Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 48

1

Bái

Nước trong nồi đang sôi sùng sục, hơi nước bốc lên trắng mờ như sương khiến đồng hoang trong sắc chiều càng thêm mờ ảo. Ba Triết bỏ thêm mấy nhánh củi vào đống lửa, sau đó mới rút trủy thủ tiến về con mồi đang nằm bất động.

Thư Á Nam hai mắt vô hồn nhìn vào hư không, ánh mắt cơ hồ không mảy may giận dữ. Từ lúc ngã gục trước mặt Ba Triết, Thư Á Nam đã trở nên như vậy. Mặc cho Ba Triết xốc nàng đi khỏi thành Hàng Châu đến một khu rừng rậm hẻo lánh không bóng người ở ngoại ô, nàng không nói nửa lời, cũng không chống đối, thân xác mềm nhũn chẳng khác nào đã mất đi linh hồn.

Dựa vào kinh nghiệm nhiều năm chiến đấu với thợ săn, bản năng mách bảo Ba Triết đâu mới là nơi bí mật ít người đặt chân đến. Y nhận thấy khu rừng rậm này quanh năm chẳng ai qua lại, là nơi thích hợp để yên tâm hưởng thụ bữa ăn thịnh soạn.

“Ta phải ăn thịt ngươi!” Ba Triết độc địa lên tiếng: “Không phải ta thích ăn thịt người, mà vì ngươi đã sỉ nhục và lừa gạt ta, khiến ta phải ăn thịt ngươi mới có thể giải tỏa nỗi hận trong lòng.” Nói đoạn, Ba Triết xé một mảnh tay áo Thư Á Nam, vừa huơ trủy thủ trên cánh tay trắng ngần, vừa hằn học hứa hẹn: “Ta sẽ không để ngươi chết ngay, chí ít cũng phải ăn ba ngày ba đêm, ăn sạch tay chân rồi cuối cùng mới ăn tới lục phủ ngũ tạng!”

Thấy Thư Á Nam vẫn không có phản ứng, Ba Triết thoáng ngạc nhiên: “Ngươi không sợ ư?” Đôi mắt Thư Á Nam vẫn mông lung, y không tin có người không sợ nỗi đau thể xác, bèn ấn mạnh lưỡi trủy thủ, lập tức cứa rách cánh tay Thư Á Nam. Máu tươi chảy xuống, cánh tay trắng ngần như tuyết khiến màu máu đỏ càng thêm nhức mắt.

Thư Á Nam khẽ run cánh tay, nàng cuối cùng cũng nhìn xuống tay mình rồi lại nhìn lên Ba Triết mắt đang sáng quắc, mọi ý niệm đều đã tan thành mây khói, uể oải nói: “Ngươi giết ta đi.”

Vẻ hoang vu đan kết từ nỗi tuyệt vọng và bi thương trong ánh mắt Thư Á Nam khiến Ba Triết rùng mình. Y đã mất hoàn toàn niềm khoái cảm báo thù và ngược đãi giết người, chỉ có cảm giác muốn chảy nước mắt. Ba Triết đột nhiên thu lại trủy thủ, cười hà hà nói: “Ba Triết ta trước giờ ân oán phân minh, khi xưa ngươi lừa được ta xong vốn có cơ hội giết ta nhưng lại tha cho ta, giờ ta cũng tha cho ngươi một lần. Bắt đầu từ bây giờ cho đến khi trời sáng, ta sẽ để ngươi trốn thật xa, đợi đến khi ta lại bắt được ngươi rồi từ từ thưởng thức cũng không muộn.”

Thấy Thư Á Nam hoàn toàn không có ý trốn chạy, Ba Triết lấy làm lạ: “Ta đã cho ngươi cơ hội, nếu ngươi không trốn, sau khi trời sáng ta sẽ nấu ngươi nhắm rượu!”

Lời vừa dứt, sau lưng y chợt có tiếng hỏi điềm nhiên: “Đến lúc đó liệu có thể cho ta một chén không?”

Ba Triết giật bắn mình, vội rút đao bật dậy, y quay đầu nhìn, chỉ thấy sâu trong khu rừng tăm tối nhập nhòe có một nữ tử áo trắng phấp phới, bóng đêm mờ ảo khiến y không thể nhìn rõ tuổi tác hay diện mạo xấu đẹp, cách ăn bận không giống ni cô đạo cô, cũng không giống nữ tử tục gia, nhưng lại toát ra vẻ siêu phàm thoát tục. Khí độ phong thái trác tuyệt ấy vốn sẽ khiến người ta choáng ngợp như gặp tiên nữ Dao Trì, nhưng Ba Triết lại giật bắn mình, toát mồ hôi lạnh.

Trước đây vì thường phải tránh né sự truy sát của thợ săn, Ba Triết đã rèn luyện lục thức và trực giác đến độ nhạy bén hơn cả hồ ly giảo hoạt, nhưng nữ tử kia xuất hiện đột ngột sau lưng mà y không hề phát hiện, chuyện này khiến y cảm thấy kinh hoàng và sợ hãi tột độ, chẳng khác nào gặp phải yêu tinh quỷ quái. Ba Triết rút loan đao, rít giọng quát hỏi: “Kẻ nào?”

Nữ tử từ tốn đi tới, bước chân thanh thoát nhẹ nhõm như nước chảy mây trôi, tuy từ tốn nhưng lại mang đến cảm giác không gì có thể ngăn chặn. Trang phục của nữ tử có phần ngả màu cũ kỹ, thần thái trên mặt đượm nét phong sương, nhưng vẫn toát ra vẻ thanh khiết không vướng bụi trần, tay không tấc sắt song vẫn khiến Ba Triết cảm thấy một áp lực vô hình ập tới.

“Đứng lại!” Ba Triết tụ khí đan điền, quát lớn một tiếng, loan đao hừng hực khí thế, nữ tử cuối cùng đứng lại trước mặt y. Người này bề ngoài chỉ độ tam tuần, nhưng ánh mắt trong veo lạnh lẽo lại có nét lãnh đạm sau khi nếm đủ phong sương, khuôn mặt không son phấn, đẹp đẽ mà không diễm lệ, thanh tú mà không yểu điệu, khiến người nhìn bất giác sinh lòng ngưỡng mộ pha lẫn tự ti.

Ba Triết gầm gừ quan sát nữ tử, cùng lúc ấy nữ tử cũng nhìn Ba Triết, khẽ than: “Mười tám năm không về Trung Nguyên, không ngờ Trung Nguyên lại có hạng người hung ác sát nghiệp trầm trọng thế này, xem ra võ lâm Trung Nguyên chẳng còn mống nào nữa rồi.”

Sau khi Ba Triết vào Trung Nguyên, để tránh bị chú ý, y đã ngụy trang ăn bận nói chuyện hệt như người Hán bình thường. Thấy nữ tử nói vậy, Ba Triết cười gằn một tiếng: “Khẩu khí lớn thật đấy, sống đến bây giờ cũng chưa từng có nữ nhân nào dám ăn nói như vậy trước mặt ta. Vừa hay nước trong nồi đang sôi, đại gia ta cũng chưa có đồ nhắm rượu, ngươi đến thật đúng lúc.” Đoạn y đạp bước tiến lên trước, lập tức bức nữ tử vào vòng uy hiếp của loan đao.

Bất cứ ai gặp phải sự uy hiếp này, cơ thể cũng đều sinh ra phản ứng bản năng, phản ứng này sẽ ảnh hưởng tới trường khí xung quanh đối phương. Thông qua cảm nhận những biến đổi nhỏ nhặt của trường khí xung quanh mình, Ba Triết có thể phán đoán ra võ công của đối phương cao hay thấp, thậm chí biết rõ tâm trạng thay đổi của đối thủ, là căng thẳng hay sợ hãi, ung dung hay cảnh giác. Nhưng lần này y đã thất bại, đối phương dường như không tồn tại.

Nữ tử đối mặt với sự đe dọa của Ba Triết chỉ điềm nhiên cười nhạt: “Phật ta từng cắt thịt cho chim ưng ăn, không tiếc thân cho hổ, thân xác này của ta vốn dĩ để ngươi ăn cũng không hề gì, có điều ngươi không ở vào cái khó của loài ưng hổ không có thức ăn, mà lại muốn ăn thịt người, quả thực tội không thể tha. Niệm tình ngươi còn chút tính thiện cuối cùng, ta tha cho lần này, cút đi!”

Ba Triết bật cười ha hả, sát khí bùng lên. Trong tiếng cười lớn y rút xoẹt đao, lần đầu tiên mượn tiếng cười che đậy để đánh lén đối thủ, vì trong lòng y đã nảy sinh sợ hãi, đó là trực giác hình thành trong trăm nghìn lần trốn chạy thoát thân.

Hai tay áo của nữ tử áo trắng vũ động như làn nước chảy, ống tay áo trái cuộn lại như lốc xoáy quấn chặt loan đao đang bổ tới của Ba Triết, ống tay áo phải phất ra như con hồng thủy ào ạt liên miên không dứt. Ba Triết chỉ cảm thấy ống tay áo của nữ tử như dòng nước len lỏi vào từng ngóc ngách, mặc song chưởng của y liên tiếp đánh vào cũng không thể ngăn chặn hay chống đỡ được. Mười tám chiêu Lưu Vân Tụ nhanh tới mức như mới xuất một chiêu sượt qua ngực Ba Triết, nữ tử thu lại tay áo, quay người nhìn sang Thư Á Nam đang nằm trên đất.

Ba Triết vẫn cầm loan đao đứng yên tại chỗ, thấy nữ tử quay lưng về phía mình, y chậm rãi vung đao định chém vào gáy đối phương, ai ngờ còn chưa phát lực đã cảm thấy âm kình của mười tám chiêu Lưu Vân Tụ âm ỉ bộc phát trong người. Các khớp trên người bất giác kêu răng rắc, cơ thể mềm nhũn ngã xuống đất, sức lực toàn thân chớp mắt biến mất sạch, cả người đổ nhào như túi vải dốc ngược.

Nữ tử áo trắng hoàn toàn không để tâm đến sự tồn tại của Ba Triết, ánh mắt lướt qua khuôn mặt Thư Á Nam dưới đất, khẽ thở dài: “Lại là một kẻ si dại đau khổ vì tình, nỗi khổ tình ái thật như biển rộng mênh mông, không ai có thể vượt qua sao?”

Thư Á Nam hai mắt mông lung, không để lời nào lọt tai. Ba Triết cố gượng dậy, rít hỏi nữ tử áo trắng: “Đây là thứ võ công gì?”

Nữ tử áo trắng cười nhạt với y: “Đây là Lưu Vân Tụ, muốn học không? Ta có thể dạy ngươi.”

Ba Triết sững người, ngỡ mình nghe nhầm. Nữ tử áo trắng lại nói: “Ta đã nói tha cho ngươi, dĩ nhiên sẽ không hại ngươi. Nhưng trong ánh mắt của ngươi tràn ngập thù hận và oán độc, nếu ngươi muốn báo thù, sợ rằng dưới gầm trời này không có mấy người giúp nổi ngươi đâu. Hy vọng duy nhất của ngươi là bái ta làm sư phụ, học công phu của ta để báo thù ta. Tuy bản môn chưa từng thu nhận nam đệ tử, nhưng ta đã vi phạm môn quy từ lâu rồi, thu nhận một nam đệ tử cũng chẳng đáng gì.”

Ba Triết cảm thấy sức lực toàn thân dần trở về cơ thể, âm kình của Lưu Vân Tụ vừa rồi chỉ gây chấn động tới các khớp trên người, khiến y tạm thời mất đi sức lực, hoàn toàn không đả thương y. Điều này còn khiến y chấn động mạnh hơn chuyện bị đốn gục ban nãy, y thắc mắc nhìn lại nữ tử thần bí trước mặt, quát hỏi: “Tại sao? Tại sao lại nhận ta làm đệ tử?”

Nữ tử áo trắng cười nhạt: “Vì ta muốn thử xem liệu có thể điểm hóa được kẻ không từ thập ác như ngươi không. Ngươi cũng có thể thử ra tay báo thù trong lúc ta sơ ý. Nếu ngươi muốn chờ nâng cao võ công, quang minh chính đại khiêu chiến với ta thì cả đời này không có hy vọng gì đâu, đây là cơ hội duy nhất của ngươi.”

Ba Triết gầm gừ nhìn nữ tử ấy hồi lâu, cuối cùng mới chầm chậm quỳ xuống đất, nghiến răng ken két nói: “Ba Triết nguyện bái bà làm sư phụ!” Đoạn y khấu đầu vái, chẳng buồn che đậy oán độc và thù hận trong ánh mắt mình.

Nữ tử ngồi xếp bằng bên đống lửa, tao nhã vươn vai duỗi lưng, nói mà không quay đầu lại: “Đi kiếm chút thịt rừng cho sư phụ, ta đói rồi.”

Ba Triết chẳng nói chẳng rằng, nhặt loan đao lên lao vút đi. Nữ tử áo trắng lại nhìn sang Thư Á Nam vẫn nằm bất động trên đất, điềm đạm nói: “Ta muốn kể cho ngươi nghe một câu chuyện, nghe xong câu chuyện này nếu ngươi vẫn muốn chết, ta sẽ để Ba Triết giúp ngươi toại nguyện, tránh cho ngươi sống trên đời chịu khổ.”

Câu chuyện! Lại là câu chuyện! Thư Á Nam thấy lòng xót xa, câu chuyện của Cận Vô Song đã khiến nàng mất đi thứ quý nhất đời, không biết câu chuyện này sẽ khiến nàng mất thêm cái gì? Thế nhưng, hiện giờ nàng cũng chẳng còn gì để mất.

“Một ngày nọ, Trương Quả Lão và Lữ Động Tân cùng trở về sau khi dự tiệc bàn đào của Vương Mẫu, đột nhiên nghe thấy dưới trần gian có tiếng hát vui rộn rã.” Nữ tử áo trắng bỏ tay nải trên lưng xuống, chẳng đợi nghe nàng mà kể: “Hai vị tiên liền vén mây xem thử, thì ra là một tên ăn mày đang nằm phơi nắng trên phố, có lẽ y vừa được ăn no, nên tiếng hát cũng chứa đầy niềm vui như trẻ nhỏ. Hai tiên vừa trở về từ hội bàn đào, lòng đều mang chút hụt hẫng sau khi tan tiệc, chợt thấy ghen tị với niềm vui của y. Lữ Động Tân khinh thị nói: ‘Một tên ăn mày tay trắng, chẳng biết vì lẽ gì mà vui thế?’ Trương Quả Lão cười nói: ‘Chính vì y tay trắng nên mới vui.’ Lữ Động Tân thấy khó hiểu bèn hỏi: ‘Tay trắng mà lại vui? Lời nói của đạo huynh đúng là cao thâm khó đoán.’ Trương Quả Lão cười khà khà bảo: ‘Nếu đạo huynh không tin, chúng ta thử đặt cược nhé’.”

Nữ tử áo trắng kể tới đây chợt bật cười: “Thần tiên đều là những kẻ ưa bày ra mấy trò đùa ác ý, không thích người phàm tục tuy thấp kém nhưng lại vui vẻ hơn họ. Hai tiên đạp mây hóa thành hai viên ngoại giàu có đến trước mặt tên ăn mày, Trương Quả Lão nhặt viên đá dưới đất, dùng phép hóa thành một nén bạc, xem như tiền bố thí ném vào bát của tên ăn mày. Tên ăn mày thất kinh, nhặt nén bạc lên cắn thử, sau đó lại tát mấy phát vào mặt mình, đến khi tin nén bạc là thật, y cũng không phải nằm mơ, tên ăn mày lập tức lấy áo che nén bạc rồi chạy mất.”

Nữ tử áo trắng quay sang hỏi Thư Á Nam: “Ngươi biết y đi đâu không?” rồi không đợi Thư Á Nam hả lời bà ta lại cười nói: “Y chạy về miếu hoang mình tá túc để giấu bạc trước tiên, giấu lên giấu xuống bảy tám chỗ mới tạm yên tâm, sau đó y lại buồn bực vì chuyện tiêu nén bạc này thế nào. Món ngon vật lạ, áo đẹp ngựa mới, cô nương mặt hoa da phấn… những thứ vốn nghĩ cũng không dám nghĩ lúc này cứ xoay mòng trong đầu y, tính đi tính lại, y quyết định mua y phục cho ra dáng bản thân trước, sau đó sẽ mua một căn nhà nhỏ rồi chuộc một kỹ nữ nhan sắc hết thời về làm vợ. Thế là qua một đêm tính toán cặn kẽ, y đã sắp xếp xong nửa đời còn lại. Hôm sau trời còn chưa sáng, y đã cầm bạc đến tiệm kim ngân để đổi thành bạc lẻ đi mua những thứ nằm trong kế hoạch, ai ngờ lại bị tiểu nhị trong tiệm đuổi đánh ra ngoài. Thì ra sau một đêm, phép thuật của tiên gia hết mầu nhiệm, nén bạc đã biến lại thành viên đá.”

Nữ tử áo trắng nhìn Thư Á Nam, nở một nụ cười đầy ngụ ý: “Ngươi biết về sau tên ăn mày đó thế nào không? Y phát điên, gặp ai cũng nói ta từng có một nén bạc lớn, nhưng chưa kịp tiêu đã biến thành đá. Nếu lúc đó tiêu luôn thì bây giờ ta đã có vợ hiền con ngoan rồi!” Lời nói tới đây, nữ tử nọ khẽ thở dài: “Từ đó về sau, tên ăn mày luôn sống trong phiền não và uất hận, mãi mãi mất đi niềm vui. Thực ra từ đầu đến cuối, y cũng không mất đi thứ gì, nhưng một trò đùa của thần tiên đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của y. Ngươi biết tại sao không?”

Thư Á Nam mới đầu còn bối rối, nhưng vốn tính thông minh nhạy bén, nàng dần hiểu ra ngụ ý trong câu chuyện của nữ tử áo trắng. Thư Á Nam nhìn vào hư không lẩm bẩm: “Ta chính là tên ăn mày ấy, cuộc sống trêu đùa ta. Ta vốn chẳng có gì, nhưng một khi lòng đã yêu, khổ đau cũng sẽ tới.”

Nữ tử áo trắng vỗ tay cười nói: “Ngươi thông minh hơn ta tưởng, có thể hiểu ngay tầng ý nghĩa này, quả nhiên không phụ nhãn quang của ta. Khá lắm, người trong lòng ngươi chính là nén bạc được rồi mất của tên ăn mày, cuộc sống của ngươi vốn không có y, hà tất phải vì y mà sầu khổ? Nhớ kỹ, tâm trống thì không sầu, tâm sầu thì không trống.”

“Tâm trống thì không sầu, tâm sầu thì không trống!” Thư Á Nam thất thần nhìn khoảng không xa xăm, đờ đẫn hỏi: “Nhưng, phải làm thế nào mới được?”

Nữ tử áo trắng mỉm cười: “Quên đi! Quên đi nén bạc số phận đã cho ngươi, nhưng chưa bao giờ thuộc về ngươi.”

“Quên?” Thư Á Nam ngây người, nước mắt bỗng ứa ra: “Nhưng kiếp này sao ta có thể quên được huynh ấy?”

“Bái ta làm sư phụ.” Nữ tử áo trắng mỉm cười, như Quán Thế Âm Bồ tát mỉm cười phất liễu: “Ta sẽ dạy ngươi quên.”

Thư Á Nam nhìn chằm chằm vào nữ tử áo trắng, ánh mắt trong veo thuần khiết của người ấy cho nàng một tia hy vọng mong manh. Cuối cùng nàng chống người dậy quỳ xuống, chua xót nói: “Đệ tử Thư Á Nam nguyện bái người làm sư phụ để học cách lãng quên.”

Nữ tử áo trắng đỡ Thư Á Nam dậy, cười khẽ: “Gia nhập môn hạ của ta thì phải quên tình, quên tính, quên sống, quên chết. Tuy không phải xuất gia làm ni cô, nhưng cũng gần như thế, ngươi phải nghĩ thật kỹ!”

Thư Á Nam nghiến răng đáp: “Đệ tử sẽ cố gắng quên!”

Nữ tử áo trắng gật nhẹ đầu: “Muốn quên thì phải bắt đầu quên từ cái tên của chúng mình, hơn nữa trong tên nữ nhi lại có chữ ‘Nam’, quả thực không hay, vi sư sẽ đổi tên cho con trước.”

Thư Á Nam thưa: “Xin sư phụ ban tên!”

Nữ tử áo trắng thoáng nghĩ ngợi: “Ta ở bối phận chữ Diệu, con sẽ là bối phận chữ Thanh. Con họ Thư, gọi là Thư Thanh Hồng, được chứ?”

“Đa tạ sư phụ ban tên!” Thư Á Nam từ từ ngẩng đầu, lòng thầm nhủ: “Từ nay về sau, xem như Thư Á Nam đã chết, mọi chuyện xảy ra trước đây không còn liên quan gì tới ngươi. Ngươi tên Thư Thanh Hồng, ngươi phải cố quên đi quá khứ, quên đi tất cả mọi chuyện! Quên đi… huynh ấy!”

Ba Triết không thẹn là cao thủ sinh tồn nơi hoang dã, y mau chóng xách về một con thỏ và một con gà rừng đã lột rửa sạch sẽ. Nữ tử áo trắng vẫy tay gọi y, chỉ vào Thư Á Nam nói: “Đồ nhi, mau đến bái kiến sư tỷ của con.”

Ba Triết kinh ngạc nhìn Thư Á Nam lúc này đã ngồi dậy, lại nhìn sang vị sư phụ y hận tận xương tủy, phẫn uất hỏi: “Ta lớn hơn ả, lại nhập môn trước, tại sao phải gọi sư tỷ?”

Nữ tử áo trắng đủng đỉnh cười đáp: “Môn phái của ta ta làm chủ, quy củ khác người. Từ nay về sau tất cả những đệ tử ta thu nhận, ai cũng đều là sư tỷ của con, nhớ chưa?”

Ba Triết đỏ phừng mặt, điên tiết vì quy củ oái oăm ấy, nhưng nghĩ lại mình nhận người này làm sư phụ cũng không phải vì muốn gia nhập môn phái quỷ quái của bà ta thật, y đành nghiến răng nhịn nhục, ôm quyền qua loa xem như đã hành lễ với Thư Á Nam, sau đó vác thỏ và gà đi nấu. Lát sau, thỏ gà đều chín, Ba Triết múc đầy bát đưa cho nữ tử áo trắng và Thư Á Nam trước, cung kính bưng hai tay chẳng khác nào một đệ tử mới nhập môn thực thụ đang hiếu kính sư phụ và sư tỷ mình.

Nữ tử áo trắng tuy giống người xuất gia, nhưng không kỵ ăn tanh. Chẳng bao lâu sau, ba người dùng xong bữa tối bèn nghỉ ngơi trong rừng. Thư Á Nam ngủ sát đống lửa để sưởi ấm, Ba Triết rúc vào một gốc cây cạnh đó, dựa người vào thân cây ngáy o o. Nữ tử áo trắng thì nhảy lên cành cây, nằm trên một nhánh cây xù xì to bằng ngón tay, người nhẹ bẫng đung đưa, thật không hiểu sao bà ta có thể nằm yên trên ấy.

Nửa đêm, Ba Triết hé mắt nhìn Thư Á Nam đã ngủ say bên đống lửa, nghe hơi thở mảnh mà sâu của nữ tử áo trắng đang nằm trên nhánh cây, hiển nhiên đã say giấc nồng. Y nghe ngóng thêm một lúc rồi mới nhẹ nhàng đứng dậy, tay cầm loan đao rón rén đi tới dưới gốc cây, y không thể chịu đựng người sư phụ này thêm khắc nào nữa, chỉ mong sớm kết liễu đời bà ta.

Đường đao nhanh như điện đúng, Ba Triết chắc mẩm với khoảng cách này, không ai có thể né được đường đao tất sát của y. Chẳng ngờ vừa xuất đao, y chợt cảm thấy khuỷu tay tê rần, loan đao tuột khỏi tay, lướt qua chóp mũi nữ tử áo trắng rồi cắm thẳng vào thân cây. Ba Triết cúi đầu nhìn, phát hiện huyệt đạo ở khuỷu tay vừa rồi bị một nhánh cây dài quật nhẹ, một đầu nhánh cây nằm trong tay nữ tử áo trắng. Bà mở mắt nhảy xuống đất, vung nhánh cây đánh tới tấp vào mặt Ba Triết. Ba Triết lúc đầu còn cố tránh, sau thấy tránh sao cũng không thoát, y nghiến răng đứng yên tại chỗ không nói một lời, mặc cho mình bị đánh bầm dập.

Không biết đánh được bao lâu nữ tử áo trắng mới chịu dừng tay, nhìn Ba Triết tủm tỉm cười hỏi: “Có biết vì sao sư phụ đánh ngươi không?”

Ba Triết ngờ nghệch lắc đầu, nữ tử áo trắng giận dữ nói: “Ngươi thật là, muốn giết ta cũng phải biết động não chứ, thế thì ta mới cảm thấy ít nhiều đe dọa. Kiểu xách đao xông thẳng tới như ngươi, ta chỉ muốn một đao chém chết ngươi luôn cho rồi, sao lại nhận một tên đệ tử ngu ngốc như ngươi chứ?” Dứt lời, nữ tử áo trắng lại nhảy lên nhánh cây, dặn vọng xuống: “Trước khi nghĩ ra thủ đoạn nào độc hơn thì đừng có đến quấy rầy sư phụ nghỉ ngơi nữa. Ngày mai chúng ta còn phải gấp rút lên đường đấy!”

Ba Triết ngơ ngẩn nhìn “sư phụ” thản nhiên ngủ, không hiểu bà ta là người hay yêu ma. Y đã tung hoành khắp thảo nguyên ngần ấy năm, chưa từng gặp đối thủ, vậy mà lúc này lại bị một nữ nhân nắm thóp trêu ngươi, khiến lòng bất giác nảy sinh cảm giác thất bại nặng nề chưa từng có.

Tiếng chim sẻ ngân vang, trời dần chuyển sáng, nữ tử áo trắng tao nhã vươn vai, nhẹ nhàng nhảy xuống đất. Ba Triết đứng một đêm dưới gốc cây đột nhiên quỳ sụp xuống trước mặt, cúi đầu vái: “Sư phụ, xin hãy dạy con võ công!”

Nữ tử áo trắng cười nhạt: “Chuyện nhỏ, nhưng hiện giờ chúng ta phải lên đường. Con hẵng đi tìm lấy cỗ xe ngựa, đợi sư phụ có thời gian sẽ dạy con võ công. Với căn cơ và ngộ tính của con, khổ luyện chừng tám, mười năm chắc có thể khiến ta cảm thấy chút đe dọa.”

Ba Triết không nói hai lời, lập tức vào trong thành tìm xe. Lát sau, y đánh một cỗ xe ngựa sang trọng thoải mái tới, nữ tử áo trắng gật đầu hài lòng: “Ừm, xem ra đệ tử con cũng có chút hữu ích.”

Thư Á Nam theo sau nữ tử áo trắng bước lên xe, nữ tử áo trắng chỉ về một hướng, Ba Triết lập tức quất roi thúc ngựa lên đường. Lúc trước y một lòng muốn giết nữ tử này, nhưng khi thấy võ công tuyệt thế của bà ta, y đã thật sự muốn theo bà ta học võ.

Xe ngựa đi xuyên qua các châu phủ, hơn mười ngày sau họ tới một ngọn núi nhỏ cách xa thế tục, nữ tử áo trắng bỏ lại xe lên núi, Ba Triết và Thư Á Nam cũng theo sát phía sau. Tòa cổ tự ngói xanh tường đỏ thấp thoáng sâu trong khu rừng ở lưng núi nom thanh tịnh xa vời, chẳng khác mảnh đất tiêu dao của tiên gia.

Ba người đi men theo con đường khúc khuỷu lên núi, cuối cùng tới trước cổng ngôi chùa cổ kính, nữ tử áo trắng nhìn đăm chiêu vào ba chữ lớn “Thiên Tâm Cư” trên hiên cửa, ánh mắt đầy vẻ bồi hồi phức tạp. Bà im lặng đứng ngoài cửa hồi lâu, sau đó mới sai Ba Triết: “Đi gõ cửa cho sư phụ.”

Ba Triết bước tới gõ cửa rầm rầm, khiến một vùng yên tĩnh bỗng nhất thời náo động, một thiếu nữ áo xanh mở cửa hỏi: “Kẻ nào huyên náo ở đây?”

Nữ tử áo trắng bước lên trước nói với thiếu nữ: “Ta muốn gặp cư chủ của các ngươi.”

Thiếu nữ sững người vội nói: “Diệu Tiên cư chủ vừa qua đời cách đây không lâu, hiện giờ mọi việc trong Thiên Tâm Cư đều do đại sư tỷ phụ trách. Không biết nên xưng hô với phu nhân thế nào, để ta giúp phu nhân thông báo với đại sư tỷ.”

“Diệu Tiên… qua đời rồi?” Nữ tử áo trắng rùng mình, vẻ kinh ngạc và hụt hẫng thoáng lướt qua khuôn mặt trước giờ luôn lãnh đạm bình thản. Bà ta không nghe hết lời thiếu nữ, vung tay áo xô cửa lao vào, thiếu nữ đuổi theo muốn cản lại nhưng không tài nào đuổi kịp. Tiếng quát tháo của thiếu nữ đã kinh động các đệ tử trong cư, Diêm Thanh Vân mặt lạnh như sương dẫn các tỷ muội chặn tại cửa thứ hai, nghiêm giọng quát hỏi: “Kẻ nào dám tự tiện xông vào Thiên Tâm Cư?”

Nữ tử áo trắng dùng bước nhìn đại sư tỷ của Thiên Tâm Cư, tần ngần nói: “Ngươi là… Thanh Vân?”

Diêm Thanh Vân như gặp phải ma, hoảng hốt thối lui mấy bước, ngỡ ngàng hết sức: “Bà… bà là Tôn sư bá?”

Nữ tử áo trắng thở dài: “Mười tám năm rồi, không ngờ ngươi vẫn còn nhớ ta. Lúc đó ngươi mới vừa tròn mười tuổi thì phải, thiếu chút nữa là không nhận ra rồi.”

Diêm Thanh Vân gật đầu, vẻ mặt phức tạp, rồi đột nhiên nghiến răng nói: “Tôn Diệu Ngọc, bà đã phản bội Thiên Tâm Cư, Thanh Vân không dám gọi bà là sư bá nữa, càng không thể xem bà như trưởng bối. Thiên Tâm Cư là nơi thanh tịnh, trước giờ không tiếp đón khách ngoài, xin… bà hãy về cho!”

Nữ tử áo trắng ủ dột thở dài: “Tôn Diệu Ngọc, cái tên này ta cũng gần như quên mất rồi.” Đoạn bà ta mỉm cười nhìn Diêm Thanh Vân: “Tuy ta đã ra khỏi Thiên Tâm Cư, nhưng Diệu Tiên vẫn là sư muội của ta, ta có thể đi thăm Diệu Tiên chứ?”

Diêm Thanh Vân thoáng lưỡng lự, lắc đầu nói: “Bà là phản đồ của bản môn, chúng ta không gây khó dễ cho bà đã là tận tình tận nghĩa rồi, xin đừng khiến Thanh Vân khó xử.”

Tôn Diệu Ngọc bật cười khanh khách: “Tôn Diệu Ngọc ta suốt mười tám năm nay, vì muốn tìm kiếm ý nghĩa thật sự của thiên tâm, đã đi khắp Thiên Trúc, Ba Tư, Đại Thục, bất luận Phật giáo, Bà La Môn giáo, Xa Na giáo của Thiên Trúc hay là Bái Hỏa Giáo, Cảnh giáo, Hồi giáo của Ba Tư đều hết mực kính trọng Tôn Diệu Ngọc ta, không ngờ ở Thiên Tâm Cư này lại bị kẻ khác gây khó. Lẽ nào thiên tâm ở nơi này đã chết hết rồi sao?”

“Câm miệng!” Diêm Thanh Vân đùng đùng nổi giận: “Ngươi có thể sỉ nhục ta, nhưng không được sỉ nhục Thiên Tâm Cư!”

Tôn Diệu Ngọc cười gằn nói: “Ý nghĩa thật sự của thiên tâm là gì?”

Diêm Thanh Vân ngây người, chưa kịp đáp thì một giọng nói trong trẻo đã vang lên từ phía sau: “Thánh hiền có câu: trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm* xem chúng sinh như cá thịt. Tổ sư sáng lập Thiên Tâm Cư cảm thương trước sự vô tình vô cảm của đất trời, muốn dùng lòng từ bi của mình để khai tâm trời đất, giữ lại phần hy vọng cho chúng sinh thiên hạ. Đây chính là ý nghĩa của câu trời đất vô tâm người có tâm, ta dùng hành động chứng thiên tâm.”

Đệ tử Thiên Tâm Cư dạt về hai phía, mở lối cho một thiếu nữ áo xanh nét mặt thanh tú đang ung dung đứng sau họ. Hai mắt nàng mông lung, nhưng vẻ siêu trần thoát tục tựa hồ thiên bẩm của nàng khiến người khác vô thức sinh lòng ngưỡng mộ. Tôn Diệu Ngọc nhìn nàng hồi lâu, khẽ gật đầu nói: “Nếu thiên tâm là từ tâm, là tâm Bồ tát luyến thương thiên hạ, vậy ta nghìn dặm xa xôi đến thăm sư muội Diệu Tiên, cớ gì các người lại ra sức ngăn cản? Lẽ nào chút từ tâm này mà Thiên Tâm Cư cũng không có sao?”

Thiếu nữ áo xanh từ tốn đáp: “Không phải chúng vãn bối muốn ngăn cản, mà là Diệu Tiên sư phụ đã để lại di mệnh, đem tro cốt của người rải khắp Vong Ưu Cốc phía sau núi, không giữ lại bất cứ thứ gì khiến người sống phải tiếc thương hoài niệm, tránh phiền não và thương cảm cho tăng đồ lớp sau.”

“Diệu Tiên nói như vậy thật ư?” Tôn Diệu Ngọc run người hỏi, thấy thiếu nữ áo xanh chậm rãi gật đầu, bà bất giác ngửa mặt thở dài: “Diệu Tiên, rốt cuộc muội vẫn nhìn thấu tỏ hơn ta.” Lời vừa dứt, bà lắc mình nhẹ nhàng lao vút đi như bay.

Đứng trên đỉnh vách núi, Tôn Diệu Ngọc cúi nhìn Vong Ưu Cốc sâu thăm thẳm dưới chân, thẫn thờ nhỏ lệ. Bà ta ngạc nhiên nhìn những giọt nước mắt rơi trên tay, buồn bã than: “Tâm trống thì không sầu, tâm sầu thì không trống. Mười tám năm rồi, ta những tưởng đã quên đi cảm giác đau lòng, nhưng giờ mới hiểu, muốn đạt được cảnh giới ấy quả thực rất khó.”

Cơn gió núi lạnh như cắt thổi tung mái tóc đen nhánh phủ vai của Tôn Diệu Ngọc, cuốn bay tà áo trắng thuần khiết khiến người bà ta bồng bềnh như muốn bay theo gió. Tôn Diệu Ngọc mặc cho nước mắt giàn giụa trên má, tuyệt nhiên không để tâm đến ánh mắt kinh ngạc của Ba Triết và Thư Thanh Hồng đứng cách đó không xa. Bà ta thì thầm với u cốc: “Mười tám năm trước, tất cả mọi người đều nghĩ rằng ta phản bội môn phái vì không phục sư phụ truyền ngôi cư chủ cho muội. Dưới gầm trời này, ai mới thấu hiểu nỗi khổ trong lòng Tôn Diệu Ngọc ta?”

Đoạn bà chậm rãi rút ra một cây ngọc tiêu từ trong ống tay áo, nhẹ nhàng vuốt ve, ánh mắt đầy yêu thương: “Chúng ta từ nhỏ lớn lên bên nhau, cùng học nghệ, cùng chơi đùa. Trong mắt người khác, hai ta cạnh tranh đủ kiểu không ai nhường ai, nhưng thực ra chúng ta lại khâm phục, thương yêu nhau như tỷ muội. Lúc đó muội học gảy đàn, ta học thổi tiêu, cầm tiêu hòa tấu thật tiêu dao tự tại biết mấy. Mười tám năm trước, đáng lẽ là ta đại diện Thiên Tâm Cư đi quyết chiến với Khấu Diệm của Ma Môn, muội vì muốn ngăn cản Khấu Diệm luyện công giết người cũng như thăm dò võ công của y, đã không tiếc một thân một mình lao vào nguy hiểm tiếp cận, để xảy ra một đoạn nghiệt tình với y. Muội biết ta không thể thắng Khấu Diệm nên dù đang mang thai vẫn xin xuất chiến thay ta. Sư phụ suy nghĩ cho thiên hạ, không ngờ lại đồng ý với yêu cầu hoang đường của muội. Một là ta hận sư phụ máu lạnh, đem tính mạng của muội và đứa trẻ ra mạo hiểm, hai là hận muội để một gã nam nhân thối hủy hoại bao năm thanh tu của chính mình, ba là ta hận bản thân mù quáng theo lệnh sư phụ, mặc cho muội sinh non trong lúc quyết đấu. Mang ba mối hận này, ta chỉ còn cách rời bỏ môn phái, đi khắp chân trời góc bể tìm kiếm thiên tâm chân chính.”

Tà áo của Tôn Diệu Ngọc phấp phới, tóc bay bay trong gió núi, phiêu nhiên như một tiên tử lăng không. Bà ta than thở với u cốc: “Mười tám năm nay, ta đi khắp Tây Vực, Thiên Trúc, ngao du hết núi non trong thiên hạ mới dần hiểu ra thiên tâm ở đâu, cũng dần hiểu được những việc muội làm mười tám năm trước. Thiên tâm chính là nhân tâm, nhân tâm nếu vô tình, sao có thể chứng thiên tâm?” Nói rồi, bà chậm rãi đưa tiêu kề miệng, thì thầm: “Người xưa đã mất, khúc nhạc thành không. Diệu Tiên, ta sẽ tấu một khúc cuối cùng vì muội, từ nay không thổi tiêu nữa.”

Tiếng tiêu day dứt ai oán vang lên, chứa đựng đầy đau khổ, thương cảm và hoài niệm. Đúng lúc này, cách đó không xa cũng vang lên tiếng đàn như tiếng ngọc gieo trên đĩa, âm thanh dịu dàng hòa quyện, như ảo như mơ, ngỡ ở nơi tiên cảnh. Tôn Diệu Ngọc rùng mình, tiếng tiêu đột ngột dao động, dần trở nên bình lặng ôn hòa, sầu mà không thảm.

Tiếng đàn hòa nhịp tiêu, như hai con chim nhỏ bay lượn trong sơn cốc, tràn ngập hoan ca tự do tự tại, đồng thời cũng chất chứa tình yêu và lưu luyến khi cùng sải cánh tầng không. Một lát sau, khúc nhạc đã tắt, nhưng dư âm vẫn còn vang vọng trong sơn cốc.

Tôn Diệu Ngọc nước mắt lấm mặt, quay đầu nhìn hướng phát ra tiếng đàn chỉ thấy thiếu nữ mù lòa áo xanh đang thu lại đàn từ từ đứng dậy. Tôn Diệu Ngọc thở than: “Khúc nhạc này tuy không phải Diệu Tiên tấu, nhưng lại có được chần truyền của muội ấy, Diệu Tiên có đệ tử như vậy, xem như Thiên Tâm Cư có người kế thừa rồi!”

Thiếu nữ áo xanh từ tốn nói: “Sư phụ trước lúc lâm chung đã dặn Thanh Hà, nếu Diệu Ngọc sư bá đến thì hợp tấu cùng sư bá khúc nhạc này, và cảm tạ sư bá từ trước tới giờ luôn yêu thương, chăm sóc. Ngoài ra, sư phụ hy vọng Diệu Ngọc sư bá giữ lòng trong sáng để tầm chính đạo.”

“Giữ lòng trong sáng để tầm chính đạo?” Tôn Diệu Ngọc cười chua chát: “Tâm đã vô tình, sao chứng thiên tâm?” Bà thở dài: “Diệu Tiên, nếu muội đã quy tiên, từ nay ta sẽ không thổi tiêu nữa.” Nói rồi bà nhẹ nhàng ném tiêu ngọc xuống Vong Ưu Cốc, ánh mắt chất chứa nỗi hiu quạnh buồn thương.

Đứng trên vách núi hồi lâu, Tôn Diệu Ngọc cuối cùng ngoảnh đầu lại, nhìn thiếu nữ áo xanh lặng lẽ đứng đó không xa, hệt như không hề tồn tại. Bà ta chậm rãi đi tới chỗ thiếu nữ, nhẹ giọng hỏi: “Ngươi là đệ tử y bát của Diệu Tiên, tên gọi là gì?”

Thiếu nữ áo xanh nhẹ nhàng thi lễ: “Bẩm sư bá, đệ tử tên Sở Thanh Hà.”

“Sở Thanh Hà?” Tôn Diệu Ngọc khẽ gật đầu, sau đó lại lắc đầu: “Ta đã rời khỏi môn phái, không còn là người của Thiên Tâm Cư, hai từ sư bá thẹn không dám nhận. Nay Diệu Tiên đã mất, Ma Môn đã xâm nhập Trung Nguyên, ngươi có cách gì ứng phó không?”

Sở Thanh Hà mỉm cười điềm đạm, đáp: “Thiên tâm đã là nhân tâm, nhân tâm hội tụ thì Thái Sơn phải dời. Thiên Tâm Cư sẽ đoàn kết tất cả đồng đạo lòng còn thiện niệm chung sức khai tâm trời đất! Vì vậy Thanh Hà muốn nhờ Diệu Ngọc sư bá ra tay tương trợ vãn bối!”

Tôn Diệu Ngọc khẽ lắc đầu nói: “Ta nhàn hạ quen rồi, cũng không dám nhận trọng trách này.” Bà ngập ngùng lại hỏi: “Đồng đạo trong lòng ngươi là những ai?”

Sở Thanh Hà trầm ngâm đáp: “Có các danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang, còn cả các danh gia vọng tộc như Đường Môn, Tô gia, Nam Cung gia, và cả môn phái thần bí như Thiên Môn cùng Thiên Môn công tử Tương gần đây rất có danh tiếng.”

“Thiên Môn công tử Tương?” Tôn Diệu Ngọc khẽ cau mày: “Dọc đường ta đi đã nghe người trong võ lâm bàn tán về y không chỉ một lần, y rất có bản lĩnh sao?”

Sở Thanh Hà không trả lời thẳng, chỉ đọc mấy câu như lời vè chẳng phải vè, thơ không phải thơ: “‘Thiên Môn có công tử, linh hoạt khéo dụng tâm; lật tay thì mây tản, úp lại định càn khôn; nhàn hạ dựa tường xanh, ngồi dậy lệnh thiên quân; trên hô phong hoán vũ, dưới tung hoành nhân gian.' Đây là mấy câu lưu truyền trong giang hồ gần đây, chắc rằng Diệu Ngọc sư bá đã từng nghe?”

“Trên hô phong hoán vũ, dưới tung hoành nhân gian.” Tôn Diệu Ngọc khẽ hừ một tiếng, hoàn toàn không chú ý khuôn mặt nữ đệ tử mới thu nhận có chút biến sắc. Bà ta chắp tay nhìn về phía chân trời, trong cặp mắt điềm tĩnh thanh tịnh vụt lóe lên một tia khác thường: “Khẩu khí lớn thật! Khiến ta cũng không khỏi sinh lòng tranh cường hiếu thắng.”

Ánh chiều đã tàn, sắc trời dần chuyển tối, phía Tây chỉ còn lại tia huy hoàng cuối cùng của áng mây rực rỡ. Tôn Diệu Ngọc thả bộ thong dong xuống núi. Sau lưng bà ta có thêm hai đệ tử mới thu nhận - Ba Triết như một con sói bám sát theo và Thư Á Nam thất hồn lạc phách, cũng tức là Thư Thanh Hồng của hiện tại.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3