Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 62
6
Trao
đổi
Mơ màng không biết bao lâu, Vân Tương bị tiếng gõ cửa khe khẽ đánh thức, gã gà gật đáp, lập tức bên ngoài vang lên tiếng thông báo của Võ Trung: “Công tử, cách của công tử có hiệu quả rồi! Có người dân đến báo về tung tích của phỉ đồ cho chúng ta!”
Vân Tương lập tức tỉnh khỏi cơn ngái ngủ, mở cửa hỏi ngay: “Người ở đâu?”
“Công tử đừng vội, đợi lão nô hầu hạ công tử rửa mặt rồi hãy đi gặp khách.” Bên cạnh chợt vang lên giọng nói già nua quen thuộc, Vân Tương quay đầu nhìn, gương mặt hiện lên nụ cười ấm áp: “Tiêu bá, các người cuối cùng đã tới.”
Tiêu bá cười nói: “Không chỉ chúng tôi, công tử xem lão nô còn đưa ai tới cho công tử đây.”
Một thiếu niên rắn rỏi đôn hậu từ sau lưng Tiêu bá lách ra, mỉm cười ôm quyền chào Vân Tương: “Vân đại ca!
Vân Tương vừa thấy người này đã vui mừng ra mặt, bất giác vỗ ngực thiếu niên: “Sao đệ lại đến đây, các sư huynh trong chùa biết không? Đệ đã khỏe hẳn chưa?”
Thì ra thiếu niên chính là La Nghị lần trước vì cứu Vân Tương mà bị thương dưới chưởng của Khấu Diệm, thấy Vân Tương hỏi, cậu ưỡn ngực thản nhiên đáp: “Thương thế khỏi hẳn rồi! Mấy sư huynh trong chùa nghe nói Vân đại ca muốn đi biên ải giúp đỡ quân Trấn Tây chống lại người Ngõa Thích nên đều ủng hộ đệ đến giúp Vân đại ca. Lần trước phương trượng Viên Thông câu kết với Ma Môn, may nhờ Vân đại ca vạch trần âm mưu, mới cứu được ngôi cổ tự nghìn năm Thiếu Lâm khỏi rơi vào ma đạo. Vì vậy mấy vị sư huynh không chỉ ủng hộ đệ tới, còn bảo đệ dẫn Thập Bát La Hán đi theo cùng để giúp Vân đại ca chống giặc.” Đoạn cậu chỉ tay xuống nhà, chỉ thấy mười tám võ tăng cường tráng nhất tề chắp tay trước ngực chào Vân Tương.
Thập Bát La Hán Thiếu Lâm từng cùng La Nghị và Vân Tương kề vai tác chiến, vây đánh Khấu Diệm, vì vậy chẳng lạ gì nhau. Vân Tương vội xuống lầu hành lễ với chúng tăng, sau đó ôm quyền bảo họ: “Chư vị sư phụ có thể ra sức vì nước chống lại giặc Thát, đúng là tấm lòng từ bi lớn lao của nhà Phật, Vân Tương thay mặt cho bách tính thiên hạ cảm tạ chư vị!” Dứt lời, gã khom người vái dài.
Các tăng nhân thấy vậy lục tục hoàn lễ nói: “Công tử quá lời rồi, trừ ma diệt ác vốn là trách nhiệm của chúng ta.”
Vân Tương chào hỏi họ xong, bèn sai Võ Trung đi sắp xếp chỗ ở cho các võ tăng, sau đó kéo La Nghị, Tiêu bá vào phòng mình hỏi chuyện từ lúc chia tay, mới biết sau khi La Nghị bị Khấu Diệm đả thương, phải tĩnh dưỡng trong chùa hơn một tháng mới khỏe lại. Qua lời Khấu Diệm, La Nghị hay tin Ngõa Thích sắp xâm phạm Đại Đồng, lại biết Vân Tương quyết không khoanh tay đứng nhìn, nên sau khi thương thế lành hẳn, lập tức bẩm rõ với các trưởng lão trong chùa, xin phép đến biên thùy giúp Vân Tương chống giặc. Viên An, Viên Tường cảm kích ơn Vân Tương vạch trần âm mưu của Ma Môn, giúp Thiếu Lâm khỏi trở thành nội ứng của giặc, vì vậy bèn sai Thập Bát La Hán cùng đi với La Nghị. Sau khi La Nghị đến Đại Đồng lại gặp Tiêu bá, liền theo Tiêu bá đi tới Thập Lý Ba.
Tiêu bá biết địa vị của Minh Châu trong lòng Vân Tương, không nhịn được hỏi: “Công tử, công tử đoán ra ai là phỉ đồ bắt cóc quận chúa Minh Châu không?”
Vân Tương khẽ gật đầu: “Bắt cóc Minh Châu, vừa có thể ngăn cản Minh Châu về kinh thúc giục xin lương thảo cho quân Trấn Tây, lại có thể làm rối loạn tâm trí của Võ soái, lúc cần kíp còn có thể dùng làm con tin uy hiếp quân Trấn Tây. Nam Cung Phóng làm chuyện này để chuẩn bị cho Ngõa Thích xâm phạm biên ải, y giả danh ta hành sự chính là muốn dụ ta tới Thập Lý Ba, tránh để ta giúp Võ soái cải tiến cách bố trí phòng vệ ở biên ải.” Nói tới đây, Vân Tương cười chua chát: “Song y không biết, trong mắt Võ soái ta cũng chỉ là kẻ vô công rồi nghề.”
“Vậy hiện giờ chúng ta phải làm thế nào?” Tiêu bá bèn hỏi.
Vân Tương đáp: “Chúng ta phải đi gặp người dân đến cung cấp manh mối của phỉ đồ đã, trước khi cứu được Minh Châu, ta không có tâm trạng nào làm chuyện khác.”
Một lão già tướng mạo nhếch nhác được Võ Trung đưa vào, Vân Tương hiền hòa cười hỏi: “Nên xưng hô với lão nhân gia thế nào?”
Lão già liếm đôi môi khô khốc, sợ sệt nói: “Tiểu lão nhi họ Hà, đứng hàng thứ chín, vì vậy người khác gọi lão là Hà Lão Cửu.”
“Thì ra là Hà lão bá.” Vân Tương gật đầu: “Nghe nói lão có tin của đám phỉ đồ đó?”
Hà Lão Cửu cười khà khà: “Tiểu lão nhi vốn là thân thích của chủ khách điếm này, những lúc việc làm ăn bận rộn cũng tới đây giúp đỡ. Năm ngày trước có mấy người tới đây, đưa Châu lão bản mấy chục lượng bạc mua lại khách điếm. Sau khi Châu lão bản đi, người trong trấn còn tưởng họ mua khách điếm của Châu lão bản để tiếp tục làm, không ngờ họ lại gây ra chuyện lớn như vậy. Tên chưởng quầy đó lão nhi mấy năm trước cũng đã từng gặp, y là nhân vật có tiếng ở vùng này!”
“Y là ai?” Vân Tương vội hỏi, thấy Hà Lão Cửu chỉ cười không đáp, Vân Tương bèn sai Tiêu bá đưa ngân phiếu một trăm lượng bạc tới. Hà Lão Cửu nhận ngân phiếu nhìn qua rồi cất kỹ vào lòng, lúc này mới chịu nói tiếp: “Y vốn là nhị đương gia của Hắc Phong Trại, mọi người gọi y là Chu Bưu, Chu đồ tể.”
“Hắc Phong Trại ở đâu? Tại sao lão lại từng gặp nhị đương gia của họ?” Vân Tương cau mày hỏi.
“Hắc Phong Trại ở ngay trên Tiểu Ngũ Đài sơn cách nơi này không xa.” Hà Lão Cửu nói tới đây bỗng trở nên lúng túng, cười ngượng nói: “Tiểu lão nhi có đứa cháu họ xa, mấy năm trước đã đắc tội với người khác, bị người của Hắc Phong Trại bắt lên núi, tiểu lão nhi từng lên núi để cầu xin Mã lão đại. Không gặp được Mã lão đại, nhưng lại gặp nhị đương gia Chu Bưu.”
Võ Trung tiếp lời: “Lão đại của Hắc Phong Trại tên là Mã Ôn, vốn là lão đại Mã bang từng vào Nam ra Bắc, sau đó dựng trại ở Tiểu Ngũ Đài sơn, thủ hạ có khoảng trăm huynh đệ, sống bằng tiền buôn lậu muối, cướp tiêu cướp hàng, hoặc thỉnh thoảng còn bắt cóc đòi tiền chuộc. Quan phủ đã từng điều binh đi dẹp sào huyệt của chúng, nhưng thế núi trải dài, núi liền núi, đại quân còn chưa kịp lên núi, đám phỉ đồ đã biến mất tăm hơi, đại quân vừa đi thì chúng lại lần về như chuột. Quan phủ đi dẹp mấy lần đều trở về tay không, vì vậy đành mắt nhắm mắt mở mặc cho chúng tự sinh tự diệt. Lần này Mã Ôn lại dám bắt cóc cả phu nhân và tiểu thư, ta thấy đúng là chán sống rồi. Ta lập tức trở về xin lệnh Võ soái, để ta đem binh đi san bằng Hắc Phong Trại!”
Vân Tương lắc đầu nói: “Binh quý thần tốc, về Đại Đồng xin binh e rằng không kịp. Hơn nữa quá nhiều người mục tiêu sẽ lớn, phỉ đồ chỉ cần trốn sâu vào núi, chúng ta lại đành bó tay.” Đoạn gã quay sang Hà Lão Cửu: “Không biết Hà lão bá có thể đưa chúng ta đi đến Hắc Phong Trại ở Tiểu Ngũ Đài sơn ngay bây giờ không? Nếu tìm được phu nhân và tiểu thư, tại hạ xin tặng nghìn lượng bạc tạ ơn.” Thấy Hà Lão Cửu ngần ngừ do dự, Vân Tương bảo Tiêu bá lấy ngân phiếu nghìn lượng ra, gã xé làm đôi rồi đưa cho Hà Lão Cửu nửa tờ: “Đây là tiền đặt cọc, chỉ cần tìm được phỉ đồ, ta sẽ đưa lão nửa tờ còn lại.”
Hà Lão Cửu dán chặt mắt vào tờ ngân phiếu, nuốt nước miếng ừng ực: “Được! Tiểu lão nhi sẽ đưa các vị đến Hắc Phong Trại.”
Vân Tương quay sang Võ Trung ra lệnh: “Ngươi đưa Hà lão bá đi chuẩn bị, sau một tuần hương chúng ta sẽ xuất phát, bắt buộc phải đến Tiểu Ngũ Đài sơn trước khi trời sáng.”
Sau khi Võ Trung dẫn Hà Lão Cửu lui xuống, Vân Tương kéo La Nghị tới, kề tai cậu thì thầm một hồi, La Nghị nghe xong hiểu ý gật đầu: “Vân đại ca yên tâm, đệ biết làm thế nào rồi.”
Tiểu Ngũ Đài sơn thuộc một nhánh của Ngũ Đài sơn, thế núi không cao, địa thế không quá hiểm trở, muốn dựng trại làm cướp ở đây đúng là phải có chút bản lĩnh mới được. Hắc Phong Trại nằm ngay trên dốc núi liền kề với đỉnh, nếu không phải Hà Lão Cửu đã tả rõ, Vân Tương còn tưởng đó chỉ là một thôn trại ở trong núi.
“Vân công tử, đi vòng qua con đường nhỏ này là đến cửa sau của Hắc Phong Trại. Nơi đó thông thẳng về sau núi, là đường rút lui mà bọn thổ phi cố ý chừa lại. Tiểu lão nhi tuổi cao sức yếu, không thể leo cao như vậy nên chỉ dẫn công tử tới đây thôi.” Tuy còn cách xa Hắc Phong Trại, nhưng Hà Lão Cửu vẫn cố hạ thấp giọng theo bản năng. Lúc này trăng cao sáng tỏ chiếu rõ sơn trại đơn sơ trên sườn núi, đen sì như một con quái thú nằm đó.
Vân Tương xem thế núi, phát hiện con đường nhỏ vô cùng hiểm yếu, nếu đại quân muốn lên trên sẽ rất khó, nhưng tiểu đội nhân mã thì vẫn còn hy vọng, đặc biệt là khi có cao thủ khinh công như Tiêu bá dẫn đường. Gã gật đầu với Hà Lão Cửu: “Đa tạ lão bá, đợi chúng ta cứu được phu nhân và tiểu thư tự khắc sẽ trả tiền thưởng cho lão.” Nói rồi Vân Tương ra hiệu cho Võ Trung: “Chúng ta đi vòng tới cửa sau theo con đường nhỏ này, nhân đêm tối xông vào sơn trại.”
Võ Trung nhìn binh lính phía sau mình, tính cả Tiêu bá, Trương Bảo cũng không quá hai mươi người, y thoáng chần chừ: “Công tử chỉ dựa vào mấy người chúng ta mà định tập kích Hắc Phong Trại?”
Vân Tương gật đầu đáp: “Tuy chúng ta ít người, nhưng phỉ đồ chẳng qua là đội quân ô hợp, hơn nữa đêm tối không nhìn rõ, một khi bị đánh lén phản ứng đầu tiên là trốn vào sâu trong núi. Chúng ta không phải không có cơ hội, chỉ xem ngươi có dám mạo hiểm không.”
Võ Trung nhìn thế núi, nghiến răng nói: “Phu nhân bị bắt cóc trong tay mạt tướng, dù phải lên núi đao xuống chảo dầu, ta cũng quyết không cau mày.”
“Vậy được! Chúng ta đi thôi!” Vân Tương vung tay, mọi người lập tức theo Tiêu bá đi về phía sau Hắc Phong Trại.
Có Tiêu bá đi trước dò đường, sau nửa canh giờ, họ đã tới phía sau Hắc Phong Trại. Nhìn cận cảnh Hắc Phong Trại lại càng sơ sài tuềnh toàng, thậm chí còn có dấu vết bị phá hủy. Chắc rằng bọn thổ phỉ biết nơi này chẳng có địa thế hiểm yếu để phòng thủ, quan binh vừa đến thì phải bỏ trại mà chạy, nên không muốn tốn sức xây dựng.
Vân Tương đợi mọi người nghỉ ngơi một lát, sau đó gật đầu ra hiệu cho Tiêu bá và Trương Bảo. Hai người hiểu ý, kẻ trước người sau rón rén đi về phía sơn trại, lát sau đã nhảy qua hàng rào của sơn trại nhẹ nhàng như mèo rồi biến mất. Chẳng mấy chốc, cửa sơn trại từ từ mở ra, hai người ở bên trong vẫy tay gọi. Với võ công của họ muốn lẻn vào sơn trại mở cửa sau dĩ nhiên không khó.
Vân Tương thấy họ đắc thủ, lập tức ra hiệu cho Võ Trung. Võ Trung vẫy tay ra lệnh cho đám quân sĩ: “Đi theo ta!”
Đám người đi theo Võ Trung và Vân Tương, lẳng lặng lẩn vào trong sơn trại, đang định đốt lửa khắp nơi gây hỗn loạn, chợt thấy bốn bề bừng sáng, mấy chục bó đuốc chiếu sáng sơn trại như ban ngày, vô số phỉ đồ áo quần rách rưới xuất hiện từ trong bóng tối, vây chặt đám người Vân Tương.
“Hỏng rồi, chúng ta bị trúng mai phục!” Võ Trung đang định dẫn quân đột phá vòng vây, chợt nghe tiếng dây cung vang lên, một hàng tên dài rít gió vun vút cắm phập xuống dưới chân họ, ép hơn hai mươi người co cụm lại thành một vòng, khiến họ không dám manh động.
Trong bóng tối vang lên tràng cười dài rồi một bóng người phóng khoáng mà nho nhã bước ra, luôn miệng than: “Công tử Tương à công tử Tương, ngươi cũng có ngày hôm nay!” Trong lúc nói, y đã đến trước mặt đám người Vân Tương, y phục tuy cũ kỹ bẩn thỉu, nhưng cử chỉ hành động vẫn toát lên vẻ nho nhã, ung dung giống hệt năm xưa. Đó chính là tam công tử Nam Cung thế gia năm xưa phong lưu tiêu sái vang danh giang hồ, nay đã trở thành một tên ăn mày lưu lạc, Nam Cung Phóng.
“Quả nhiên là ngươi!” Vân Tương cũng thở dài. Hai người nhìn nhau, trong mắt đều lóe lên tia sáng dị thường, đó đã không chỉ đơn giản là mối hận thù khắc cốt ghi tâm.
“Đúng là ta!” Nam Cung Phóng đắc ý cười: “Ta vốn không ngờ có thể dụ được ngươi tới, vì vậy chỉ để lại một kẻ đưa đường ở Thập Lý Ba. Ai ngờ đường đường Thiên Môn công tử Tương lại bị một tên lão thiên hạng bét lừa tới, xem ra quận chúa Minh Châu quả thực có địa vị không tầm thường trong lòng ngươi.”
“Phu nhân và đứa bé đang ở đâu?” Vân Tương lạnh lùng hỏi.
“Họ đang ở một nơi rất an toàn, chuyện này ngươi không cần phải lo.” Nam Cung Phóng bình thản cười: “Tạm không nói tới ân oán giữa chúng ta, có một chuyện ta nghĩ mãi không hiểu, hy vọng ngươi có thể giải đáp cho ta.”
“Nói đi!” Vân Tương thản nhiên đáp.
“Ngươi đã có của cải giàu có nhất thiên hạ, cũng đã có danh vọng như mặt trời chính Ngọ sao còn phải chạy Đông chạy Tây lo chuyện không đâu vậy?” Nam Cung Phóng đau khổ hỏi tiếp: “Ngươi đã có tất cả mọi thứ mà người khác ngày đêm mong ước, tại sao còn phải mạo hiểm khắp nơi? Phá giặc Oa, chống Ma Môn, hiện giờ lại tới làm hỏng chuyện lớn của ta. Ta biết với cá tính cô ngạo của ngươi, chưa chắc đã coi hoàng đế Đại Minh ra gì, huống hồ là làm quan cho hắn. Ngươi không vì danh, chẳng vì lợi, càng không vì quan tước, rốt cuộc ngươi liều lĩnh đi mạo hiểm, không màng tính mạng là vì cái gì?”
Vân Tương mỉm cười, ngẩng đầu nhìn bầu trời đầy sao: “Ngươi sẽ không hiểu, mãi mãi không bao giờ hiểu. Những kẻ vì địa vị quyền thế của bản thân mà có thể bán đứng quốc gia dân tộc mình giống như ngươi, sao có thể hiểu được cái ta theo đuổi và hướng tới?”
“Ta đi tới ngày hôm nay chính là do người ép!” Nam Cung Phóng đã rũ sạch vẻ nho nhã vừa rồi, mặt đỏ phừng phừng, cặp mắt sáng quắc trợn lên nhìn Vân Tương rống lớn: “Ta vốn là công tử thế gia cẩm y ngọc thực, tiền đồ rộng thênh thang. Là ngươi đã cướp đi tất cả mọi thứ của ta, ép ta phải mai danh ẩn tích lưu lạc giang hồ, chạy trốn khắp nơi như chó. Nếu chẳng phải không còn gì trong tay, ai lại đi dựa dẫm Ma Môn? Ai lại phải đi trợ giúp cho bọn man di?”
Dường như phát hiện ra mình lỡ lời, Nam Cung Phóng đưa mắt nhìn hai bên, ổn định tâm trạng, lấy lại bình tĩnh rồi cười nói với Vân Tương: “Đúng vậy, ta không thể hiểu được việc làm của ngươi, nhưng với sự thông minh tài trí của ngươi, chắc rằng có thể giải thích bằng cách đơn giản nhất để ta hiểu.”
Nhìn vẻ mặt nghi hoặc của Nam Cung Phóng, Vân Tương bất giác nhớ đến Triệu Hân Di đã bị y bức tử. Gã đáng lẽ phải cảm thấy hận thù ngùn ngụt, nhưng lúc này lại bình tĩnh dị thường, trong lòng thậm chí còn có chút thông cảm và thương xót, gã đột nhiên nói một câu khiến Nam Cung Phóng ngơ ngác: “Ta hiểu tất cả những chuyện ngươi làm nên đã không còn bất cứ thù hận gì với ngươi nữa, chỉ còn lại sự cảm thông và thương xót, bởi vì, ngươi hoàn toàn không biết mình thật sự đang làm gì.”
“Ta không biết mình đang làm gì ư?” Nam Cung Phóng ngờ nghệch hỏi: “Ta mà không biết, lẽ nào ngươi lại biết?”
Vân Tương gật đầu, tự mình đáp: “Mỗi người đến với cuộc đời này, thoạt đầu đều chỉ vì mình, bất luận là bú sữa, khóc gào hay tranh cướp đồ chơi đều là bản năng và thiên tính của động vật. Thế nhưng, trong quá trình trưởng thành, y sẽ không ngừng cảm nhận được sự quan tâm và yêu mến đến từ những người khác, ví như tình yêu của cha mẹ, tình cảm huynh đệ… Dưới sự ảnh hưởng của những tình cảm này, y sẽ bắt đầu học cách quan tâm, yêu mến bảo vệ người khác. Trong quá trình ấy, y cũng sẽ không ngừng cảm nhận được niềm vui vượt qua thiên tính ích kỷ và bản năng của mình, dần xuất hiện một đặc tính khác hẳn với bản năng động vật, đó chính là ‘vì người khác’. Mỗi một con người đều có hai đặc tính đối lập, vì mình và vì người, còn hành động của ta và ngươi chẳng qua chỉ là phản ứng khác nhau của hai đặc tính ấy trên người chúng ta mà thôi.”
Thấy ánh mắt của Nam Cung Phóng lộ ra vẻ ngỡ ngàng, Vân Tương tiếp tục nói: “Nếu một người trong quá trình trưởng thành ít cảm nhận được sự quan tâm và yêu mến bảo vệ của người khác, y cũng sẽ rất khó học được cách quan tâm người khác, mãi mãi chỉ dừng ở giai đoạn vì mình như đứa trẻ mới sinh. Hạng người này rất đáng thương, vì họ mãi mãi không thể cảm nhận được niềm vui khi giúp đỡ người khác.” Vân Tương ngừng lại, cảm thông nhìn Nam Cung Phóng: “Từ những việc làm của ngươi, ta có thể tưởng tượng ra tuổi thơ của ngươi thiếu thốn tình thương, chính tuổi thơ bất hạnh đã tạo ra sự ích kỷ và ác độc trong ngươi, vì vậy ta hiểu tất cả mọi chuyện ngươi làm.”
Nam Cung Phóng sững người, tiếp đó cười phá lên nói: “Không phải chứ? Đường đường Thiên Môn công tử lại nói chuyện vì người với ta? Nói với ta phải đi yêu thương bảo vệ người khác? Ngươi có còn là người trong Thiên Môn ta không?” Tuy y dùng tiếng cười lớn để che giấu sự kinh sợ trong lòng, nhưng không che giấu nổi nỗi hoảng loạn ở đáy sâu tâm hồn. Sinh trưởng trong một thế gia vọng tộc, nhưng tuổi thơ của y đầy ắp gian truân, lúc đó phụ thân y vẫn chưa trở thành tông chủ. Để trở thành kẻ thừa kế gia nghiệp, phụ thân của y đã dùng hết mọi thủ đoạn bỉ ổi ti tiện đánh bại từng kẻ cạnh tranh. Bắt đầu từ lúc đó, Nam Cung Phóng đã biết rằng, là con cháu trong nhà thế gia nếu không thể giành được quyền kế thừa gia nghiệp, thì số phận trong tương lai sẽ không bằng cả người thường. Vì vậy từ nhỏ y đã sống trong sợ hãi và cạnh tranh. Để không bị các huynh đệ trong tộc chèn ép, y không thể không dùng thủ đoạn và đầu óc để tranh giành những quyền lợi lớn hơn cho bản thân, không biết thế nào là tình bạn, y rất kinh sợ vì Vân Tương đoán ra được tuổi thơ gian truân của mình.
Vân Tương đột nhiên thở dài: “Ngươi là kẻ thông minh, có lẽ không chỉ một lần tự hỏi, hao tâm tốn sức theo đuổi địa vị quyền thế như vậy, rốt cuộc ngày nào mới thôi? Ngươi càng hỏi thì càng mơ hồ, vì ngươi không thể tìm thấy sự bình lặng trong tâm hồn và ý nghĩa cuộc sống. Đây là mối nghi ngờ và bi ai chung của những kẻ ích kỷ chỉ biết mình.”
“Ha ha, ta nghi ngờ? Ta bi ai?” Nam Cung Phóng lại bật cười thật lớn, nhưng lời nói của Vân Tương giống như mũi tên sắc bắn trúng góc bí mật nhất trong đáy lòng y. Nam Cung Phóng không dám nghe gã nói nữa, chỉ cười lạnh: “Ta chỉ biết, hiện giờ kẻ nên lo cho mình nhất là ngươi!” Dứt lời, y vẫy tay về phía sau, mấy tên phỉ đồ tức thì lại gần.
Vân Tương thấy một hán tử vạm vỡ thật thà sau lưng Nam Cung Phóng cùng mấy tên phỉ đồ mặt mũi lờ mờ không trông rõ phía sau y, bèn ung dung hỏi: “Vị này chắc là Mã Ôn Mã đại đương gia phải không? Những lời Nam Cung Phóng nói vừa rồi ngươi đã nghe thấy rồi, các ngươi đều nghe thấy rồi đấy! Y sai các ngươi bắt cóc Võ phu nhân không phải để đòi tiền chuộc, mà là chuẩn bị cho cuộc xâm lược của người Ngõa Thích xuống phía Nam. Các ngươi tuy ở trong rừng sâu, nhưng vẫn là những hán tử đường đường, lẽ nào lại làm việc cho bọn Thát tử? Người Ngõa Thích một khi nhập quan, cha mẹ vợ con, thân bằng hảo hữu ở dưới núi của các ngươi liệu có thoát khỏi vận hạn này không?”
Tiếng xì xào bàn tán vang lên trong đám thổ phỉ, đa phần họ hoàn toàn không biết chuyện bắt cóc Minh Châu liên quan tới việc Ngõa Thích xâm lược. Nghe Vân Tương nói, họ bắt đầu nghi ngờ. Nam Cung Phóng thấy vậy, sợ đêm dài lắm mộng, bèn lập tức đưa mắt cho nhị đương gia Chu Bưu bên cạnh ra hiệu, Chu Bưu hiểu ý, cao giọng quát xung quanh: “Đừng nghe tên này ly gián, vu oan cho Nam Cung công tử. Mau bắt Thiên Môn công tử Tương lại, ép gã nôn ra tiền tài cất giấu, nửa đời sau của chúng ta sẽ không cần vất vả làm thổ phỉ nữa rồi, bắn tên!”
Lời vừa dứt, chợt nghe xung quanh vang lên tiếng náo loạn và kêu gào, tiếp đó các tiễn thủ mai phục xung quanh văng ra lũ lượt ngã vào vòng vây, chất chồng lên nhau thành bốn đống người nằm như bao tải, bất động không biết sống chết. Tiếp đó, bốn bề vang lên tiếng Phật hiệu và tiếng hò hét gọi nhau, có người trong bóng tối bẩm báo với Vân Tương: “Vân đại ca, chúng ta đã bao vây Hắc Phong Trại như kế hoạch, chỉ đợi đại ca hạ lệnh bắt người.”
Ngoài mấy chục tiễn thủ, còn rất nhiều người trong đám thổ phỉ chưa bị bắt, vừa nghe vậy đã thầm kinh sợ, hốt hoảng nhìn ngó xung quanh, trong bóng đêm không thể nhìn rõ có bao nhiêu người bao vây. Vân Tương thấy vậy thì mỉm cười, gã biết La Nghị đã dẫn Thập Bát La Hán ngấm ngầm khống chế các cao điểm xung quanh Hắc Phong Trại.
Nam Cung Phóng kinh nghiệm dày dạn, nghe ra xung quanh không có nhiều người, vội hô lớn: “Mọi người đừng sợ, chúng không có mấy người đâu. Mọi người mau kề vai tác chiến, bắt sống công tử Tương trước, chúng sẽ không dám manh động!”
Vân Tương thấy đám phỉ đồ có kẻ do dự không quyết, có kẻ lại rục rịch định lao vào, bèn nhìn thẳng vào Mã Ôn ở đằng sau Nam Cung Phóng, nói: “Mã đại đương gia, nếu ngươi tiếp tục làm việc cho Nam Cung Phóng, ngày sau khi Ngõa Thích xâm lược, ngươi sẽ là tội nhân thiên cổ!”
Thấy Mã Ôn vẫn còn chần chừ, Võ Trung cũng quát lớn: “Mã Ôn! Ta sai người đưa thư cho Võ soái, Võ soái đã phái đại quân đi thâu đêm đuổi tới đây. Nếu ngươi còn chấp mê bất ngộ, một khi đại quân đến thì dù ngươi trốn vào rừng, chúng ta cũng sẽ đào sâu ba thước lôi ngươi ra bằng được!”
Mã Ôn trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng hạ giọng nói: “Công tử Tương, Mã Ôn ta tuy là phỉ, nhưng cũng biết không thể làm Hán gian. Chuyện bắt cóc Võ phu nhân là do Chu Bưu câu kết với Nam Cung Phóng gây ra, các huynh đệ khác không biết đâu.” Nói tới đây, y chỉ vào những tiễn thủ sống chết chưa rõ kia: “Không biết công tử có thể tha cho những huynh đệ này của ta chăng?”
Vân Tương gật đầu: “Chỉ cần ngươi đừng nối giáo cho giặc, ta sẽ không truy cứu tất cả huynh đệ của Hắc Phong Trại.”
Mã Ôn nhìn sâu vào mắt Vân Tương: “Ta tin công tử!” Dứt lời, y vẫy tay gọi xung quanh: “Các huynh đệ hãy thu lại vũ khí, từ nay Nam Cung công tử không còn liên quan tới chúng ta nữa!”
“Đại ca!” Nhị đương gia Chu Bưu ở bên thấy vậy sợ hãi, đang định phản đối thì bị Mã Ôn tát một cái khiến y há mồm trợn mắt. Tiếp đó Mã Ôn quát lên: “Người đâu, mau bắt tên gian tặc câu kết với người ngoài bắt cóc Võ phu nhân cho ta!”
Hai tên phỉ đồ đang bước tới bắt Chu Bưu, đột nhiên y rút đao chém chết hai người tại chỗ rồi chạy trốn ra ngoài trại. Ai ngờ vừa chạy được mấy bước, một ngọn roi đen sì vô thanh vô tức bay vụt tới như linh xà quấn chặt cổ Chu Bưu. Chỉ thấy Mã Ôn tay cầm chuôi roi, giật mạnh một cái, kéo phắt thân hình to lớn của Chu Bưu về phía sau, tới lúc rơi xuống đất, Chu Bưu đã trợn trắng hai mắt, bị siết cổ chết tươi.
Mã Ôn đưa mắt nhìn quanh quát: “Ai còn trái lệnh hãy lấy Chu Bưu làm gương!”
Đám phỉ đồ lập tức lui lại, phá bỏ vòng vây, để một mình Nam Cung Phóng đứng trước mặt đám người Vân Tương. Nam Cung Phóng thấy vậy gật đầu than: “Công tử Tương không hổ là công tử Tương, chỉ vài ba câu đã khiến ta bị cô lập, bội phục bội phục!”
Vân Tương bình thản nói: “Làm Hán gian luôn rất cô độc, có gì kỳ lạ?”
Nam Cung Phóng không lấy làm hổ thẹn, cười nói: “Ta chỉ thấy lạ, sao ngươi có thể nhìn ra cái bẫy của ta?”
Vân Tương đáp: “Ta quá hiểu ngươi, nếu ngươi lưu lại một manh mối rõ rành rành như vậy để ta điều tra, thì chắc chắn là cố ý. Tuy ngươi đoán được ta sẽ đến trong thời gian ngắn nhất, nhưng lại không biết bên cạnh ta có thêm một nhánh phục binh võ công cao cường.”
Nam Cung Phóng nhìn quanh, gật đầu nói: “Là võ tăng Thiếu Lâm? Nghe bước chân và phương vị có lẽ là Thập Bát La Hán của Đạt Ma Đường phải không? Quả thực ta không ngờ bên cạnh ngươi lại có thêm một nhánh cường binh như vậy, đúng là ý trời!”
Vân Tương trầm giọng nói: “Rơi vào La Hán Trận, chắc chắn không ai có thể thoát được. Hãy mau giao mẹ con Minh Châu ra đây, ta sẽ thả ngươi đi.”
Nam Cung Phóng đột nhiên bật cười ha hả: “Công tử Tương, dù ta không giao người, ngươi cũng phải thả ta đi.” Đoạn y móc một ống pháo hiệu trong ngực áo ra, giơ lên nói với Vân Tương: “Biết đây là gì không? Pháo hiệu hay gặp nhất trên giang hồ, ba mươi đồng một ống, ngon bổ rẻ, ánh sáng rực rỡ. Ta chỉ cần bắn lên trời, trong chu vi trăm dặm đều có thể nhìn thấy. Một khi bắn pháo, ngươi đoán xem kết quả thế nào?”
Vân Tương nhất thời nghẹn họng, Tiêu bá phía sau gã âm thầm tiến lên một bước, toan xuất thủ cướp ống pháo. Nam Cung Phóng đột nhiên giơ tay ném pháo cho lão, cười nói: “Đừng cướp! Ta cho ngươi là được chứ gì!” Nói rồi y lại móc thêm một ống ra, cười đắc ý: “Đáng tiếc ta vẫn còn đây, ngươi cần nữa không?”
Thấy Tiêu bá ảo não dừng bước, Nam Cung Phóng bật cười ha hả: “Dù ngươi cướp hết tất cả pháo hiệu trên người ta cũng vô ích, nếu ta không về trước khi trời sáng thì có người phải ngọc nát hương tan rồi.”
Vân Tương buồn bã, nghẹn giọng hỏi: “Rốt cuộc ngươi muốn thế nào mới chịu thả mẹ con Minh Châu?”
Nam Cung Phóng cười khà khà nói: “Ta không định tha cho họ, nhưng nếu ngươi chịu quỳ xuống cầu xin ta, nói không chừng ta có thể suy nghĩ.” Thấy Vân Tương sững sờ đờ người tại chỗ, Nam Cung Phóng bật cười lớn, xoay mình bỏ đi. Sau lưng có hai võ tăng chặn đường, y không do dự mà đi thẳng tới, va vào hai người, hai võ tăng thấy y không sợ, đành phải bực bội nhường đường.
“Đợi đã!” Sau lưng vang lên giọng quả quyết của Vân Tương. Nam Cung Phóng quay đầu cười hỏi: “Thế nào? Ngươi chịu quỳ xuống van xin ta rồi à?”
Vân Tương không lên tiếng, chỉ chậm rãi móc một quyển sách da dê trong ngực áo ra, xoay bìa về phía Nam Cung Phóng. Nam Cung Phóng vừa thấy đã biến sắc, buột miệng thốt lên: “Thiên Môn Mật Điển!”
Vân Tương trầm giọng nói: “Ta dùng nó đổi lấy mẹ con Minh Châu, chỉ cần ngươi tha cho họ, nó sẽ thuộc về ngươi.”
Nam Cung Phóng liếm đôi môi khô nứt, cặp mắt sáng rực nhìn chằm chằm vào quyển sách da dê trong tay Vân Tương, y đã nghe nói tới thánh điển của Thiên Môn từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên tận mắt trông thấy nó. Sau phút kích động ban đầu, y đanh giọng hỏi: “Sao ta biết nó là thật chứ?”
Vân Tương đáp: “Da dê ở trang bìa này là cổ vật mấy nghìn năm, giấy bên trong cũng được làm bằng tơ tằm hiếm thấy, kẻ nào làm giả được? Huống hồ ta cũng không thể dự liệu hết mọi biến cố của đêm nay để làm sẵn một mật điển giả đem theo người.”
Nam Cung Phóng nghĩ ngợi thấy cũng có lý, bèn gật đầu nói: “Được! Ngươi đưa nó cho ta, ta sẽ trở về thả quận chúa!”
Vân Tương lắc đầu: “Ngươi thả quận chúa trước, ta sẽ cho ngươi mật điển sau, đồng thời để ngươi bình an rời khỏi đây.”
Thấy Nam Cung Phóng còn do dự, Vân Tương chậm rãi giơ tay trái, để lộ ra chiếc nhẫn bảo thạch đeo trên ngón cái, nghiêm mặt nói: “Trước mặt các hảo hán Hắc Phong Trại cùng võ tăng Thiếu Lâm, ta lấy thân phận môn chủ Thiên Môn thề với Vũ Thần, sau khi mẹ con Minh Châu trở về bình an, nếu không cho ngươi quyển Thiên Môn Mật Điển này và để ngươi rời khỏi an toàn với nó, ta sẽ mãi mãi bị đày xuống địa ngục, vĩnh viễn không được siêu sinh!”
Nam Cung Phóng lần đầu tiên biết được thân phận môn chủ Thiên Môn của Vân Tương, lòng thầm kinh hãi tột độ, nhưng đồng thời lại càng chứng thực Thiên Môn Mật Điển là thật. Biết công tử Tương luôn giữ chữ tín trên giang hồ, huống hồ còn thề với Vũ Thần, Nam Cung Phóng đắn đo giây lát, cuối cùng gật đầu đồng ý: “Được! Ngươi đợi đó, ta sẽ đi đưa quận chúa tới.” Dứt lời, y phóng đi như bay.
Hơn nửa canh giờ sau, một chiếc kiệu nhỏ đến bên ngoài Hắc Phong Trại, hai kẻ khiêng kiệu rõ ràng là người Ngõa Thích, nhìn bước chân mạnh mẽ dứt khoát, hiển nhiên thân thủ không tầm thường. Nam Cung Phóng dẫn đường vén rèm kiệu lên, từ xa đã gọi: “Công tử Tương! Ta đem người tới đây, đến lúc ngươi thực hiện lời hứa rồi.”
Chiếc kiệu vừa dừng đã thấy Minh Châu ôm chặt con gái bước ra, ánh mắt lập tức nhìn về phía Vân Tương đang bước tới, kích động đến mức nước mắt lã chã. Minh Châu định đi tới thì bị Nam Cung Phóng giơ tay ngăn lại: “Quận chúa đợi đã, ta và công tử Tương có chút chuyện trao đổi chưa xong.”
Vân Tương thấy Minh Châu bình an vô sự, bèn mang quyển sách da dê đưa cho Tiêu bá bên cạnh, đồng thời gật đầu ra hiệu. Tiêu bá hai tay dâng quyển sách tới trước mặt Nam Cung Phóng. Nam Cung Phóng cướp lấy xem, quả nhiên là cổ vật nghìn năm, bèn cất kỹ vào lòng, nhìn Vân Tương cười khà khà: “Không ngờ đường đường Thiên Môn công tử cũng là kẻ đa tình, vì một ả đàn bà đã có chồng mà dám bỏ cả Thiên Môn Mật Điển, bội phục bội phục! Cáo từ cáo từ!” Dứt lời, y lách người lui về sau, dẫn theo hai người Ngõa Thích kia vội vã bỏ đi.
Võ Trung vội bước lên, khom người vái chào: “Phu nhân! Tiểu nhân đáng chết, hại phu nhân rơi vào tay thổ phỉ. May mà được công tử Tương giúp đỡ cứu phu nhân và tiểu thư về, đúng là may mắn trong bất hạnh!”
Minh Châu như không hề nghe thấy tiếng chào hỏi của Võ Trung, chỉ rảo bước đi về phía Vân Tương, nước mắt kích động lăn dài trên má như những hạt ngọc đứt dây. Nào ngờ Vân Tương đột ngột lui về sau một bước, chắp tay vái: “Thảo dân thỉnh an Võ phu nhân!”
Tiếng gọi “Võ phu nhân” đã nhắc nhở nàng, Minh Châu vội đứng lại, vẻ mặt phức tạp nhìn Vân Tương, hồi lâu sau mới chua chát nói: “Miễn lễ!”
Vân Tương né tránh ánh mắt của Minh Châu, quay sang Võ Trung nói: “Võ tướng quân, xin hãy đưa phu nhân đi nghỉ, chúng ta sẽ nghỉ nửa canh giờ rồi xuống núi.”
Võ Trung vội vâng lời, gọi thủ hạ khiêng kiệu tới, sau đó nói với Minh Châu: “Phu nhân, mời lên kiệu.”
Minh Châu nhìn Vân Tương khách khí cáo biệt với đám phỉ đồ, đành khom người chui vào trong kiệu. Nàng biết Vân Tương không nhận nàng là vì không muốn để quãng thời gian bôn ba giang hồ cả đời khó quên ấy trở thành quá khứ khiến kẻ khác nghi kỵ. Nàng hiểu ý tốt của Vân Tương, nhưng lòng không hề cảm kích, thậm chí còn ngấm ngầm oán hận, lẽ nào… lẽ nào nàng trong lòng gã chỉ như người qua đường?
Thấy kiệu của Minh Châu dừng ở một chỗ khuất gió, Vân Tương mới thầm thở phào. Nhìn thấy mẹ con Minh Châu trở về bình an, gã như trút được tảng đá đè nặng trong lòng. Gã không muốn người khác biết quận chúa Minh Châu cành vàng lá ngọc đã từng có một bằng hữu giang hồ là gã, càng không muốn sự xuất hiện của mình ảnh hưởng đến hạnh phúc hiện tại của nàng.
“Công tử, công tử cứ đưa Thiên Môn Mật Điển mà mình xem như tính mạng cho Nam Cung Phóng như vậy sao?” Tiêu bá đi tới gần, nhỏ giọng hỏi ý: “Có cần lão nô đuổi theo, tìm cơ hội đoạt về không?”
Vân Tương lắc đầu: “Bỏ đi! Thiên Môn Mật Điển là di vật của tiên sư, nhưng nếu có thể đổi được mẹ con Minh Châu cũng là đáng giá. Hơn nữa ta đã từng thề với Vũ Thần, để Nam Cung Phóng mang mật điển an toàn rời khỏi đây, ta không thể làm trái lời thề.”
“Với hạng gian tặc như Nam Cung Phóng, cần gì phải giữ chứ tín?” Tiêu bá tỏ vẻ phản đối.
“Tiêu bá nói vậy sai rồi!” Vân Tương nghiêm mặt nói: “Nói lời giữ lời chính là thứ của cải vô hình, cho dù là với kẻ thù. Nam Cung Phóng bằng lòng đưa Minh Châu đến chính là do tính tình nhất quán xưa nay của ta khiến y yên tâm. Tuy y lúc nào cũng tính kế ám hại ta, nhưng ta vẫn nguyện chân thành đối đãi.” Nói tới đây, Vân Tương đột ngột im bặt, hai mắt đờ ra thất thần, Tiêu bá vội hỏi: “Công tử bị sao vậy?”
“Tính kế! Tính kế!” Vân Tương nhìn xa xăm vào hư không lẩm bẩm: “Nam Cung Phóng lúc nào cũng tính kế ám hại ta, lẽ nào không biết đám phỉ đồ Hắc Phong Trại vốn không thể làm khó ta? Vậy mà y vẫn dụ ta tới đây, lẽ nào chỉ vì báo thù?”
La Nghị, Tiêu bá và Trương Bảo ngơ ngác nhìn Vân Tương, không hiểu gã đang nói gì. Chỉ thấy Vân Tương chắp tay sau lưng đi đi lại lại mấy vòng, rồi đột nhiên dừng bước nói: “So với cuộc xâm lăng của Ngõa Thích, thù hận của ta và y vốn không thấm vào đâu, Nam Cung Phóng ắt sẽ biết phân biệt nặng nhẹ! Y dùng Minh Châu dụ ta tới đây, nhất định có mục đích khác!”
“Mục đích gì?” Tiêu bá vội hỏi.
“Y là muốn ta rời khỏi Đại Đồng!” Vân Tương sực vỡ lẽ: “Mấy ngày nay Ngõa Thích chắc chắn sẽ có hành động, y sợ ta nhìn ra ý đồ của người Ngõa Thích, vì vậy mới dùng Minh Châu để tách ta ra, giữ chân ta!”
Không đợi mọi người kịp hiểu, Vân Tương đã hối hả giục: “Mau xuống núi! Chúng ta phải mau chóng quay về Đại Đồng!”
“Vân đại ca!” La Nghị chỉ mười tám võ tăng cách đó không xa: “Họ còn đang giải huyệt cho những phỉ đồ kia, nhưng người đông quá, chắc là phải đợi một lúc!”
“Đúng vậy!” Võ Trung cũng bước tới phụ họa thêm: “Các huynh đệ đi thâu đêm, cơ hồ hai ngày nay chưa được chợp mắt. Hiện giờ phu nhân và tiểu thư xem như bình an vô sự, mọi người cũng thả lỏng tinh thần, vừa ngồi xuống đất đã ngủ rồi. Có phải chúng ta nên cho họ ngủ thêm lúc nữa hãy đi?”
Vân Tương nhìn những quân sĩ nằm ngổn ngang ngủ say quanh cỗ kiệu nhỏ, tự biết lúc này bắt họ đứng dậy lên đường quả thực không hợp tình lý. Ngay đến bản thân gã đi đường thâu đêm, cả người cũng cảm thấy mệt lử. Vân Tương nhìn về phía đông, thấy sao khởi minh* cũng đã lên cao, chỉ chưa đầy một canh giờ trời sẽ sáng, đành nói: “Được! Mọi người nghỉ ngơi tại chỗ, trời vừa sáng chúng ta sẽ đi ngay!”
Nam Cung Phóng chạy như điên trên con đường nhỏ xuống núi. Tuy Vân Tương đã hứa để y rời khỏi an toàn, nhưng y vẫn không dám nấn ná lại đây lâu. Sờ vào cuốn Thiên Môn Mật Điển trong truyền thuyết đang giấu trong lòng, Nam Cung Phóng chỉ cảm thấy tim đập thình thịch, như chỉ chực nhảy ra khỏi lồng ngực.
Thiên Môn Mật Điển, có nó có thể giành thiên hạ! Lời đồn từ xa xưa trong Thiên Môn cứ văng vẳng bên tai Nam Cung Phóng. Y vô tình có được cuốn kỳ thư có thể đoạt thiên hạ này, dọc đường đều không kìm được tự hỏi bản thân: “Lẽ nào đây chính là ý trời?”
Nhìn sắc trời sáng dần, phía trước chính là đường quan đạo dưới chân núi, Nam Cung Phóng suốt dọc đường chạy như bay cuối cùng đã có thể dừng bước, nghỉ ngơi một chút bên đường. Phía sau lưng vang lên tiếng bước chân và hơi thở nặng nề, Nam Cung Phóng không quay đầu cũng biết, hai tên tùy tùng người Ngõa Thích kia rốt cuộc cũng đuổi đến. Hai kẻ này là tùy tùng của vương tử Lãng Đa, nhận lệnh theo Nam Cung Phóng lẻn vào quan nội, trợ giúp Nam Cung Phóng hoàn thành sứ mệnh.
Thấy hai võ sĩ Ngõa Thích thở hổn hển đuổi tới, Nam Cung Phóng dần lấy lại bình tĩnh, toan giải thích với họ, chợt nghe một tên võ sĩ Ngõa Thích chửi bằng tiếng Hán khá lưu loát: “Khốn kiếp! Ngươi chạy thục mạng thế làm gì chứ? Lẽ nào muốn một mình nuốt trọn quyển sách đó?”
Nam Cung Phóng đanh mặt lại, rồi gượng cười nói: “Hai vị nghĩ nhiều rồi, tại hạ nào dám nuốt trọn. Nếu hai vị không tin, chi bằng để các ngươi cất giữ cho Đại Hãn đi.” Dứt lời, y móc quyển sách da dê ra, hai tay dâng tới trước mặt hai người.
Hai võ sĩ tinh thông tiếng Hán, thường lẻn vào nội địa nghe ngóng tin tức cho người Ngõa Thích, cũng từng nghe lời đồn liên quan tới Thiên Môn Mật Điển. Thấy Nam Cung Phóng chủ động dâng lên, họ hớn hở ra mặt, tranh nhau chìa tay nhận lấy. Đúng lúc này, chỉ thấy Nam Cung Phóng xoay cổ tay, trong tay đã xuất hiện thêm một thanh chủy thủ hàn quang lấp loáng, tiếp đó dùng quyển sách da dê che phía trên, âm thầm đâm vào tim hai võ sĩ Ngõa Thích.
“Ngươi… ngươi…” Hai võ sĩ Ngõa Thích ôm ngực thối lui, ánh mắt đầy kinh ngạc. Họ không thể ngờ Nam Cung Phóng lại ra tay ám toán mình. Hai người đứng đờ ra giây lát rồi lũ lượt ngã gục xuống đất.
Nam Cung Phóng thản nhiên đá vào thi thể của họ, nở nụ cười lạnh. Nếu để họ sống sót trở về quan ngoại, người Ngõa Thích lẽ nào chịu bỏ qua Thiên Môn Mật Điển? Vì vậy họ không thể không chết. Còn về phía người Ngõa Thích, Nam Cung Phóng đã nghĩ sẵn lời giải thích. Chỉ cần đẩy cái chết của họ lên đầu công tử Tương là vạn sự đại cát.
Nam Cung Phóng đạp thi thể của hai võ sĩ Ngõa Thích xuống vách núi, toan cất quyển sách da dê đi, nhưng lại không kìm nổi ham muốn giở ra xem. Sự tò mò với Thiên Môn Mật Điển khiến y không thể đợi trời sáng, hối hả giở ra đọc dưới ánh sáng lờ mờ trước lúc bình minh. Khi thấy câu ở trang đầu tiên, y gật đầu hài lòng. Đó là câu mà người trong Thiên Môn thuộc nằm lòng, tương truyền là lời của sư tổ Thiên Môn Vũ Thần, xem ra quả nhiên không giả.
“Úy?” Giở đến trang thứ hai, Nam Cung Phóng bất giác kinh ngạc kêu lên, vẻ mặt vô cùng bất ngờ, lật thêm vài trang, sự bất ngờ của y trở thành nghi hoặc và khó hiểu. Đọc cặn kẽ toàn bộ quyển sách, y bất giác ngẩng đầu nhìn vào hư không, nghiền ngẫm nguyên nhân bên trong. Đúng lúc này, chợt thấy ở giữa con đường núi phía trước có một bóng người đen sì như quỷ mị, lặng lẽ đứng đó, với khả năng của Nam Cung Phóng lại không hề biết y xuất hiện trước mặt mình từ lúc nào.
“Kẻ nào?” Nam Cung Phóng vội cất Thiên Môn Mật Điển vào ngực áo, đặt tay lên chuôi kiếm quát hỏi. Chỉ thấy bóng đen chậm rãi quay người lại, lộ ra chiếc mặt nạ đầu lâu trắng nhản trên mặt. Nam Cung Phóng vừa thấy đã kinh hoàng, nhìn chằm chằm vào cặp mắt lấp lánh lạnh buốt trong hốc mắt đầu lâu, khàn giọng hỏi: “Ngươi… ngươi là Tử Thần?”
Đầu lâu kia khẽ gật đầu, Nam Cung Phóng sợ đến nhũn người, thiếu chút nữa ngã lăn quay. Tử Thần là sát thủ đứng đầu trong Ảnh Sát Đường, trên giang hồ chưa một ai từng thấy khuôn mặt thật của y, chỉ biết mỗi lần y xuất hiện đều đeo chiếc mặt nạ đầu lâu trùng trùng quỷ khí, danh hiệu “Tử Thần” cũng vì thế mà có, hơn nữa trước giờ y chưa từng thất thủ, bởi vậy trong mắt người giang hồ, y chính là tử thần đích thực.
Nam Cung Phóng nuốt nước bọt, khàn giọng hỏi: “Ai thuê ngươi tới? Hắn cho ngươi bao nhiêu tiền? Ta có thể cho ngươi gấp đôi, chỉ xin ngươi hãy tha cho ta.” Thấy chiếc đầu lâu kia khẽ lắc, Nam Cung Phóng tuyệt vọng kêu: “Vậy ngươi hãy nói cho ta biết kẻ thuê ngươi là ai, để ta chết được rõ ràng?”
Thấy y vẫn lắc đầu, Nam Cung Phóng mặt xám như tro, đột nhiên quỳ phục xuống đất, móc quyển Thiên Môn Mật Điển giơ lên quá đầu, khóc lóc lạy lục: “Đây là Thiên Môn Mật Điển trong lời đồn của giang hồ, có nó sẽ được cả thiên hạ. Tiểu nhân bằng lòng dâng lại cho các hạ, chỉ mong các hạ giơ cao đánh khẽ!”
Thấy Tử Thần không lắc đầu, Nam Cung Phóng lết tới trước mặt y, giơ cao Thiên Môn Mật Điển quá đầu: “Xin các hạ hãy nhận mật điển, tha cho cái mạng hèn của tiểu nhân.”
Tử Thần thoáng trầm ngâm, cuối cùng đưa tay ra lấy Thiên Môn Mật Điển. Đúng lúc y vừa cầm lấy quyển sách da dê ấy, Nam Cung Phóng bất ngờ xuất thủ. Chỉ thấy tay trái y bảo vệ nơi yếu hại ở đầu, tay phải nhanh như chớp đánh vào hạ bộ của Tử Thần. Vì quỳ trước mặt Tử Thần, hai tay lại giơ cao dâng sách, bởi vậy tay y cách hạ bộ của Tử Thần chưa đến một thước. Bị tấn công bất ngờ ở cự ly này, thiên hạ không ai có thể né được. Nam Cung Phóng dựa vào sự nhanh trí và táo bạo cuối cùng đã tìm được một cơ hội thắng cho mình.
Tay của Tử Thần đang cầm quyển sách da dê, dường như không kịp phản ứng với đòn tập kích do Nam Cung Phóng khổ công dàn dựng, hạ bộ bị y tóm lấy từ chính diện. Nam Cung Phóng mừng rơn, nhưng ngay lập tức đã hụt hẫng như rơi từ trên cao xuống. Đòn tấn công y dày công tạo dựng lại đánh hụt, cuối cùng y biết mình đã trúng kế.
Tuy tóm đúng hạ bộ của Tử Thần, nhưng tay y rõ ràng đã bắt hụt! Cơ hồ cùng lúc, một cước nhanh như thiểm điện của Tử Thần đá vào ngực Nam Cung Phóng, khiến y bay thẳng về phía vách núi. Nam Cung Phóng nghe thấy tiếng xương cốt mình gãy vụn, đây là cảm giác cuối cùng trước khi y chạm đất…
7
Mượn
binh
Vầng dương mới mọc nhuộm vàng cả vùng núi non, trong cơn gió mát của buổi sớm mai, những binh sĩ được nghỉ một hồi đã tỉnh táo hẳn lên, hộ tống chiếc kiệu của Minh Châu tức tốc xuống núi. Mười tám võ tăng hùng dũng tinh anh đi sát phía sau họ cùng với đám người Vân Tương đang nóng lòng như lửa đốt.
Hàng người sắp xuống khỏi Tiểu Ngũ Đài sơn, bước lên con đường quan đạo dưới chân núi. Đột nhiên, Võ Trung đi đầu dừng bước, chỉ xuống vách núi kinh hãi hô lên: “Nhìn kìa! Đó là gì?”
Mọi người nhìn theo hướng y chỉ, lập tức phát hiện hai người Ngõa Thích nằm trong vũng máu. Tất cả rúng động trong lòng, bước chân bất giác dừng lại. Vân Tương ra hiệu cho La Nghị phía sau: “Mau đi xem thử!”
Vách núi không cao, La Nghị nhô lên hụp xuống mấy lần đã tới cạnh hai người Ngõa Thích, sờ thử mạch họ, lại xem vết thương, sau đó quay đầu nói với Vân Tương: “Chính là hai võ sĩ người Ngõa Thích đi cùng Nam Cung Phóng đêm qua, bị kẻ khác đâm trực diện vào tim.” Lời vừa dứt, cậu lại thất thanh kêu lên: “Nam Cung Phóng!”
Chỉ thấy Nam Cung Phóng người đẫm máu, co quắp ở một góc khuất sau mỏm đá, vì vậy từ trên sẽ không nhìn thấy. La Nghị thận trọng tới gần y, chỉ thấy dưới chân y có một vết bò lết đầy máu, chắc rằng sau khi bị thương ngã xuống vách núi, y đã gắng gượng bò vào góc khuất này. Máu ộc ra vạt áo đã khô đặc, hai mắt y nhắm nghiền, sắc mặt xám ngoét, ngực hõm xuống khiến người khác không dám nhìn thẳng. La Nghị dò thử hơi thở của y, bất giác kinh hãi hô: “Y vẫn còn sống!”
Vân Tương vừa nghe bèn lập tức tóm dây leo trên vách trượt xuống, rảo bước tới trước mặt Nam Cung Phóng. Chỉ thấy La Nghị lắc đầu tiếc nuối: “Y không xong rồi, y bị người khác đá gãy ba dẻ xương sườn, cắm vào tim phổi khiến cơ thể mất máu quá nhiều, y hiện giờ vẫn chưa chết đúng là một kỳ tích.”
Vân Tương ngồi xổm xuống bên cạnh y, nhìn kẻ địch lớn nhất trong đời mình bằng vẻ mặt phức tạp, lòng không còn mảy may thù hận, chỉ có sự thương xót cảm thông không nói nên lời. Gã quay đầu gọi Trương Bảo: “Nước!”
Trương Bảo vội đưa túi nước tới, Vân Tương cầm lấy rút nắp gỗ ra, cẩn thận đổ nước vào miệng Nam Cung Phóng, nước vừa trôi xuống cổ họng, Nam Cung Phóng đột nhiên ho sặc sụa, máu tươi và nước cùng lúc phun ra.
Cơn ho dịu xuống, Nam Cung Phóng cuối cùng cũng từ từ mở mắt ra, dần nhìn rõ khuôn mặt của Vân Tương. Y kinh hãi định bỏ chạy theo bản năng, ai ngờ vừa giãy giụa đã đau điếng người, mồ hôi đổ ròng ròng, cơ thể co quắp, đến giơ tay cũng khó.
“Ngươi đừng cử động!” Vân Tương dịu giọng nói: “Không ai làm hại ngươi đâu.”
Ánh mắt ôn hòa của Vân Tương khiến Nam Cung Phóng dần bình tĩnh lại, y hằn học nhìn Vân Tương, gào lên hỏi: “Ngươi còn không mau động thủ giết ta mà báo thù cho mẫu thân, tình nhân thanh mai trúc mã và cả bản thân ngươi đi. Từ khi ngươi lừa lấy lại khế đất của Lạc Gia Trang trong tay cha ta, ta đã biết ngươi là ai rồi, Lạc tú tài!”
Ánh mắt Vân Tương thoáng lộ nỗi đau, gã lặng lẽ nhìn Nam Cung Phóng đang thoi thóp hơi tàn, trong lòng chỉ còn lại niềm thương xót. Gã khẽ lắc đầu, buồn bã nói: “Ta đã không còn hận ngươi nữa, nếu ngươi có tâm nguyện gì chưa hoàn thành, ta có thể giúp ngươi toại nguyện.”
“Tại sao? Tại sao ngươi không hận ta? Ta đã cướp mất người ngươi yêu, hại chết mẹ ngươi, hại ngươi bị oan vào tù, rồi đày ngươi đi nghìn dặm xa xôi làm khổ sai, tại sao ngươi lại không hận ta? Con mẹ nó ngươi có phải là người không?” Nam Cung Phóng nổi giận đùng đùng, không ngừng chửi rủa. Thấy Vân Tương không đáp, y sực hiểu: “Ta biết tại sao ngươi lại không động thủ rồi, ngươi muốn biết ai đã đả thương ta, cướp đi Thiên Môn Mật Điển của ngươi. Lão tử không nói cho ngươi, biết, để ngươi mãi mãi không thể tìm được Thiên Môn Mật Điển! Ha ha…”
Nam Cung Phóng vừa mở miệng cười như điên dại, máu ứ trong ngực lập tức trào lên cổ họng, y vừa cười vừa ho một trận xé gan xé phổi, mỗi tiếng ho đều kéo theo một búng máu phun ra miệng. Vân Tương thấy vậy vội xoa ngực cho y, hy vọng có thể giảm bớt cơn đau, đồng thời nhẹ giọng an ủi: “Ngươi đừng nói nữa, thời gian của ngươi không còn nhiều, hãy nghĩ xem còn tâm nguyện gì chưa thực hiện, hoặc có lời trăn trối nào để lại cho người thân hay bằng hữu không? Ta có thể giúp ngươi.”
“Tâm nguyện? Bằng hữu?” Nam Cung Phóng ngừng ho, hai mắt mơ màng đờ đẫn nhìn vào hư không: “Ta không có người thân cũng không có bằng hữu, nhưng tâm nguyện chưa thực hiện thì không ít. Ta muốn kế thừa gia nghiệp, làm tông chủ của Nam Cung thế gia, ta còn muốn trở thành nhân vật lẫy lừng được người người kính ngưỡng trên giang hồ, ta càng muốn trở thành nhất đại thiên hùng có thể hô mưa gọi gió, hùng bá thiên hạ.” Nói tới đây, Nam Cung Phóng đột nhiên ròng ròng nước mắt: “Đáng tiếc ta không còn cơ hội để thực hiện những tâm nguyện này nữa rồi, cả đời ta luôn phải vùng vẫy, phấn đấu, cạnh tranh trong vòng xoáy vận mệnh. Ta lao tâm khổ tứ, bất chấp thủ đoạn để tranh giành, song ngay những thứ ta vốn có cũng bị số phận cướp đoạt! Đến hôm nay, ta chẳng những không thành việc gì, còn mất đi tất cả người thân và bằng hữu, vận mệnh tại sao lại đối xử bạc với Nam Cung Phóng ta như vậy?”
Thấy bộ dạng đau đớn, khổ sở tột cùng của Nam Cung Phóng, Vân Tương thấy trong lòng dâng trào nỗi thương xót và kích động. Gã đột nhiên trầm giọng nói với Nam Cung Phóng: “Ngươi sai rồi, ít ra ngươi còn có một người thân.”
“Ai?” Nam Cung Phóng mơ màng nhìn sang Vân Tương hỏi, chỉ thấy gã gật đầu khẳng định: “Ngươi còn có một đứa con trai, chính là con trai của ngươi và Hân Di.”
“Con trai?” Đôi mắt thẫn thờ của Nam Cung Phóng dần có thần trở lại, lóe lên ánh sáng cháy bỏng, y bỗng giơ tay tóm chặt cánh tay của Vân Tương: “Nó… nó vẫn còn sống sao? Nó ở đâu? Ngươi… ngươi đừng gạt ta!”
Vân Tương nắm chặt bàn tay run rẩy của y, gật đầu quả quyết: “Nó vẫn luôn ở bên cạnh ta, ta xem nó như con ruột của mình. Ngươi yên tâm, ta sẽ nuôi nó thành tài đồng thời dạy dỗ nó trở thành người lương thiện, chính trực.” Nói tới đây, Vân Tương ngập ngừng: “Lúc trước ta vẫn gọi nó là Triệu Giai, nhưng hiện giờ ta thấy, chỉ có người cha là ngươi mới có tư cách đặt tên cho nó.”
Nam Cung Phóng ngây người nhìn Vân Tương, ánh mắt đầy vẻ hồ nghi. Từ cái tên Triệu Giai, y có thể cảm nhận được nỗi thống hận của Vân Tương với họ Nam Cung. Thế nhưng hiện giờ gã lại để Nam Cung Phóng đặt tên cho con trai, từ đó có thể nhìn ra, sự thù hận của gã với Nam Cung Phóng, đã thật sự tan theo mây khói.
“Ta… có thể đặt tên cho nó thật sao?” Nam Cung Phóng ngây người hỏi. Thấy Vân Tương gật đầu khẳng định, y do dự nói: “Ta muốn đặt tên cho nó là Nam Cung Kiệt, đây là cái tên ta đã nghĩ sẵn cho nó từ lâu. Không biết có được không?”
Vân Tương mỉm cười nói: “Dĩ nhiên là được rồi. Nam Cung Kiệt, sinh ra làm nhân kiệt, tên hay!”
“Hay thật sao?” Nam Cung Phóng nhìn chằm chằm vào Vân Tương, thấy gã gật đầu, y mới thở phào nhẹ nhõm, chuyện lớn trong lòng đã xong, y cảm thấy cả người dần tê dại, sinh mệnh cũng chậm rãi bỏ đi. Vân Tương thấy vậy khẽ hỏi: “Ngươi còn lời gì muốn nói với nó không?”
Nam Cung Phóng chỉ vào ngực mình, Vân Tương theo hướng tay y chỉ, móc một miếng ngọc bội trong ngực y ra. Chỉ nghe Nam Cung Phóng khó nhọc nói: “Đây là ngọc bội chỉ con cháu đích truyền nhà Nam Cung mới có, xin hãy giao nó cho con trai ta, và chuyển lời với nó, cứ nói ta xin lỗi hai mẹ con họ. Từ nay về sau, nó sẽ trở thành cô nhi không cha không mẹ, đây là lỗi lầm của ta, là cha vô dụng…” Đến cuối cùng, y nước mắt ròng ròng, nghẹn ngào không thể nói tiếp.
Vân Tương cất ngọc bội vào lòng, nắm tay Nam Cung Phóng khẽ nói: “Ngươi yên tâm, ta sẽ xem nó như con ruột của mình.”
Vẻ mặt Nam Cung Phóng như được an ủi, y chậm rãi nhắm mắt lại, lẩm bẩm hỏi: “Lạc tú tài, ta đã từng hại ngươi, tại sao ngươi còn đối xử tốt với ta như vậy?”
Vân Tương khẽ thở dài: “Ta cũng đã từng thống hận ngươi, chỉ hận không thể lóc da xẻ thịt ngươi. Nhưng bây giờ ta lại thấy, khoan dung còn có thể khiến người ta được giải thoát và nhẹ nhõm hơn thù hận.”
Nam Cung Phóng nhìn Vân Tương bằng ánh mắt phức tạp, rồi đột nhiên hạ giọng nhỏ đến mức chỉ Vân Tương mới có thể nghe thấy: “Ngươi có biết ai đã đoạt mất Thiên Môn Mật Điển từ tay ta không? Là Tử Thần, đệ nhất sát thủ của Ảnh Sát Đường.” Y thở dài: “Quả nhiên y không hổ là Tử Thần.”
Vân Tương gật đầu, nhưng không hỏi thêm. Tuy Thiên Môn Mật Điển là di vật của tiên sư, ẩn chứa bí mật có thể mưu đoạt thiên hạ, nhưng trong lòng gã lúc này, nó đã không còn thần thánh như ban đầu nữa. Nghe thấy tung tích của nó, thậm chí gã cũng không có ham muốn tìm về. Lúc này Nam Cung Phóng bỗng mỉm cười kỳ dị, nhỏ giọng thì thào: “Nói cho ngươi, một bí mật, Tử Thần… không phải nam nhân!”
Vân Tương sững người, toan hỏi cặn kẽ, nhưng lại thấy Nam Cung Phóng từ từ khép chặt hai mắt, hơi thở yếu dần, đúng lúc Vân Tương tưởng rằng y đã ra đi thanh thản, đột nhiên y lại rùng mình, răng đánh vào nhau lập cập: “Lạnh… Lạnh quá…”
Vẻ bơ vơ và sợ hãi trên gương mặt xám ngoét của y khiến Vân Tương thương xót, bất giác đưa tay ôm chặt y, hy vọng có thể lấy hơi ấm cơ thể mình giúp y giảm bớt phần nào lạnh lẽo và sợ hãi lúc lâm chung. Nam Cung Phóng đột nhiên tóm chặt tay Vân Tương như kẻ chết đuối vớ được cọc, gào lên: “Ta không muốn chết! Ta không muốn tới đó… cha ta, đại ca ta và cả Hân Di, vô sô kẻ chết trong tay ta đều đang ở đó đợi ta… ta… ta không dám đi gặp họ…”
Vân Tương dịu giọng nói: “Mỗi một đứa trẻ đến với cõi đời này đều chỉ là tờ giấy trắng, là hoàn cảnh và trải nghiệm khi lớn đã quyết định sự thiện ác của nó. Bởi vậy những tội ác người đó đã gây ra lúc lớn không chỉ là tội ác của cá nhân người đó, mà còn là tội ác của tất cả con người chúng ta. Vì thế, cha và đại ca ngươi sẽ tha thứ cho ngươi, Hân Di lương thiện như vậy, nhất định cũng sẽ tha thứ cho ngươi.”
“Thật không? Họ sẽ tha thứ cho ta thật không?” Nam Cung Phóng quằn quại hỏi, cơ thể càng lúc càng yếu ớt, từng lời nói ra đều rất khó nhọc.
“Đương nhiên, cũng giống như ta tha thứ cho ngươi.” Vân Tương khẽ nói. Nam Cung Phóng yên lòng, đột nhiên ú ớ trong miệng như muốn nói gì đó, nhưng đã suy nhược đến mức không thốt ra nổi chữ nào. Vân Tương vội kề tai sát miệng y, miễn cưỡng nghe được mấy từ ngắt quãng: “Người Ngõa Thích muốn… quân Trấn Tây…”
Nam Cung Phóng cuối cùng đã ra đi thanh thản, mười tám võ tăng nhắm mắt niệm chú vãng sinh cho y. La Nghị tuy không phải người xuất gia, nhưng cũng bất giác chắp hai tay lại, cầu nguyện cho Nam Cung Phóng. Trước cái chết, mỗi con người bất luận tốt hay xấu, anh hùng hay ác đồ đều bình đẳng như nhau. Đây là sự từ bi của đức Phật, cũng là bổn phận của người xuất gia.
Vân Tương nhẹ nhàng buông Nam Cung Phóng ra, đứng dậy buồn bã bảo Trương Bảo và Tiêu bá: “Hãy chôn y đi, hy vọng y có thể lên được thiên quốc.”
Hoàng hôn ngày hôm sau, khi Vân Tương trở về Đại Đồng đã thấy không khí trong thành khác hẳn ngày thường, trên phố không ngừng có binh tướng chạy vụt qua, trong vẻ vội vã thấp thoáng toát lên sự căng thẳng và tiêu điều trước một cuộc đại chiến.
Vì Minh Châu kiên quyết đòi về Đại Đồng, nên Võ Trung đành phải hộ tống nàng về phủ tướng quân. Vân Tương cũng lập tức đi gặp Võ Diên Bưu, việc Nam Cung Phóng lợi dụng Minh Châu dụ gã rời Đại Đồng, cùng lời nói trước lúc lâm chung của y khiến Vân Tương vô cùng lo lắng. Gã biết Nam Cung Phóng chắc chắn đã vạch sẵn toàn bộ kế hoạch xâm lược cho người Ngõa Thích, một khi kế hoạch được thực hiện, quân Trấn Tây chắc chắn nguy hiểm vạn phần.
Quận chúa Minh Châu trở về bình an nhưng không thể làm dịu đi không khí căng thẳng trong phủ tướng quân. Khi gặp Võ Diên Bưu trong nội đường, mọi người thấy y đã mặc quân trang, hông đeo bảo kiếm, sẵn sàng để xuất chinh. Thấy mẹ con Minh Châu trở về an toàn, y an ủi qua loa mấy câu rồi để con trai dẫn họ xuống, đoạn quay sang Vân Tương nói: “Đa tạ công tử cứu quận chúa về, ta đã bẩm rõ với vương gia, ghi công cho công tử.”
Vân Tương xua tay, hỏi thẳng vào vấn đề: “Võ soái, ta thấy đại quân trong thành liên tục được điều động, không biết có hành động gì?”
Võ Diên Bưu thoáng chần chừ, sau cùng vẫn thản nhiên đáp: “Mười vạn đại quân Ngõa Thích đã đột phá tuyến phòng thủ trường thành từ Trương Gia Khẩu kéo về ba mươi dặm phía Tây, ép sát Bắc Kinh. Quân Trấn Tây phải ngày đêm khởi hành về Bắc Kinh cứu viện!”
Vân Tương biến sắc mặt: “Chuyện này là sao?”
Võ Diên Bưu trầm giọng nói: “Ngay sau hôm Minh Châu bị bắt cóc, du kỵ của Ngõa Thích xuất hiện ở Phong Trấn trước Đại Đồng và hạ chiến thư với quân thủ vệ ở Phong Trấn. Đúng vào lúc chúng ta nghiêm trận chờ đợi, chuẩn bị nghênh chiến thì đại quân Ngõa Thích lại dương Đông kích Tây, một đêm đánh phá phòng tuyến trường thành từ Trương Gia Khẩu kéo về ba mươi dặm phía Tây. Đó là điểm kết hợp phòng thủ của quân Trấn Tây với quân trấn thủ kinh thành, là nơi yếu nhất trong phòng tuyến trường thành. Người Ngõa Thích có thể tóm được đúng điểm này, bên ta nhất định có nội gián!”
Vân Tương cười khổ, tuy nội gián đã chết, nhưng mưu kế của y để lại quả là gây hại không nhỏ. Vân Tương đột nhiên nhớ ra những lời trăn trối của y trước khi chết, lòng chợt động, vội hỏi: “Bản đồ ở đâu?”
Võ Diên Bưu chỉ vào bản đồ trên bàn: “Công tử nhìn xem!”
Vân Tương bước qua nhìn kỹ, lập tức vỡ lẽ, người Ngõa Thích muốn phục kích quân Trấn Tây! Cuối cùng gã đã hiểu lời trăn trối ngắt quãng của Nam Cung Phóng trước khi chết, vội vàng nói với Võ Diên Bưu: “Võ soái, quân Trấn Tây không thể manh động!”
“Tại sao?” Võ Diên Bưu cau mày hỏi. Vân Tương chỉ vào bản đồ: “Nếu người Ngõa Thích chỉ dùng một toán quân làm mồi nhử để quấy rối Bắc Kinh rồi cho quân chủ lực tinh nhuệ mai phục tại con đường bắt buộc phải đi qua từ Đại Đồng đến Bắc Kinh, lấy khỏe thắng mệt, chờ phục kích quân Trấn Tây, xin hỏi Võ soái sẽ ứng phó thế nào?”
Võ Diên Bưu thoáng biến sắc mặt, im lặng không nói. Vân Tương lại tiếp: “Nếu quân Trấn Tây rời khỏi phủ Đại Đồng thành cao tường chắc, đối đầu với Ngõa Thích ở nơi đồng không mông quạnh thì quân Trấn Tây không thể so bì với sự thần tốc và chiến lực của thiết kỵ Ngõa Thích. Đây là lấy sở đoản của mình chống lại sở trường của địch, thêm vào đó quân Trấn Tây lại phải đi đường ngày đêm, người ngựa đều mệt, một khi gặp mai phục chắc chắn sẽ bại!”
Võ Diên Bưu khẽ gật đầu: “Lời công tử nói có lý, nhưng nếu người Ngõa Thích tấn công Bắc Kinh thật, bản soái lại ngồi im không cứu, há chẳng thành tội nhân thiên cổ?”
“Võ soái lo xa rồi!” Vân Tương chỉ vào bản đồ nói: “Bắc Kinh có ba đại doanh kinh sư ba mươi vạn nhân mã, hơn nữa Bắc Kinh thành cao tường chắc, mười mấy vạn quân Ngõa Thích muốn đánh Bắc Kinh rõ ràng là mạo hiểm cực lớn, nếu bị quân Trấn Tây giáp công phía sau, e rằng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Hơn nữa người Ngõa Thích tấn công Bắc Kinh là bỏ mất lợi thế tốc độ kỵ binh của mình, phải chiến đấu giằng co với quân phòng thủ kinh thành, đây chẳng qua là chiến thuật hạ đẳng, không đến lúc bất đắc dĩ, người Ngõa Thích chắc chắn sẽ không đưa ra hạ sách này.”
Võ Diên Bưu gật đầu, tiếp đó lại lắc đầu than: “Dù khả năng người Ngõa Thích tấn công Bắc Kinh chỉ có một phần vạn, ta cũng không thể mạo hiểm. Quân Trấn Tây có thể bại, nhưng không thể để thành Bắc Kinh có tổn thất gì, nếu không triều đình chấn động, thiên hạ ắt loạn. Hơn nữa Binh bộ đã có lệnh chuyển tới, nếu ta không lập tức đi chi viện cho Bắc Kinh chính là kháng lệnh.”
“Võ soái hãy nghĩ kỹ!” Vân Tương cao giọng nói: “Nếu quân Trấn Tây trúng mai phục ở nơi đồng không mông quạnh, ba đại doanh kinh dù ở gần trong gang tấc cũng quyết không cứu viện. Binh mã các nơi đến cứu viện cũng tranh nhau tới kinh thành tâng công với triều đình, dù có người muốn giúp Võ soái nhưng bị ràng buộc bởi dụ lệnh Binh bộ cũng không dám tự ý hành động, quân Trấn Tây sẽ rơi vào tình trạng đơn độc tác chiến, đại nạn ngập đầu! Quân Trấn Tây bại, Đại Đồng sẽ rơi vào thế hai mặt giáp công của Ngõa Thích, khó mà giữ được, một khi Đại Đồng mất, cánh cửa vào Trung Nguyên sẽ mở toang, thiết kỵ Ngõa Thích vừa có thể xuống Nam tụ hợp với Ma Môn ở Trung Nguyên, vừa có thể đánh Bắc Kinh, thế cục thiên hạ nguy mất!”
Võ Diên Bưu cười chua chát, vuốt râu than: “Những băn khoăn của công tử về mặt quân sự hoàn toàn chính xác, nhưng cầm binh đánh trận không hoàn toàn là quân sự, còn phải xem xét đến các khía cạnh khác nữa. Quân chế Đại Minh, trước giờ đều là quan văn dẫn binh, hơn nữa binh vô thường binh, tướng vô thường tướng, tất cả quyền chỉ huy binh mã đều quy về Binh bộ, trong mấy trăm vạn đại quân của Đại Minh, chỉ có Võ gia quân ta và Du gia quân ở Giang Triết là hai đội quân duy nhất do võ tướng nắm quyền chỉ huy và thống lĩnh. Sức chiến đấu hiển nhiên cao hơn các đội quân khác mấy lần. Dù vậy nhưng cũng vẫn bị các quan văn trong triều đình gièm pha, công tử biết vì sao không?”
Vân Tương gật đầu: “Năm xưa Thái tổ giết hại công thần, chính là muốn để triều đình nắm chặt binh quyền trong tay, tránh các tướng lĩnh chuyên quyền, thậm chí khởi binh tạo phản. Từ đó về sau, binh quyền đều do quan văn nắm giữ, các tướng lĩnh cầm quân có thể bị điều chuyển bất cứ lúc nào, tướng không biết binh, binh không biết tướng, sức chiến đấu sụt giảm nghiêm trọng. Võ gia quân và Du gia quân vì ở tuyến đầu, để bảo đảm sức chiến đấu nên mới không bị điều chuyển chủ tướng, cũng không để các quan văn nhúng tay chỉ huy.”
Ánh mắt Võ Diên Bưu thoáng lộ vẻ ngạc nhiên: “Không ngờ một thư sinh như công tử lại có thể nhìn thấu khiếm khuyết của quân đội Đại Minh như vậy. Trước giờ ta luôn thống hận lũ quan văn chỉ biết khua môi múa mép, không có chút tài cầm quân nào, vì vậy lúc trước có phần khinh thị công tử, xem ra đúng là ta đã xem thường công tử rồi.” Y thoáng ngập ngừng, thở dài nói: “Không sai, Du gia quân và Võ gia quân là hai nhánh quân duy nhất lấy tên của chủ tướng, vì vậy luôn bị Binh bộ và đám quan văn theo dõi sát sao. Lần này nếu ta không tuân lệnh Binh bộ chi viện Bắc Kinh, chắc chắn sẽ bị xem là chuyên quyền, kháng lệnh bất tuân, trong triều sẽ lại buông lời dị nghị phải thu lại quyền chỉ huy quân Trấn Tây về tay Binh bộ, lúc đó dù ta giữ được thực lực của quân Trấn Tây thì cũng có ý nghĩa gì?”
Nói tới đây, Võ Diên Bưu nhìn Vân Tương đang nín lặng, bình thản cười nói: “Cầm quân không chỉ xét về mặt quân sự, còn phải xem xét cả mặt chính trị nữa. Dù biết rõ phía trước có mai phục, bản soái cũng phải dẫn quân xông vào, quyết một trận sống chết với Ngõa Thích. Chỉ mong ông trời phù hộ Đại Minh, giúp ta chiến thắng trong nghịch cảnh!”
Nhìn ánh mắt ung dung kiên định của Võ Diên Bưu, Vân Tương cuối cùng đã hiểu nỗi khổ của vị danh tướng trấn thủ biên thùy này. Gã im lặng hồi lâu rồi chợt hỏi: “Võ soái còn nhớ lời hẹn của chúng ta chứ?”
Võ Diên Bưu sững người, tiếp đó hiểu ra ngay, gật đầu nói: “Không sai! Công tử đã cứu được hai mẹ con quận chúa Minh Châu, ta theo lý phải cho công tử mượn quyền chỉ huy một đại doanh trong ba tháng. Tiếc rằng tất cả tinh nhuệ của quân Trấn Tây đã tập kết, chuẩn bị xuất phát rồi, chỉ để lại hai vạn nhân mã trấn thủ trong thành, nhưng ai có chức trách nấy, không thể cho mượn được. Hiện giờ, ta chỉ còn một toán quân cuối cùng có thể tạm thời cho công tử mượn thôi.”
“Là doanh quân nào?” Vân Tương bèn hỏi.
Võ Diên Bưu cầm một lệnh phù trên bàn, đưa tới trước mặt Vân Tương: “Tân Quân Doanh.”
“Tân Quân Doanh!” Vân Tương lộ vẻ thất vọng. Gã biết Tân Quân Doanh chỉ là nhánh quân tạm thời chịu trách nhiệm huấn luyện lính mới, thậm chí không được coi như biên chế chính quy của quân đội Đại Minh, không có ghi chép chính thức trong Binh bộ. Trong doanh trại ngoài tướng quân phụ trách huấn luyện lính mới, các binh sĩ đều chưa từng ra chiến trường, những binh sĩ chưa từng ra chiến trường có nhiều đến đâu, huấn luyện tốt đến mấy cũng chỉ là một đàn dê non chưa từng thấy máu, sức chiến đấu của một đội quân như vậy không cần nghĩ cũng biết.
“Ta không ngờ công tử có thể cứu được quận chúa về.” Võ Diên Bưu cười hổ thẹn: “Vì vậy cũng không chuẩn bị đội quân để cho công tử mượn, nếu công tử thấy Tân Quân Doanh không dùng được thì ta thu về.”
Vân Tương bèn đoạt lấy lệnh phù: “Tân Quân Doanh thì Tân Quân Doanh, nhưng ngoài Tân Quan Doanh, ta còn muốn mượn Võ soái một người.”
“Ai?”
“Chính là quý công tử Võ Thắng Văn.”
Võ Diên Bưu khẽ cau mày, nhưng rồi vẫn gật đầu: “Không vấn đề, ta lập tức gọi nó đến báo danh ở Tân Quân Doanh.”
Trời tờ mờ sáng, mặt trời lấp ló đằng Đông, quân Trấn Tây ngoài hai vạn nhân mã ở lại trấn thủ Đại Đồng và một vạn quân mới còn đang huấn luyện, mười hai vạn quân còn lại đã khởi hành ngày đêm, hỏa tốc đi chi viện cho Bắc Kinh, phủ Đại Đồng rộng lớn thoáng chốc trở nên tiêu điều, vắng vẻ không tả nổi thành lời.
Sáng sớm ngày hôm sau, Vân Tương được Tiêu bá, Trương Bảo, La Nghị và Thập Bát La Hán Thiếu Lâm tháp tùng đã tới Tân Quân Doanh đóng trại ở ngoại ô. Chỉ thấy Tân Quân Doanh hoàn toàn không có sự huyên náo vì tập luyện như ngày thường, chỉ có mấy tốp lính tuần tra đang túm năm tụm ba bàn tán xì xào, xem ra việc đột ngột điều động đại quân hôm qua đã ảnh hưởng xấu đến Tân Quân Doanh. Hiện giờ lời đồn thất thiệt bay khắp trong quân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sĩ khí.
Vân Tương thúc ngựa đến trước cửa quân doanh, giơ lệnh phù của Võ Diên Bưu với lính gác cửa: “Gọi thống lĩnh của các ngươi đến gặp ta!”
Tên lính gác lập tức vào thông báo, lát sau chỉ thấy y đi ra một mình, vái chào Vân Tương: “Thống lĩnh chúng ta đã ở trướng chủ soái chờ công tử, xin công tử đi theo ta.”
Không ngờ tên thống lĩnh này lại cao giá như vậy, thấy lệnh phù của Võ Diên Bưu còn không ra nghênh tiếp. Vân Tương thầm lấy làm kỳ quái, vẫy tay bảo mọi người: “Chúng ta vào trong.”
Họ theo tên lính gác vào trướng chủ soái, vừa bước vào đã thấy một viên tướng trẻ tuổi vóc người vạm vỡ khôi ngô ngồi trước bàn, vẻ mặt phẫn nộ. Thấy Vân Tương bước vào, y lập tức đứng dậy chất vấn: “Họ Vân kia, ta có chỗ nào đắc tội ngươi? Chọn đúng thời khắc quân Trấn Tây chi viện cho Bắc Kinh, hảo nam nhi kiến công lập nghiệp mà giữ ta lại, ngươi có mưu mô gì vậy?”
Thì ra thống lĩnh của Tân Quân Doanh chính là Võ Thắng Văn. Vân Tương giữ y lại quả thực là vì lòng riêng, nhưng chuyện này không thể nói ra lời. Vì vậy gã né tránh không trả lời câu hỏi của Võ Thắng Văn, chỉ cau mày hỏi: “Thì ra ngươi chính là thống lĩnh Tân Quân Doanh?”
“Không sai! Tối qua phụ soái vừa ra lệnh!” Võ Thắng Văn hằm hằm nói: “Phụ soái bảo ta giúp công tử chỉ huy Tân Quân Doanh, nếu công tử có lệnh, ta sẽ phục tùng vô điều kiện!”
Vân Tương gật đầu: “Vậy được! Ngươi hãy cho toàn doanh trại khôi phục việc thao luyện trước, sau đó kiểm điểm lương thảo, ngựa, binh khí, chuẩn bị ứng chiến bất cứ lúc nào. Sau khi buổi tập luyện sáng kết thúc, hãy gọi các tướng lĩnh từ cấp thiên hộ trở lên vào trướng chủ soái nghị sự.”
Võ Thắng Văn trợn mắt nhìn Vân Tương, dường như đang trách gã chuyện bé xé ra to, phô trương thanh thế. Nhưng y cũng không nói thêm gì, quay người lại bảo Võ Trung đứng sau lưng: “Thổi tù và, khôi phục thao luyện.”
Sau khi buổi tập luyện sáng kết thúc, mấy thiên hộ và tham tướng lục tục vào trướng chủ soái. Tân Quân Doanh dưới thống lĩnh còn có tám thiên hộ, mỗi thiên hộ chỉ huy ba doanh chừng một nghìn hai trăm người, thêm cả hậu cần và trung quân, tổng cộng toàn bộ Tân Quân Doanh có khoảng một vạn người. Đây là biên chế tiêu chuẩn của một đại doanh trong quân đội Đại Minh, thống lĩnh của đại doanh thông thường do tướng lĩnh cấp phó tướng trở lên đảm nhận. Võ Thắng Văn chỉ là một thiên hộ mà được làm thống lĩnh, một là bởi thân phận đặc biệt, hai là vì Tân Quân Doanh là nhánh quân tạm thời, không phải tác chiến, bởi vậy việc bổ nhiệm thống lĩnh cũng không nghiêm ngặt như đội quân tác chiến.
Sau khi các tướng lĩnh vào trướng chủ soái, Võ Thắng Văn chỉ vào Vân Tương đang cúi đầu trầm tư xem bản đồ, giới thiệu với mọi người: “Vị Vân công tử này đã được Võ soái lệnh cho chỉ huy Tân Quân Doanh, chúng tướng hay mau đến bái kiến.”
Trong quân đội Đại Minh lúc đó, thường có quan văn thậm chí thái giám do Binh bộ hoặc hoàng thượng trực tiếp bổ nhiệm, dùng thân phận kinh lược hoặc giám quân để chỉ huy bộ đội, vì vậy các tướng lĩnh cũng không lấy làm lạ, lần lượt bước lên tham bái. Vân Tương vẫn vùi đầu vào bản đồ trên bàn, lúc này mới ngẩng đầu lên, lộ ra đôi mắt đầy tia máu, vẻ mặt nặng nề khác thường. Gã đưa mắt nhìn lướt từng viên tướng, cuối cùng bắt gặp hai gương mặt quen thuộc là thiên hộ Triệu Văn Hổ và du kích tướng quân Lý Hàn Quang. Vân Tương cuối cùng cũng nở nụ cười vui mừng, khẽ gật đầu với hai người, sau đó bảo các tướng: “Mọi người hãy báo lại tình hình kiểm điểm lương thảo, ngựa, binh khí trước đi.”
Các thiên hộ lần lượt báo lại tình hình vật tư trong tay mình, Vân Tương nghe xong vẻ mặt càng thêm nặng nề. Thì ra Tân Quân Doanh không chỉ thiếu lương thực, ngựa ít, mà ngay cả binh khí cũng gãy nát, thậm chí áo giáp của binh sĩ cũng không đủ. Trước một nhánh tàn quân chưa từng ra chiến trường, trang bị lại thiếu thốn, dù Vân Tương đã lường đến kết quả xấu nhất cũng không ngờ vấn đề lại nghiêm trọng đến vậy.
Thấy các tướng lĩnh đang nhìn mình, Vân Tương chỉ vào bản đồ trước mặt: “Võ soái ngày đêm không nghỉ đi chi viện cho Bắc Kinh, dọc đường ắt bị mười vạn tinh binh của Ngõa Thích phục kích, người Ngõa Thích giỏi đánh dã chiến, lại lấy nhàn đánh mệt, trận chiến này quân Trấn Tây khó có hy vọng. Nếu Ngõa Thích đánh bại quân Trấn Tây, ắt sẽ trở về bao vây tấn công Đại Đồng đang vườn không nhà trống, để mở cánh cửa dẫn vào Trung Nguyên. Tân Quân Doanh chúng ta phải làm thế nào để trợ giúp quân trấn thủ Đại Đồng giữ vững cánh cửa này, ta muốn nghe ý kiến của các vị tướng lĩnh.”
Vân Tương vừa dứt lời, Võ Thắng Văn ở bên cạnh đã cao giọng chất vấn: “Quân Trấn Tây chúng ta là tinh binh trong quân đội, từng trải trăm trận, phụ soái ta chiến công lừng lẫy, vang danh thiên hạ, sao có thể bại trận? Ngươi đừng ở đây hồ ngôn loạn ngữ!”
Vân Tương trầm giọng nói: “Kẻ bơi giỏi vẫn có thể chết đuối, người thiện chiến vẫn chết trong chiến đấu, trên chiến trường bất cứ tình huống nào cũng có thể xảy ra. Tuy ta hy vọng Võ soái có thể gặp dữ hóa lành, chuyển bại thành thắng, nhưng chúng ta cũng phải chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.”
Các tướng bắt đầu bàn tán xôn xao, suy đoán táo bạo của Vân Tương khiến họ cảm thấy khó tin. Một thiên hộ nói: “Nếu đúng như lời Vân công tử, người Ngõa Thích sau khi đánh bại quân Trấn Tây sẽ bao vây tấn công Đại Đồng, vậy e rằng Tân Quân Doanh cũng không có quá nhiều tác dụng.”
“Đúng vậy!” Một thiên hộ khác phụ họa thêm: “Binh sĩ của Tân Quân Doanh đều là lính mới chưa từng ra chiến trường, nếu không có lính cũ đi kèm, dù huấn luyện tốt thế nào, một khi thấy máu trên sa trường, nếu không sợ đến ngây người thì cũng hoảng loạn chạy trốn, trái lại còn ảnh hưởng tới sĩ khí của những đội quân khác.”
Triệu Văn Hổ cũng nói: “Không sai, Tân Quân Doanh không phải là quân tác chiến, bình thường chỉ chịu trách nhiệm huấn luyện lính mới, sau đó phân bổ những binh sĩ đã qua huấn luyện tới các nhánh quân tác chiến khác, theo lính cũ ra chiến trường. Quân sĩ chưa từng ra chiến trường chẳng khác nào cừu non, bắt buộc phải được lính cũ đào tạo kèm cặp, đồng thời tắm máu trên sa trường mới có thể từ cừu non biến thành sài lang.”
“Hơn nữa Tân Quân Doanh trang bị sơ sài, lương thảo và ngựa đều vô cùng thiếu thốn, triều đình còn đang nợ chúng ta hơn nửa năm lương bổng, các tướng sĩ từ lâu đã hoang mang, sao có thể tác chiến?” Một thiên hộ khác phẫn uất hỏi.
Vân Tương giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng, sau đó nhìn quanh các tướng nói: “Nếu ta bổ sung đầy đủ lương thảo, tiền bạc, ngựa và áo giáp cần thiết, các tướng quân liệu có thể đồng tâm hiệp lực, biến Tân Quân Doanh trở thành một nhánh quân có thể tác chiến không?”
Các tướng vừa nghe liền bán tín bán nghi, một thiên hộ cười lạnh nói: “Lương thực và tiền lương của Tân Quân Doanh bị thiếu, Võ soái đòi Binh bộ suốt nửa năm không được, lẽ nào công tử chính là cha đẻ của Binh bộ thượng thư? Nói một câu là có thể khiến Binh bộ phát lương?”
“Chuyện này các ngươi đừng xem thường Vân công tử.” Võ Thắng Văn nửa cười nửa không châm chọc: “Các vị có điều không biết, Vân công tử chính là Thiên Môn công tử Tương đại danh đỉnh đỉnh trên giang hồ. Mọi người đều biết, Thiên Môn công tử phú khả địch quốc, chỉ cần công tử nhổ một cọng lông thôi cũng đủ cho Tân Quân Doanh dùng mấy năm rồi.”
“Thật sao?”
“Y chính là Thiên Môn công tử?”
Các tướng vừa bất ngờ vừa kinh ngạc, thấy Vân Tương thản nhiên mặc nhận, họ lập tức nhìn gã bằng con mắt khác, mười mấy cặp mắt sáng rực lên như nhìn thần tài trong truyền thuyết. Không cần bất cứ ai nhắc nhở, các tướng lập tức nhốn nháo bảo đảm với Vân Tương: “Chỉ cần công tử có thể bổ sung lương thảo, tiền bạc, ngựa, áo giáp cần thiết cho chúng ta, chúng ta bảo đảm Tân Quân Doanh sẽ trở thành một đội quân tinh nhuệ.”
Vân Tương hiểu rõ đây là lời nói khoác lúc chìa tay xin tiền, nhưng cũng không vạch trần, chỉ xua tay với chúng tướng: “Các người lui xuống tranh thủ chuẩn bị, mau chóng huấn luyện Tân Quân Doanh thành một đội quân có thể tác chiến đi. Lương thảo các ngươi không cần lo, ta sẽ mau chóng bổ sung.” Vân Tương nhẩm tính ngày tháng, có lẽ Tưởng Văn Hoán cũng sắp chuyển lương thảo, ngựa và áo giáp tới. Gã quay đầu sang nói nhỏ với Tiêu bá ở đằng sau vài câu, Tiêu bá lập tức nhận lệnh rời khỏi trướng, ra ngoài thành nghênh đón lương thảo do Tưởng Văn Hoán áp tải tới.
Sau khi để các tướng ra ngoài chuẩn bị, Vân Tương giữ Triệu Văn Hổ và Lý Hàn Quang lại. Ba người từ hôm chia tay ở Đại Đồng đến giờ mới gặp lại, lòng cảm thấy vô cùng vui mừng. Triệu Văn Hổ và Lý Hàn Quang là tâm phúc Vân Tương tín nhiệm nhất ở Tân Quân Doanh, cũng là chỗ dựa vững chắc nhất của gã ở đây, dĩ nhiên gã đối xử với hai người cũng khác những kẻ còn lại.
“Lý tướng quân có biết rõ về kho quân giới của quân Trấn Tây không?” Vân Tương hỏi. Lý Hàn Quang lắc đầu đáp: “Thời gian ta ở đây quá ngắn, không biết kho quân giới ở đâu.”
Vân Tương vỗ vai y nói: “Tướng quân phải nghĩ cách lấy một lô vũ khí từ kho quân giới ra, trang bị cho cả Tân Quân Doanh. Tuy ta có thể lấy được lương thảo, ngựa, áo giáp nhưng binh khí là hàng cấm, chỉ có thể lấy được ở kho quân giới mà thôi. Ta biết tướng quân sẽ có cách, bất luận trả giá thế nào cũng phải lấy được!” Từ lần hợp tác ở Tiễu Oa Doanh với Lý Hàn Quang, Vân Tương biết tuy y không phải tướng tài, nhưng là ma xó trong quân, nắm bắt được hết các luật lệ ngầm và kẽ hở trong quân đội, có y ở bên cạnh, có thể giải quyết nhiều phiền phức.
“Công tử yên tâm, ta sẽ mau chóng nghĩ cách.” Lý Hàn Quang cười thẹn nói, ngượng nghịu vê ngón tay: “Nhưng mạt tướng vẫn còn lạ cảnh lạ người, e rằng phải bỏ ra chút ít mới gây dựng được quan hệ với kho quân giới.”
Vân Tương biết y đang thừa dịp kiếm chác, song cũng không tiện vạch trần, chỉ móc ngân phiếu đã chuẩn bị từ trước ra đưa cho y: “Ở đây có năm nghìn lượng bạc, tướng quân cứ cầm trước, không đủ lại nói với ta.”
“Đủ rồi đủ rồi!” Lý Hàn Quang vội nhận lấy ngân phiếu, liến thoắng bảo đảm: “Công tử yên tâm, trong vòng ba ngày, nếu ta không lấy đủ binh khí cho Tân Quân Doanh thì công tử cứ cách chức ta.”
“Tướng quân đừng mơ!” Vân Tương cười đấm y một cái: “Đại chiến đến gần, tổng quản trung quân như tướng quân sao có thể trốn được?”
“Đa tạ công tử đề bạt!” Tuy đã sớm đoán Vân Tương sẽ để mình làm tổng quản trung quân, nhưng hiện giờ chính miệng gã nói ra, Lý Hàn Quang vẫn vô cùng vui mừng, luôn mồm cảm tạ.
Vân Tương quay sang Triệu Văn Hổ, vẻ thoải mái lập tức bay biến. Nhìn vị hổ tướng nho nhã này, gã hỏi: “Nếu Võ soái bất lợi, đại quân Ngõa Thích tấn công Đại Đồng, không biết Triệu tướng quân có kế hay nào để giữ Đại Đồng chăng?”
Triệu Văn Hổ lắc đầu: “Công tử hẳn biết, Đại Đồng không thể giữ được.”
Vân Tương thẫn thờ nhìn bản đồ, lẩm bẩm nói: “Lẽ nào bây giờ chỉ còn duy nhất một chiêu cờ hiểm này ư?”
Triệu Văn Hổ gật đầu nói: “E rằng chỉ nước cờ hiểm này mới có thể giải vây cho Đại Đồng, mong công tử sớm hạ quyết tâm.”
Vân Tương ủ dột lắc đầu, ngập ngừng: “Nếu là vậy, một vạn tướng sĩ của Tân Quân Doanh, e rằng…”
“Thí tốt giữ tướng, đây cũng là chuyện bất đắc dĩ, chiến tranh luôn tàn khốc như vậy mà.” Triệu Văn Hổ buồn bã nói.
“Tướng quân để ta suy nghĩ thêm, suy nghĩ thêm.” Vân Tương lắc đầu đau khổ: “Có lẽ Võ soái có thể đánh cho Ngõa Thích xiểng liểng, khiến chúng không còn sức để tấn công Đại Đồng; hoặc giả ba đại doanh kinh sư chủ động xuất kích, cùng Võ soái công phá người Ngõa Thích. Trên chiến trường chuyện gì cũng có thể xảy ra, chưa đến phút cuối cùng, chúng ta không cần ra hạ sách như vậy.”
Triệu Văn Hổ buồn bã than: “Mong rằng trời xanh phù hộ cho Võ soái.”
“Hai người đang bàn tính gì vậy?” Lý Hàn Quang ngơ ngác nhìn hai người, vẻ mặt nghi hoặc: “Sao ta chẳng nghe hiểu câu nào cả?”
“Không hiểu thì thôi, chỉ mong Tân Quân Doanh không cần đi tới bước này.” Vân Tương nói rồi tiễn hai người ra khỏi trướng chủ soái, đợi họ thúc ngựa bỏ đi, gã ngoái đầu nhìn về phía Đông, bên tai dường như nghe thấy tiếng xung phong và hò hét của thiên quân vạn mã, ánh mắt lộ vẻ lo lắng, u uất than: “Trận chiến này chắc sẽ nhanh có kết quả thôi?”
Ba ngày sau, đúng vào lúc Tiêu bá nhận lương thảo, ngựa và áo giáp do Tưởng Văn Hoán áp tải trở về, tin mười hai vạn quân Trấn Tây chi viện Bắc Kinh bị phục kích giữa đường, chủ soái Võ Diên Bưu anh dũng hy sinh đã truyền khắp Đại Đồng. Tiếp đó, mười vạn thiết kỵ của Ngõa Thích do tứ vương tử Lãng Đa dẫn đầu thừa thế vừa đánh bại chủ lực quân Trấn Tây, đã tức tốc áp sát Đại Đồng, trọng trấn biên thùy đang bỏ ngỏ phòng vệ. Tin tức truyền tới, bầu trời phủ Đại Đồng lập tức chìm trong mây đen sầu thảm.
Trong đại trướng chủ soái của Tân Quân Doanh, mười mấy tướng lĩnh từ cấp thiên hộ đều lặng im không nói. Qua ánh mắt của Vân Tương và bầu không khí nặng nề trong trướng, họ cảm nhận được thư sinh tướng mạo yếu ớt này sắp có một quyết định kinh người.
“Trang bị, vũ khí, ngựa, lương thực của các doanh đủ cả chưa?” Vân Tương bình tĩnh hỏi. Thấy chúng tướng gật đầu, gã lại hỏi: “Phí an gia cũng được phát tới tay từng tướng sĩ rồi?”
Lý Hàn Quang mới nhận chức tổng quản trung quân vội đáp: “May có ngân lượng của Tưởng tiên sinh đưa tới, chúng ta không chỉ bù đủ tiền lương nửa năm còn thiếu của Tân Quân Doanh, còn phát thêm cho mỗi người hai mươi lượng làm phí an gia, tất cả đã được đưa tận tay các tướng sĩ, xin công tử yên tâm.”
Vân Tương gật đầu hài lòng, lại nhìn một lượt các tướng, nghiêm nghị nói: “Hiện giờ, đại quân Ngõa Thích chỉ còn cách Đại Đồng chưa đầy ba ngày đường, Tân Quân Doanh đã đến lúc phải lựa chọn rồi!”
Chúng tướng im bặt không nói một lời, nhất tề đổ dồn ánh mắt về phía Vân Tương. Vân Tương sai Trương Bảo và La Nghị dựng thẳng bản đồ lên, sau đó gã chỉ tay từ phủ Đại Đồng trên bản đồ kéo dài lên phía Bắc, vượt qua trường thành, lên tận vùng đại mạc mênh mông: “Tân Quân Doanh sẽ men theo con đường đại quân Ngõa Thích xâm lược, tiến thẳng lên phía Bắc, cắm thẳng vào trái tim của Ngõa Thích!”
Lời vừa dứt, các tướng lập tức xôn xao cả lên. Một thiên hộ vội nói: “Chúng ta hoàn toàn không quen địa hình ở Mạc Bắc, hậu cần cũng không thể đi theo, Tân Quân Doanh sẽ phải một mình xâm nhập vào lòng Ngõa Thích, trong không có lương thực, ngoài không có quân cứu viện, chăng phải là đem tính mạng tất cả tướng sĩ Tân Quân Doanh ra mạo hiểm ư?”
Một thiên hộ khác cũng hùa theo: “Không sai! Đây hoàn toàn là đưa Tân Quân Doanh vào chỗ chết!”
Vân Tương đợi tiếng bàn tán của mọi người lắng xuống, mới từ tốn nói: “Tân Quân Doanh đều là lính mới chưa từng ra chiến trường, một khi nghênh chiến với Ngõa Thích ở Đại Đồng, khó tránh sẽ chạy tán loạn để giữ mạng, ảnh hưởng đến sĩ khí của quân đội khác. Hơn nữa hiện giờ phủ Đại Đồng thiếu binh thiếu tướng, thêm một Tân Quân Doanh cũng khó giữ được. Vì vậy, ta muốn dẫn Tân Quân Doanh đi lên phía Bắc đột kích Ngõa Thích, ở đó các tân binh không thể trốn chạy, buộc phải phát huy sự tập trung và sức chiến đấu kinh người, đây gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống!”
Các tướng còn đang hồ nghi do dự, Triệu Văn Hổ lập tức phụ họa: “Ta thấy cách này có thể thực hiện được! Ngõa Thích đã đem hết quân tinh nhuệ vào xâm lược Đại Minh, trong nước chắc chắn sẽ trống không. Chúng ta men theo con đường Nam tiến của Ngõa Thích, đi thẳng về Bắc, chắc chắn sẽ đánh cho chúng trở tay không kịp. Chỉ cần chúng ta hành quân thần tốc, đánh mạnh đánh chuẩn, đại quân Ngõa Thích buộc phải quay về cứu nước, vậy thì Đại Đồng sẽ được giải vây. Đây chính là kế sách vây Ngụy cứu Triệu!”
“Nhưng mà… quân ta đơn thương độc mã xâm nhập vào thủ phủ của Ngõa Thích, hậu cần sẽ phải bảo hộ thế nào?” Một thiên hộ ngờ vực hỏi.
“Học tập người Ngõa Thích thôi.” Triệu Văn Hổ chỉ vào bản đồ: “Dọc đường đi lên phía Bắc có không ít điểm định cư của dân du mục Ngõa Thích, chúng ta có thể bổ sung lương thảo tại đó, lấy chiến đấu để nuôi chiến đấu.”
Các tướng nhìn bản đồ im lặng không nói, hồi lâu mới có người lí nhí: “Nếu đại quân Ngõa Thích quay về cứu viện, Tân Quân Doanh… e rằng toàn quân sẽ bị tiêu diệt, vùi thây ở hoang nguyên Mạc Bắc mênh mông ấy.”
Các tướng lại đổ đồn mắt về phía Vân Tương. Chỉ thấy Vân Tương gật đầu nặng nề: “Tân Quân Doanh một khi đánh vào thủ phủ của Ngõa Thích, thì sẽ trở thành một đội quân cô độc, trong không có lương thảo, ngoài không có cứu viện, bị mấy chục vạn đại quân Ngõa Thích đánh đuổi, bao vây, ngăn chặn. Muốn trở về, e rằng khó hơn lên trời.” Nói tới đây, Vân Tương nhìn bản đồ thở dài một tiếng: “Có điều, đây là nước cờ hiểm duy nhất có thể cứu nguy cho Đại Đồng, nếu chúng ta không mạo hiểm để xoay chuyển càn khôn, một khi Đại Đồng thất thủ, cánh cửa vào Trung Nguyên mở ra, không biết sẽ có bao nhiêu lê dân bách tính phải chịu đau khổ trong chiến tranh, không biết bao nhiêu người vô tội sẽ ngã dưới đồ đao của quân Ngõa Thích.”
Nói tới đây, Vân Tương quay sang chúng tướng: “Đây là cuộc mạo hiểm chín phần chết một phần sống, vì vậy ta cũng không ép các ngươi. Nếu có ai muốn rút lui, ta sẽ để y ở lại, trợ giúp quân trấn thủ bảo vệ Đại Đồng. Ta chỉ cần những dũng sĩ thật sự, theo ta thực hiện chuyến Bắc phạt có thể ghi vào sử sách lần này!”
Lời vừa dứt đã nghe Triệu Văn Hổ trầm giọng nói: “Nghĩ lại năm xưa hoàng đế Vĩnh Lạc sáu lần chinh phạt Mạc Bắc, đánh cho người Ngõa Thích nghe tên là khiếp đảm phải chạy trối chết, sảng khoái làm sao! Hiếm khi công tử hùng tâm như vậy, lại tiến hành Bắc phạt lần nữa, mạt tướng nguyện thề chết đi theo! Hảo nam nhi phải chết nơi chiến trường, da ngựa bọc thây, lưu danh sử sách!”
Các tướng biết rõ dù ở lại Đại Đồng, một khi phá thành cũng khó tránh cái chết. Sau một hồi chần chừ đắn đo đều nhao nhao nói: “Mạt tướng nguyện đi theo công tử, Bắc phạt Ngõa Thích!”
“Được! Lập tức tập hợp quân đội, ta sẽ duyệt quân lần cuối cùng!” Vân Tương vừa dứt lời thì thấy rèm trướng bị vén lên, một viên tướng đeo khăn tang bất chấp sự ngăn cản của lính gác, xông thẳng vào trong, trợn mắt nhìn Vân Tương hỏi: “Họ Vân kia, Tân Quân Doanh Bắc phạt đánh Ngõa Thích, tại sao lại bắt thống lĩnh ta phải ở lại Đại Đồng?”
Nhìn Võ Thắng Văn đang chìm trong nỗi đau mất cha, Vân Tương không biết nói gì. Lần trước điều y từ Hổ Bôn Doanh đến Tân Quân Doanh và lần này để y lại Đại Đồng kỳ thực đều chỉ có một lý do, y chính là phu quân của Minh Châu. Vì Mình Châu, gã không muốn Võ Thắng Văn gặp chuyện gì bất trắc, có điều chút lòng riêng này, Vân Tương dù thế nào cũng không thể nói ra được.
“Võ tướng quân bớt giận.” Vân Tương lựa lời: “Bảo vệ Đại Đồng, trách nhiệm cũng rất to lớn. Hiện giờ Võ soái đã hy sinh vì nước, sĩ khí quân phòng thủ ở Đại Đồng suy giảm, còn tướng quân lại có uy vọng trong quân Trấn Tây, vì vậy ta hy vọng tướng quân có thể ở lại giữ thành.”
Võ Thắng Văn đập bàn nói: “Phụ soái ta chết thảm trong tay địch, ta chỉ hận không thể dẫn quân san bằng Ngõa Thích, ngươi lại bảo ta làm rùa rút đầu ở Đại Đồng mặc cho bọn chó Ngõa Thích sỉ nhục? Ta là thống lĩnh của Tân Quân Doanh, Tân Quân Doanh có bất cứ hành động nào cũng không thể gạt ta ra. Nếu ngươi để ta ở lại, ta sẽ lệnh cho Tân Quân Doanh hủy bỏ hành động lần này.”
Vân Tương tuy có lệnh phù của Võ Diên Bưu, nhưng thân phận chỉ tương đương với giám quân, không có quyền lực như chủ tướng cầm binh. Bởi vậy khi Võ Thắng Văn kiên quyết đòi theo, gã trầm ngâm một lúc lâu, cuối cùng đành gật đầu nói: “Vậy được, xin Võ tướng quân hãy tập hợp tướng sĩ toàn doanh trại, lên đường Bắc phạt!”