta thì nên hiểu quy định của công tử.”

“Ta biết.” thiếu nữ nhìn thẳng vào mắt lão già. “Ta có thứ đáng giá hơn tiền bạc.”

Không biết từ lúc nào, công tử Tương bắt đầu thích leo núi. Người khác leo núi vì muốn ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp dọc đường và trải nghiệm niềm vui vượt khó khăn trở ngại, còn công tử Tương lại say đắm tâm trạng khoan khoái nhẹ nhõm khi đứng trên đỉnh núi nhìn xuống một góc thiên hạ. Lúc hoàng hôn leo lên đỉnh núi vô danh sau nhà, thưởng thức sắc trời đỏ tía rực rỡ đằng Tây dần chuyển sang màu mực đen mờ mịt đã trở thành thói quen hằng ngày của gã. Cúi nhìn nhà cửa chẳng khác nào đồ chơi và dòng người bé như kiến ở dưới chân núi khiến gã không khỏi cảm thấy đất trời rộng lớn, con người thì bé nhỏ. Xa trông những đồng loại đang tất bật nơi trấn nhỏ dưới núi, công tử Tương cảm thấy bi ai, đời người lẽ nào chỉ bận bịu ba bữa cơm một giấc ngủ mỗi ngày, rồi đi về phần mộ trong sự bận rộn ấy?

Khi tia sáng cuối cùng tắt hẳn, công tử Tương mới chịu trở người, lấy tay kê đầu nằm trên đỉnh núi, trên bầu trời đêm bao la rộng lớn, ánh trăng mờ ảo, sao đêm lấp lánh. Gã thấy lòng mình tĩnh lặng lạ thường, chỉ khi nhìn vào màn đêm sâu thẳm khó bề lường trước ấy, gã mới có cảm giác tĩnh tại thuần hậu như vậy, suy nghĩ cũng không bị vấy bụi trần.

Phía xa vang lên tiếng bước chân bình bịch của một loài động vật bốn chân đang chạy trong rừng, công tử Tương chậm rãi ngồi thẳng dậy, xoay sang phía phát ra âm thanh lãnh đạm hỏi: “A Bố, mày đấy à?”

Trên con đường núi mờ ánh trăng dần hiện ra một con chó ngao to lớn, cơ thể đen bóng chằng chịt những vết sẹo loang lổ, nhìn mà đau lòng, nhưng cũng khiến nó trông càng thêm uy mãnh. Trông thấy chủ nhân, nó không giống những con chó khác quấn quýt quanh chủ vẫy đuôi đòi yêu thương, trái lại ngạo nghễ ngẩng cao đầu, đứng im lìm cách gã một trượng, ánh mắt lấp loáng lặng lẽ nhìn chủ. Thần thái ấy khiến công tử Tương đột nhiên cảm thấy nó hơi giống mình, cao ngạo, cô độc, không thiết chung hàng cùng kẻ khác, thậm chí những vết sẹo nhức nhối kia cũng có mấy phần giống gã, có lẽ trước kia gã thu nhận con chó hoang thoi thóp hơi tàn này cũng là vì nhận ra nó có nét giống mình chăng? Công tử Tương thầm nghĩ.

“Tiêu bá về rồi à?” Công tử Tương uể oải hỏi. A Bố không thể trả lời câu hỏi của chủ, chỉ hà tiện vẫy đuôi một cái, bộ dạng như thể vẫy đuôi với chủ cũng là một cử chỉ hào hiệp hiếm gặp. Công tử Tương thấy vậy bật cười: “A Bố, mi không thể hiện thêm chút được hả? Tốt xấu gì ngày nào ta cũng cho mi ăn uống, không hề bạc đãi mi.” Nói đoạn, công tử Tương đứng dậy, phóng tầm mắt nhìn xuống lưng chừng núi, lẩm bẩm: “Chúng ta về thôi, hy vọng Tiêu bá lần này có thể mang về cho ta thứ gì đáng mong đợi.”

Ở lưng chừng núi có một căn nhà tre đơn sơ nhưng tinh tế, bề ngoài chẳng khác nào cách ăn bận của công tử Tương, giản dị mà không kém phần nho nhã, trong sự bình thường thấp thoáng thứ khí chất đại gia. Công tử Tương trở về gian nhà tre, lập tức nằm xuống ghế bập bênh cũng làm bằng tre, như thể đứng thêm lúc nữa cũng là quá tội. Trong gian nhà tre, một lão già người lấm bụi đường đã đợi sẵn.

“Công tử, lần này ta đem về cho công tử vài món đồ rất hay, xin công tử xem qua.” Tiêu bá vừa nói vừa ân cần lần lượt đặt từng bao thư trong túi lên bàn, sau đó lại giở từng bao, rút ra từng xấp ngân phiếu bày lên mặt bàn. Nhìn qua hoa văn hình dáng thì đều là ngân phiếu có giá trị từ năm trăm lượng trở lên của Thông Bảo tiền trang lớn nhất cả nước, mỗi tấm ngân phiếu đủ cho một hộ bình thường chi tiêu trong mấy năm, vậy mà công tử Tương chẳng buồn chớp mắt, thậm chí còn không nhìn thẳng vào đống ngân phiếu, chỉ đưa tay xoa thái dương ra chiều mệt mỏi. Tiêu bá đã quen với phản ứng của gã nên không để tâm, lại lấy từ trong túi ra một chiếc hộp trông khá cổ, cười nói: “Tô gia Kim Lăng lần này đúng là đã hao công tổn sức, ngoài ngân lượng còn kiếm được chiếc cốc Cửu Long đã thất lạc nhiều năm, công tử có muốn xem không?”

Công tử Tương nhận chiếc hộp, trong hộp là một chiếc cốc vàng nhỏ nhắn tinh xảo, Tiêu bá lập tức đổ nước đầy cốc, chỉ thấy mặt trong thành cốc đột nhiên hiện ra chín con rồng vàng nhỏ sống động như thật. Theo nhịp nước sóng sánh, rồng vàng cũng bay lượn trong cốc như thể sống lại, công tử Tương thấy vậy phì cười: “Chẳng qua là một món đồ chơi cầu kỳ tinh xảo, có gì lạ đâu.”

Tiêu bá thấy công tử Tương không xem trọng, vội lấy số thiệp trong các bao thư ra đưa cho gã, lại thấy gã tiện tay lật xem, vẻ mặt dần hiện nét bực bội, Tiêu bá bèn cười nói: “Còn một thứ nữa, nhưng lão nô không thể mang ra được.”

Công tử Tương nhướng mày: “Là gì?” Tiêu bá làm vẻ mặt cổ quái, do dự đáp: “Là… là trinh tiết của một cô nương.”

Công tử Tương ngây người, rồi bật cười thành tiếng: “Tiêu bá lão hồ đồ rồi hay sao? Có nữ tử nào mà ta chưa từng gặp?” Tiêu bá bèn đáp: “Ta cũng nói vậy, nhưng cô nương đó không biết được ai chỉ điểm, thám dò ra hành tung của lão nô, khổ sở van xin ta bao lâu. Lão nô bị đeo bám mãi, nhất thời mềm lòng đành miễn cưỡng đồng ý đưa thiệp của cô nương ấy cho công tử. Cô ấy còn đưa một bức chân dung nhờ lão nô dâng cho công tử nhìn qua. Sợ công tử hách tội nên lão nô không dám lấy ra, nếu công tử không đồng ý lão nô sẽ trả lại.”

Công tử Tương không đáp, chỉ lặng thinh dựa lưng ghế nhắm mắt dưỡng thần. Tiêu bá tưởng gã đã ngủ, bất giác nhỏ giọng lẩm bẩm: “Để lão nô trả lại cho cô nương ấy vậy. Ai, chỉ thương thay một cô gái yếu đuối không nơi nương tựa, gặp phải đại nạn như vậy còn đèo bòng thêm đệ đệ mới có sáu tuổi, ngày tháng sau này biết sống sao đây.”

“Lão lại lẩm bẩm gì thế? Thiên hạ đầy kẻ đáng thương, chúng ta có giúp hết được không?” Công tử Tương nhắm mắt thở dài, cuối cùng vẫn mở mắt ra nói: “Đưa thiệp của cô nương ấy ta xem.”

Tiêu bá thoáng vẻ hân hoan, vội móc thư cùng một quyển trục nhỏ trong ngực áo đưa tới, nhỏ giọng giải thích: “Đây là bức chân dung cô nương ấy tự vẽ và thiệp, xin công tử xem qua.”

Công tử Tương đón lấy thiệp và quyển trục, không nhìn mà đưa thẳng quyển trục vẽ chân dung nữ tử vào lửa nến đang cháy. Nhìn bức vẽ im lìm cháy rụi trong tay công tử Tương, Tiêu bá lấy làm lạ hỏi: “Nếu công tử có hứng thú, sao không xem thử diện mạo cô nương ấy trước? Còn không có hứng thú, sao lại muốn xem thiệp của người ta?”

Một nỗi đau thầm kín sượt qua ánh mắt công tử Tương, gã lặng im hồi lâu mới lầm bầm: “Lão nghĩ kiếp này ta còn có thể để tâm đến nữ nhân khác sao?” Tiêu bá lặng lẽ thở dài, buồn bã lắc đầu: “Công tử vẫn chưa quên được người ấy?”

Công tử Tương cười chua chát, tiếp đó lắc đầu quét sạch vẻ buồn bã trên mặt, cất giọng nói: “Nữ tử này đã dám tự họa tiến cử, hẳn phải rất tự tin với dung mạo của mình, không xem cũng được. Chỉ cần chuyện của nàng ta đủ thách thức, ta cũng không ngại giúp một phen.”

Tiêu bá gãi đầu hồ nghi, hỏi: “Lúc trước cũng có người dâng mỹ sắc tặng công tử, công tử chưa từng để mắt tới, sao ngay diện mạo của cô nương này công tử còn chưa nhìn mà đã nhận thiệp nhờ rồi?”

“Chuyện này khác.” Công tử Tương cười nhạt: “Lúc trước những khách phàm tục ấy đòi tặng nữ nhân cho ta, còn giờ nữ tử này là tự dâng mình, dĩ nhiên không giống nhau, cô nương này rõ ràng cần giúp đỡ hơn.” Nói đoạn, công tử Tương xé phong thư trong tay, giở thư đọc qua, khuôn mặt trắng trẻo nho nhã dần phủ lên một lớp sương u ám, gã chốc lại cười khẩy, nói: “Lý thú lý thú, không ngờ chuyện này thú vị như vậy.”

Cuối cùng gã nhìn xuống lạc khoản, khẽ đọc: “Doãn Cô Phương, cái tên này rất có cá tính, ta thích.” Công tử Tương lại ngẩng mặt lên, gật đầu với Tiêu bá: “Nói với cô nương ấy, thiệp này ta nhận!”

“Được!” Tiêu bá hào hứng xoa tay, sau đó cười nói: “Nói đến chuyện thú vị, lần này ta quả có gặp một chuyện.”

Thấy công tử Tương nhìn mình, Tiêu bá liền kể lại: “Trong lúc ta ở Vọng Nguyệt Lâu gặp khách, có một tên ngốc chơi gian ở sòng bạc bị đuổi đánh đến mức chỉ biết chạy quanh ngã tư, chắc do bị dọa sợ quá không biết chạy đi xa, cứ thế đứt hơi chết ở ngã tư ấy.”

Tiêu bá nhìn ra vẻ dò hỏi trong ánh mắt công tử Tương, bèn thuật lại chi tiết tình hình đã thấy, cuối cùng lắc đầu than: “Đúng là kỳ lạ, y cứ chạy đi chạy lại ở ngã tư thì cũng đành, đây còn chỉ chạy theo một tuyến đường cố định, máu chảy dọc đường nhiều đến ghê người, hệt như một chữ ‘khẩu’ lớn.”

“Khẩu?” Công tử Tương cau mày, Tiêu bá bèn giải thích: “Đúng vậy, còn nằm chính giữa ngã tư.” Sắc mặt công tử Tương dần trở nên nặng nề, gã im lặng một lát đột nhiên khẽ than: “Tiêu bá, lão nhất định phải điều tra ra lai lịch của người này, chúng ta suýt nữa đã bỏ lỡ lời cảnh báo mà người khác dùng tính mạng để gửi tới.”

“Cảnh báo?” Tiêu bá lộ vẻ ngờ vực. Công tử Tương gật đầu, chấm nhẹ tay vào tách trà, sau đó vạch lên bàn: “Lão nói vết máu trên đường giống như một chữ ‘khẩu’ lớn, lại nằm chính giữa ngã tư, là như này đúng không?”

“Không sai!” Tiêu bá nhìn chữ “khẩu” nọ, vẻ mặt vẫn hồ nghi không hiểu. Công tử Tương lại chấm nước trà kéo dài bốn đường viền của chữ “khẩu”, chữ “khẩu” lúc này đã biến thành chữ “tỉnh”*, gã chỉ chữ nói: “Chữ ‘khẩu’ chính giữa ngã tư không phải chính là chữ ‘tỉnh’ sao? Còn y lại giống con thú bị vây khốn chạy trong ‘tỉnh’, theo lão y đang muốn nói gì với chúng ta?”

“Cạm bẫy? Y đang nói mình đã rơi vào bẫy?” Tiêu bá sực hiểu, tiếp đó lại lắc đầu lia lịa: “Không đúng, sao công tử có thể khẳng định y muốn truyền tin cho chúng ta mà không phải người khác? Tất cả chuyện này e vốn chẳng có ý nghĩa gì, chỉ là trùng hợp thôi cũng nên.”

“Ta có thể sống đến giờ chính là vì chưa bao giờ tin vào trùng hợp.” Công tử Tương nghiêm sắc mặt, thấy Tiêu bá lộ vẻ đồng tình, gã mới tiếp tục giải thích: “Đầu tiên, chỉ có lão định kỳ đến Mẫu Đơn Các ở tầng ba Vọng Nguyệt Lâu gặp khách, chuyện này trên giang hồ đã không còn là bí mật, vết máu y để lại cũng chỉ ở trên nhìn xuống mới có thể liên tưởng ra chữ ‘khẩu’. Tiếp theo, y cố ý vào sòng bạc trước tiên, chơi gian bằng thủ đoạn thấp kém nhất, để người ta vạch trần chịu đuổi chém, chuyện này càng náo loạn thì càng khiến lão chú ý, đồng thời cũng thể hiện rõ thân phận của y. Sau cùng cũng là điểm quan trọng nhất, không phải y nói mình là con thú rơi vào bẫy, mà đang cảnh báo chúng ta cẩn thận rơi vào bẫy, nếu không chẳng còn cách nào giải thích tại sao y lại để mất máu đến độ chết tại chỗ như thế. Chắc chắn y bị người khác ngăn cản, không thể đích thân đưa tin cảnh báo đến cho lão, nên đã dùng chính tính mạng của mình để cảnh báo chúng ta!”

Nói rồi, công tử Tương lau đi bốn đường viền quanh chữ “tỉnh”: “Lão xem, chữ ‘khẩu’ viết bằng máu này nếu không nhìn nó như một chữ, thì có giống một cái hố không?”

“Không sai!” Tiêu bá sực hiểu ra: “Chẳng trách hành động của y kỳ lạ như vậy. Đáng tiếc, y không thể nói cho chúng ta biết ai đang đặt bẫy, và bẫy đặt ở đâu!”

Công tử Tương cầm mấy tấm thiệp trên bàn lên lẩm bẩm suy tư: “Cái bẫy nhất định nằm trong số này.” Gã mở từng tấm thiệp xem kỹ một lượt, sau đó đưa chúng cho Tiêu bá: “Ta nghĩ, nơi đặt bẫy này không khó đoán.”

Tiêu bá nhận thiệp cũng đọc kỹ một lượt, cuối cùng hiểu ra tất cả: “Đúng vậy, gần như tất cả thiệp đều chỉ về một nơi - Kim Lăng!”

2

Mời

khách

Ngoài tiếng ve sầu râm ran, bốn bề đều im ắng như tờ. Thành Kim Lăng tháng Chín giống như một chiếc lồng hấp khổng lồ, ẩm thấp nóng bức gây khó chịu. Đang lúc mặt trời chói lọi, ngoài ve sầu, mọi loài vật khác đều trốn vào bóng râm tránh nắng, thời tiết như vậy không phải thích hợp để mời khách, nhưng Thẩm Bắc Hùng lại mời khách đúng vào lúc này.

Thẩm Bắc Hùng thích mời khách, đặc biệt là những vị khách sắp trở thành con mồi của y. Trong mắt y, yến tiệc chính là chiến trường chém giết, bàn rượu chén qua chén lại là giang hồ, thậm chí so với một giang hồ chỉ toàn ánh đao bóng kiếm càng dễ mê đắm lòng người, khiến người ta bằng lòng trả giá cả cuộc đời cho nó.

“Chủ nhân, quan khách đã đến đủ, đang chờ ở ngoài cửa, có cần mời họ nhập tiệc không?”

Nghe tiếng thuộc hạ đứng ngoài bẩm báo, cặp mắt lạnh lẽo của Thẩm Bắc Hùng rốt cuộc cũng hiện nét cười. Tất cả đều nằm trong dự liệu của y. Nghĩ lại ba tháng trước, y chỉ là một kẻ chân ướt chân ráo mới đến Kim Lăng, dù hông giắt vạn quan tiền cũng không có lấy một kẻ trong đám thương gia Kim Lăng quen xa hoa ngạo mạn đoái hoài tới, nhưng chỉ ba tháng sau, dù đao roi đất lửa thế nào, những thương gia nhận được thiệp mời của y đều không dám không tới!

“Không vội, để họ đợi một lát.” Thẩm Bắc Hùng bình thản ra lệnh, đợi thuộc hạ lui xuống, y mới rời khỏi chiếc ghế thái sư quây đá làm mát, thong thả bước tới cửa sổ, ghé mắt nhìn ra bên ngoài qua khe rèm trúc. Từ cửa sổ tầng ba của tửu lầu Thiên Ngoại Thiên sang trọng nhất Kim Lăng vừa hay có thể trông thấy cổng chính. Dưới đó không biết từ lúc nào đã tập trung mấy chục thương gia áo quần bảnh bao, họ hoàn toàn không để tâm đến thời tiết nóng bức, đang chụm đầu ghé tai bàn tán gì đó, xa xa có thể thấy trên mặt người nào người nấy đều thoáng hiện vẻ lo âu. Thẩm Bắc Hùng thấy vậy mỉm cười, y vẫy tay, lập tức có a hoàn bưng một cốc nước mơ lạnh tới, y cầm lấy vừa thong thả thưởng thức, vừa mỉm cười chiêm ngưỡng cảnh dưới lầu. Có lòng mời khách nhưng không để khách vào cửa, e chỉ có một mình Thẩm Bắc Hùng y mà thôi.

Mãi đến khi uống hết cốc nước mơ, y mới gọi người bên ngoài: “Để họ vào đi.”

Cổng chính tửu lầu cuối cùng đã mở, các thương nhân không khách khí gì nữa, vội vàng bước vào bên trong xem chừng mát mẻ hơn chút. Áng chừng khách khứa đều đã yên vị dưới tầng hai, Thẩm Bắc Hùng mới ung dung từ tầng ba đi xuống, vừa bước vào đại sảnh bày tiệc, y đã tươi cười chắp tay chào một vòng: “Để chư vị lão bản đợi lâu, Bắc Hùng cảm thấy hổ thẹn.”

Các thương nhân rào rào đứng dậy đáp lễ, đồng thời dò xét kẻ vừa xuất hiện. Tuy ba chữ “Thẩm Bắc Hùng” hiện tại đang nổi như cồn ở Kim Lăng, nhưng đây đều là lần đầu họ được nhìn kỹ nhân vật truyền kỳ đã chinh phục giới làm ăn Kim Lăng chỉ trong ba tháng ngắn ngủi. Chỉ thấy sắc mặt y sạm đen, đường nét ngũ quan nổi bật rõ rệt, dưới cằm lưa thưa râu, tuy tuổi quá tứ tuần nhưng lại có đôi mắt sáng u lạnh hơn người trẻ tuổi. Thân hình y cao lớn tráng kiện, không hề có vẻ bệ vệ giàu sang ở thương gia tầm thường, hoàn toàn không giống một thương nhân. Ai nấy đều đang nhìn y, chợt thấy Thẩm Bắc Hùng cau mày, đột nhiên quay sang trách mắng thuộc hạ: “Trời nóng bức thế này mà yến tiệc sao lại không có đá? Mau sai người đưa tới!”

Gã thuộc hạ lập tức vâng dạ đi ra, chẳng bao lâu sau bèn có dàn thiếu nữ khoác áo sa mỏng lướt vào như đàn cá, tay ai cũng bưng một đĩa đá, đứng quây lại thành vòng trong đại sảnh. Các thương gia lập tức thấy mát mẻ lạ thường, trong lòng cũng không khỏi kinh ngạc. Các hộ đại phú đại quý trữ đá trong kho không có gì lạ, nhưng Thẩm Bắc Hùng chỉ mới đến Kim Lăng được ba tháng mà phút chốc lại lấy ra nhiều đá như vậy, ở những chuyện nhỏ nhặt cũng không qua loa lấy lệ, hiển nhiên y đã có chuẩn bị từ trước.

“Các vị lão bản, thời tiết nóng bức vốn không nên mạo muội mời, nhưng may mà tại hạ còn có rượu nho ngon của Thổ Lỗ Phiên ướp lạnh và mấy món ăn thanh đạm đãi khách, xem như có thể lấy ra bồi tội.” Thẩm Bắc Hùng nói rồi vỗ tay, lập tức lại có thị nữ xinh đẹp mặc y phục mát mẻ bưng rượu thịt lướt vào, lẳng lặng bày biện lên bàn. Thấy bàn tiệc rượu này ai cũng phải sửng sốt, những phú thương đã quen với tiệc tùng hoành tráng chỉ cần ngửi mùi rượu cũng biết đó là rượu nho Thổ Lỗ Phiên được cất giữ sáu mươi năm trở lên, loại rượu này có một vò nhỏ đã là hiếm, vậy mà Thẩm Bắc Hùng thoáng chốc đã lấy ra hai thùng lớn. Chỉ nhìn bề ngoài thùng gỗ xù xì được đóng kín cao hơn nửa người, tính ra một thùng rượu cũng đến gần trăm cân. Họ lại nhìn món ăn trên bàn, tất cả đều là những món hoa cỏ không gọi nổi tên, được trộn, xào hoặc nấu canh, toàn bộ tươi rói như vừa mới hái xuống. Có người không nhịn nổi lén hỏi thị nữ đứng hầu phía sau mới biết nguyên liệu nào là tuyết liên ở Thiên Sơn, rau quyết núi Trường Bạch, hoa ưu đàm Đại Lý, cỏ hồi Liêu Tây… Quan khách lúc này càng thêm kinh ngạc, những thứ này nếu đặt riêng lẻ cũng không có gì, nhưng đem đặt cùng nhau lại thành bàn tiệc hiếm có. Nhất là hoa ưu đàm Đại Lý và tuyết liên Thiên Sơn, chu kỳ hoa cực ngắn lại khó bảo quản tươi, chỉ cần rời khỏi đất cũ sẽ không thể sống tiếp, vì vậy những phú thương Kim Lăng từng trải này cũng chưa bao giờ thấy hình dạng khi còn tươi nguyên của chúng. Có người lòng không khỏi hồ nghi, bèn nhã nhặn hỏi chủ nhân bữa tiệc: “Thẩm lão bản, không biết những loài hoa cỏ này phải bảo quản thế nào?”

Thẩm Bắc Hùng xòe hai tay cười nói: “Ta cũng không biết, những chuyện nhỏ này ta đều giao cho hạ nhân làm. Ta chỉ nói điều ta cần, họ tự khắc sẽ thực hiện.” Nói đoạn, y quay sang tỳ nữ phía sau: “Đi gọi Bạch tổng quản tới đây, để ông ấy giới thiệu cho mọi người cách bảo quản những loài hoa cỏ này, cũng để các vị lão bản ở đây biết cách làm, lúc nào cũng có thể thưởng thức những món ăn thanh đạm tươi ngon.”

Bạch tổng quản nhanh chóng tới đại sảnh, đó là một lão già rắn rỏi gân guốc. Sau khi thi lễ với Thẩm Bắc Hùng, lão mới giải thích với mọi người: “Tuyết liên Thiên Sơn khi còn là nụ chớm nở thì đào cả rễ trồng trong một kho băng đặc chế, rồi dùng khoái mã chở về cho kịp trước lúc kho băng tan hết, cất giữ dưới hầm băng, lúc cần dùng lại để ánh nắng chiếu vào, sau khi hoa nở thì hái dùng. Những thứ khác đại để cũng đều dùng cách này.”

Mọi người trầm trồ tấm tắc, cách làm nghe ra đơn giản nhưng hao phí rất nhiều tiền của và sức người, e rằng chỉ có hoàng gia mới làm được. Họ bắt đầu ít nhiều tin lời đồn Thẩm Bắc Hùng có xuất thân hoàng gia, vẻ lo lắng vì vậy cũng tăng thêm mấy phần. Thẩm Bắc Hùng thấy họ hoảng hốt bất an thì mỉm cười, cơ hồ rất đắc chí với thủ đoạn trấn áp đối thủ của mình. Y mời những thương gia chưa từng gặp mặt này dự tiệc đúng giữa trưa chính là muốn xem thử địa vị y trong lòng bọn họ. Nay Thẩm Bắc Hùng đã biết rõ trọng lượng của mình, chuyện tiếp sau sẽ dễ dàng hơn nhiều. Y cười nói như không, nâng ly mời các thương gia dùng bữa. Mọi người ai cũng có tâm sự, đầy một bàn của ngon vật lạ cũng nuốt không trôi. Rượu quá tam tuần, Thẩm Bắc Hùng mới mở lời: “Các vị lão bản, hôm nay mạo muội mời mọi người tới đây chính là muốn nghe câu trả lời cho lời đề nghị của ta ba tháng trước.”

Trong đại sảnh lập tức im bặt, dù có đá mát xung quanh ai nấy vẫn toát mồ hôi như tắm. Ba tháng trước, họ đều nhận được một tấm thiệp mời, địa điểm cũng là ở tửu lầu Thiên Ngoại Thiên. Nhưng lúc đó họ chưa từng nghe nói về Thẩm Bắc Hùng người miền Bắc này nên dĩ nhiên không để tâm đến, người lịch sự đến dự chưa được một phần ba số lượng ngày hôm nay, đó là còn nể mặt lão bản đứng sau tửu lầu tức tri phủ Kim Lăng Điền Đắc Ứng. Không ngờ những người dự tiệc đêm ấy đều bị sự xa hoa của bữa tiệc và sự rộng rãi của chủ nhân chinh phục, càng khiếp sợ trước khí thế muốn nuốt cả trời xanh của y. Chỉ có hai kẻ dám từ chối thẳng thừng yêu cầu ngông cuồng y đưa ra trong bữa tiệc, số còn lại đều tìm cớ thoái thác nói phải về suy nghĩ kỹ. Thẩm Bắc Hùng lúc đó cũng không cần họ vội vàng tỏ rõ thái độ, chỉ nói ba tháng sau sẽ lại mời họ dự yến, nghe câu trả lời của họ, vì vậy mới có bữa tiệc ngày hôm nay.

“Các vị đều là những nhân vật hàng đầu trong giới thương gia Kim Lăng,” Thẩm Bắc Hùng nhàn nhạt lên tiếng trong bầu không khí tĩnh lặng: “Thẩm mỗ đến miền Nam lần này chính là mong được tiến quân vào thương giới Giang Nam, tạo một vùng trời riêng ở thành Kim Lăng giàu có nhất thiên hạ. Muốn đứng vững ở Kim Lăng dĩ nhiên đầu tiên phải dựng nghiệp, mua lấy mấy cửa hàng làm nền móng. Sau khi xem xét các thương hiệu khắp thành Kim Lăng ta mới nhận ra những cửa hiệu vừa ý phần lớn đều nằm trong tay chư vị đây, bởi vậy muốn nhờ chư vị nể mặt bán cho tại hạ, hy vọng mọi người đừng để Thẩm mỗ thất vọng. Còn về giá tiền dĩ nhiên sẽ không để mọi người thiệt.”

Ba tháng trước, những phú thương dự tiệc rượu đều cảm thấy nực cười trước lời đề nghị này, Thẩm Bắc Hùng không hề muốn “mấy cửa hiệu” mà là mấy chục cửa hiệu lớn, toàn bộ đều nằm trên con phố đông đúc sầm uất nhất thành Kim Lăng, một số còn là những cửa hiệu trăm năm làm ăn hưng thịnh. Lão bản của những cửa hiệu này đa phần đều là những nhân vật hàng đầu trong giới thương gia Kim Lăng, ai nấy đều có tài lực hùng hậu, không thiếu tiền, mà dù có thiếu cũng chỉ cần dựa vào thương hiệu của mình là có thể xoay ngân lượng ở bất cứ tiền trang nào. Vì vậy lúc đó nể mặt Điền đại nhân, họ đều không từ chối trực tiếp mà thoái thác rằng để về nhà suy nghĩ. Chỉ có Trương lão bản của Vinh Bảo Trai và Trần lão bản của Kim Ngọc Đường thể hiện thái độ quyết không bán tổ nghiệp ngay tại chỗ. Kết quả chỉ trong vòng ba tháng, hai thương hiệu lớn mạnh đó đã lụn bại. Bấy giờ mọi người mới nhận ra, Thẩm Bắc Hùng không hề đùa, y không chỉ có thực lực, mà còn có thủ đoạn! Thậm chí trên giang hồ còn có lời đồn, Thẩm Bắc Hùng đã âm thầm nuốt gọn hơn mười sòng bạc của Bách Nghiệp Đường, con rồng qua sông này đã đè chết con rắn địa đầu Bách Nghiệp Đường đệ nhất bang hội Giang Nam.

Kim Lăng là đô thành phồn hoa nhất, cũng là trung tâm thương nghiệp của cả Giang Nam. Giang Nam lại nổi tiếng giàu có xa hoa nhất thiên hạ, đứng đầu về lượng mua bán những mặt hàng như châu báu, đồ cổ, vải bông, tơ lụa. Bởi vậy đối với thương nhân, được Kim Lăng là được Giang Nam, được Giang Nam là được thiên hạ.

Thế nên cơ hồ các thương gia ở Kim Lăng ai nấy đều giàu có sung túc, một tiệm châu báu và một hiệu cầm đồ lâu đời nếu sụp đổ trong thời gian ngắn ngủi thì chỉ trừ phi gặp thiên tai, chiến loạn hoặc cướp bóc, hơn nữa chắc chắn sẽ gây náo động toàn thành, vậy mà Vinh Bảo Trai và tiệm cầm đồ Kim Ngọc Đường lại sụp đổ trong lặng lẽ như vậy, cả quá trình không hề nghe nói có cướp bóc đến nhà, cũng không nghe liên quan gì đến Thẩm Bắc Hùng, có điều giới thương gia Kim Lăng đều ngờ rằng do y làm, cảm giác mù mờ này càng khiến họ rùng mình ớn lạnh. Hiện giờ họ rốt cuộc cũng đã ý thức được rằng lòng tham, tài lực cùng thủ đoạn thâm độc của Thẩm Bắc Hùng không ở mức độ người thường có thể đoán biết. Cho nên ba tháng sau tức ngày hôm nay, vừa nhận được thiệp mời của Thẩm Bắc Hùng, họ đều không dám chần chừ lập tức có mặt đầy đủ.

Tiếng ve sầu vẫn râm ran ngoài cửa, bên trong đại sảnh lại yên ắng dị thường, mọi người đều lặng thinh, một mặt chẳng ai muốn bán đi sản nghiệp của mình, mặt khác lại không muốn làm con chim đầu đàn ngu ngốc, thẳng thừng từ chối một kẻ không rõ lai lịch như Thẩm Bắc Hùng.

“Ta đã cho người định giá cửa hàng của các vị, xin hãy xem qua, nếu cảm thấy hợp tình hợp lý thì điểm chỉ vào khế ước là xong, hàng hóa trong cửa hiệu của chư vị ta cũng có thể ôm trọn.” Thẩm Bắc Hùng vừa dứt lời, Bạch tổng quản lập tức đưa từng tờ khế ước đến tay các thương nhân. Họ nhìn con số định giá trên khế ước, đúng là rất công bằng. Xem ra Thẩm Bắc Hùng đã tốn nhiều công sức, hôm nay chính thức lật bài với họ.

Có người ho khẽ một tiếng, lí nhí hỏi: “Mua hết mấy chục cửa hiệu của chúng ta, thêm cả hàng hóa có sẵn, vậy thì phải cần đến bao nhiêu ngân lượng cho vừa?”

Thẩm Bắc Hùng quay sang hướng người vừa lên tiếng, cười khà khà hỏi lại: “Các hạ nghi ngờ thực lực của ta?” Đoạn y đập tay, lập tức có mấy chục hán tử vạm vỡ bê từng hòm gỗ đỏ từ trên tầng bước xuống, đặt các hòm thẳng tắp ngay ngắn giữa đại sảnh rồi mở nắp. Đại sảnh lập tức ngập trong những tia sáng vàng óng ánh đến nhức mắt. Người trong đại sảnh đều là những thương nhân cự phú, có cảnh nào chưa từng thấy? Thế nhưng cũng hiếm ai từng thấy nhiều vàng như vậy, mọi người nhất thời đều há mồm trợn mắt. Thẩm Bắc Hùng thấy vậy cười nhạt: “Số vàng này đáng giá một trăm vạn lượng bạc, áng chừng đủ mua trọn cửa hiệu và hàng hóa của chư vị. Nếu vẫn không đủ, ta sẽ dừng cái này để đặt trước.” Nói rồi, Thẩm Bắc Hùng gỡ chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay trái đặt lên bàn. Một thương nhân kinh doanh châu ngọc râu tóc bạc trắng nhìn nhẫn ngọc từ xa, con mắt ngầu đục lập tức sáng lên một cách dị thường, lão chỉ vào nhẫn ngọc, khản giọng hỏi: “Lão hủ… có thể xem qua không?”

Thẩm Bắc Hùng ra hiệu tự nhiên, lão già lập tức đến trước bàn, cẩn thận nâng nhẫn ngọc xanh biếc như lá liễu non lên nhìn, sau đó tay và chòm râu dài ba thước của lão cùng run rẩy, lão cất giọng lẩy bẩy: “Là ngọc Long Văn, ngọc Long Văn độc nhất vô nhị, đây… đây là báu vật vô giá mà!”

Lời nói của lão khiến đám đông lại được một phen xôn xao. Dù là phú thương nhưng bọn họ cũng chỉ mới nghe nói về ngọc Long Văn trong truyền thuyết chứ ít người tận mắt được thấy, nay Thẩm Bắc Hùng có thể tùy tiện lấy ra một chiếc khiến các thương gia bất giác xúm cả lại để mở mang tầm mắt. Chỉ thấy trong chiếc nhẫn ngọc xanh biếc u lạnh như đầm sâu muôn trượng tự nhiên hình thành một con rồng nhỏ trắng ngà có đủ móng, sừng, miệng, mắt, sống động đến độ từng chiếc vảy rồng cũng rõ ràng rành mạch, khiến người ta ngờ rằng đó là một tinh linh thượng cổ bị phong ấn trong miếng ngọc này.

Nhẫn ngọc Long Văn được truyền một vòng qua tay các thương nhân, cuối cùng lại trở về tay Thẩm Bắc Hùng. Sau khi ai nấy ổn định lại chỗ ngồi, lão già nhận ra ngọc Long Văn vừa rồi mới húng hắng giọng nói: “Chúng ta không dám nghi ngờ thực lực của Thẩm lão bản, cái giá mà Thẩm lão bản đưa ra cũng rất công bằng. Có điều Ôn Ngọc Các của lão hủ là cơ nghiệp tổ tiên, không có ý định mua bán, vì vậy ông có nhiều tiền hơn nữa cũng không liên quan đến lão hủ. Lão hủ chỉ muốn biết, nếu chúng ta không đồng ý với yêu cầu của ông, Thẩm lão bản sẽ đối phó với chúng ta thế nào?”

Thẩm Bắc Hùng dửng dưng đáp: “Đối với Thẩm mỗ, trên thương trường chỉ có hai loại người, một là người hợp tác, hai là đối thủ. Đối với đối thủ, Thẩm mỗ trước giờ đều đuổi cùng giết tận, quyết không cho đường lùi.” Nói tới đây, Thẩm Bắc Hùng đủng đỉnh cười: “Tin rằng sẽ có người bằng lòng hợp tác với ta, bán lại thương hiệu cửa tiệm cho Thẩm mỗ, lúc đó chúng ta ai dựa thực lực người nấy cùng so tài cao thấp.”

Các thương nhân bất giác đưa mắt nhìn nhau, đây đâu phải thủ đoạn một nhà buôn nên dùng, Thẩm Bắc Hùng cũng quả thực không giống kẻ làm ăn chân chính. Nhưng chính kiểu người này lại là kẻ đáng sợ nhất với những người buôn bán lương thiện. Họ biết nếu liên kết lại, thực lực cũng chưa chắc kém Thẩm Bắc Hùng, nhưng để mấy chục thương nhân lấy chữ lợi làm đầu liên kết với nhau e rằng còn khó hơn lên trời, sớm muộn cũng bị Thẩm Bắc Hùng chọc phá từng người. Thương nhân coi trọng nhất là lợi, đứng trước lợi ích sắp bị tổn hại khó tránh khỏi do dự, có vài người đã mang lòng khuất phục, dù gì cái giá Thẩm Bắc Hùng đưa ra cũng hợp tình hợp lý. Có người còn nghĩ ăn may rằng: Tên người Bắc này hiển nhiên không phải kẻ làm ăn chân chính, tưởng nhiều tiền là có thể muốn làm gì thì làm, nếu bán cửa hiệu cho y với giá cao, chưa biết chừng tương lai y có thể chết vì lỗ.

Mọi người đều có những tính toán riêng, nhất thời không ai lên tiếng. Đúng lúc này, chợt nghe thấy một người sợ sệt chất vấn: “Kim Lăng là trọng trấn của Giang Nam, can hệ tới sự yên bình của cả dải Giang Triết, Điền đại nhân lẽ nào để cho ngươi nhiễu loạn thương nghiệp Kim Lăng?” Thẩm Bắc Hùng không nhìn thương nhân vừa dám chất vấn mình, chỉ chậm rãi bước tới bên cửa sổ, nhìn tòa lầu cao phía đối diện nhạt giọng ra lệnh: “Nó che mất tầm nhìn của ta, phá đi.”

Bạch tổng quản ứng tiếng chạy xuống dưới lầu. Lát sau đã thấy vô số thợ thuyền ùa ra từ bốn phương tám hướng tức tốc vây lấy tòa lầu cao hai tầng ấy. Họ bất chấp thời tiết nóng bức, lập tức bắt tay dỡ nhà, trong chớp mắt tòa lầu cao đã thấp xuống dần, chỉ còn lại tường vỡ ngói tàn, mau chóng trở thành một đống hoang phế.

Các thương nhân kinh hãi há mồm trợn mắt. Mọi người đều biết tòa thanh lâu nổi tiếng Kim Lăng ở phía đối diện cũng giống tửu lầu nơi họ đang đứng, đều là những sản nghiệp bí mật mà tri phủ Kim Lăng Điền đại nhân tự hào bấy lâu, nhưng Thẩm Bắc Hùng nói dỡ là dỡ, kể cả trước đó đã ngầm ra giá cao mua lại từ tay Điền đại nhân, nhưng cũng thể hiện rõ sự tự tin không hề úy kỵ Điền đại nhân, cũng như sự quyết đoán không đặt nặng tổn thất trên vạn lượng bạc.

“Cũng không còn sớm,” Thẩm Bắc Hùng lạnh lùng nói: “những lão bản bằng lòng chuyển nhượng cửa hiệu xin hãy ở lại bàn bạc cụ thể với Bạch tổng quản, những người không muốn bán mời cứ tự nhiên, thứ cho Thẩm mỗ không tiễn.”

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, đi hay ở nhất thời khó quyết. Đúng lúc này, Bạch tổng quản tay dâng một tấm thiệp rảo bước lên lầu, đến bên cạnh Thẩm Bắc Hùng nhỏ giọng nói: “Chủ nhân, Tô Mộ Hiền ở Kim Lăng cầu kiến.”

Thẩm Bắc Hùng cau mày: “Chẳng phải ta đã nói ngoài khách ta mời thì không gặp ai sao?” Bạch tổng quản cúi thấp xuống, kề sát tai y thì thào: “Là Tô lão gia của Tô gia Kim Lăng, Kiếm Tiếu Giang Nam Tô.”

Luận về tiền tài của cải hay địa vị trong võ lâm, ở Giang Nam khó ai có thể bì được Tô gia, Tô lão gia lại chính là tông chủ tiền nhiệm của Tô gia danh tiếng hiển hách, hiện giờ tuy đã không màng sự vụ trong nhà, nhưng người tự phụ như Thẩm Bắc Hùng cũng không dám xem thường, vội gật đầu ra hiệu: “Mau mời vào!”

Bạch tổng quản lập tức lao xuống lầu hô lớn: “Xin mời Tô lão gia!”

Lời vừa dứt, chỉ thấy một lão già áo trắng thần thái phiêu dật sải bước lên lầu, các thương nhân vội vàng chào hỏi thi lễ. Tô Mộ Hiền khẽ gật đầu đáp lại, song ánh mắt chỉ hướng về Thẩm Bắc Hùng. Không đợi Bạch tổng quản giới thiệu, Thẩm Bắc Hùng từ xa đã ôm quyền chào hỏi: “Ngọn gió nào đưa Tô lão gia tới đây thế này, Thẩm mỗ mới đến Kim Lăng, tự nhủ mình chỉ là một thương nhân nhỏ bé, chưa có tư cách bái kiến Tô lão gia, vì vậy không dám mạo muội quấy rầy, không ngờ Tô lão gia lại di gót ngọc tới gặp tại hạ, thật khiến Thẩm mỗ ngỡ ngàng vạn phần!”

“Thẩm lão bản không cần khách khí,” Tô Mộ Hiền vuốt râu điềm đạm nói: “Lão phu đã không màng chuyện thế tục, hôm nay mạo muội tới chẳng qua vì nhận sự ủy thác của một người, đến đưa thiệp mời cho Thẩm lão bản mà thôi.”

Thẩm Bắc Hùng kinh ngạc ra mặt: “Là người nào có thể nhờ được Tô lão gia đến chỉ để đưa thiệp hộ?”

Tô Mộ Hiền cười khà khà nói: “Nếu không phải lão phu, người khác muốn gặp ngươi chắc rằng không dễ. Thiệp mời tại đây, ngươi xem là biết.” Nói rồi lão già móc trong ngực áo ra một phong thư, không đợi Bạch tổng quản tới nhận đã búng tay lia sang cho Thẩm Bắc Hùng. Thẩm Bắc Hùng bất động thanh sắc, đến khi phong thư bay vù qua khoảng cách mấy trượng, chỉ còn cách ngực chưa đầy một thước mới giơ tay bắt lấy. Tô Mộ Hiền khẽ gật đầu: “Hảo thân thủ!”

Thẩm Bắc Hùng cười nhạt, giơ tay mời: “Mời Tô lão gia ngồi, cho phép tại hạ được kính rượu bồi tội với lão nhân gia.”

“Không dám quấy rầy, thiệp đã đưa tới, lão hủ cũng xin cáo từ!” Tô Mộ Hiền nói xong chắp tay quay người đi mất. Mãi đến lúc lão đi xa, Thẩm Bắc Hùng mới từ từ xé phong thư, mở thiệp mời ra xem, trên thiệp vỏn vẹn mấy hàng chữ ngắn ngủn: “Ngoại ô Kim Lăng, trong Vọng Giang Đình, đã bày sẵn ấm trà nhạt, gảy khúc nhạc tao nhã, chờ Thẩm lão bản tới đình, cùng thưởng mây gió, ngắm hoàng hôn trên sông.”

Lạc khoản dưới cùng đề hai chữ thanh thoát bay bổng - Vân Tương.

Khi nhìn thấy hai chữ cuối cùng này, tay Thẩm Bắc Hùng cầm thiệp bất chợt run run, nhưng y không hề lên tiếng. Bạch tổng quản thấy sắc mặt y đổi khác, vội thấp giọng hỏi: “Chủ nhân, là thiệp mời của ai vậy?” Thẩm Bắc Hùng đưa thiệp mời cho Bạch tổng quản, đờ đẫn nhìn tòa lầu đổ nát ngoài cửa sổ, lẩm bẩm nói: “Ngươi tự xem đi.”

Bạch tổng quản nhận lấy thiệp, vừa nhìn đã thất thanh kêu khẽ: “Là công tử Tương! Thiên Môn công tử Tương!”

“Chuẩn bị ngựa! Chúng ta lập tức tới Vọng Giang Đình ở ngoại ô!” Nói đoạn, Thẩm Bắc Hùng nhìn sắc trời, thoáng cái sắc mặt y đã trấn định như cũ. Bạch tổng quản đảo mắt nhìn các thương nhân đang không hiểu sự tình, thấp giọng hỏi: “Còn bọn họ?” Thẩm Bắc Hùng xua tay: “Hôm nay hẵng cứ gác lại chuyện mua bán, để họ về đợi tin.”

Các thương nhân ngơ ngơ ngác ngác được Bạch tổng quản tiễn khỏi tửu lầu, dọc đường luôn miệng hỏi thăm lẫn nhau, không biết công tử Tương rốt cuộc là nhân vật thế nào mà có thể khiến Thẩm Bắc Hùng mất phong thái như vậy? Phần lớn họ đều mù tịt, hiển nhiên chưa từng nghe qua cái tên này, chỉ có lão bản của Ôn Ngọc Các lẩm bẩm với vẻ đăm chiêu: “Lão hủ đã từng nghe nói về công tử Tương, nhưng không biết y là người phàm hay thần tiên, là thánh nhân hay ma quỷ?”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3